Pages
▼
Saturday, November 30, 2019
Trung Quốc Ngày Nay Qua Cái Nhìn Của Một Người Tàu - Nguyễn Thị Cỏ May (Danlambao)
Thật may mắn – thật tình phải nói như vậy –
còn không ít người Việt nam nơm nớp lo sợ nước Việt Nam rồi đây sẽ mất để trở
thành một nước Tàu. Thế giới đang lo đối phó nạn bành trướng hết tốc lực và
toàn diện của Tàu nhằm làm chủ thế giới. Vụ bắt bà Meng Wanzhou, Giám đốc tài
chánh của Công ty Huawei, đúng là một cú đá giò lái quá nặng của Mỹ đối với Tàu
trong chánh sách chạy đua thực hiện bá quyền của Tàu.
Tựa quyển sách của 2 nhà nghiên cứu người
Pháp chuyên về chánh trị Tàu, Sophie Boisseau du Rocher và Emmanuel Dubois de
Prisque (Odile Jacob, Paris, 2019) được tác giả trình bày dưới dạng chơi chữ “Tàu
v(L)à thế giới” (La Chine e(S)t le monde – La Chine ET=VÀ nhưng có thêm S, đọc
nguyên chữ EST=LÀ, động từ).
Nếu có người Việt Nam muốn viết một cuốn
sách về sách lược bành trướng của Tàu, tưởng cuốn sách đó cũng nên có cái tựa
viết giống như vậy, cùng cách chơi chữ, là “Việt Nam v(L)à Tàu” để báo động
cho những người chưa thấy, chưa biết quốc nạn, không đọc sách mà chỉ thấy cái tựa
thì cũng hiểu chuyện. Hiểu mối nguy sanh tử của Tàu đối với Việt Nam.
Tàu dưới con mắt thế giới
Huawei không chỉ là nhà sản xuất thứ hai
trên thế giới về trang thiết bị viễn thông và smartphone mà đó thật sự là võ
khí hàng đầu của chiến lược bá quyền của Tàu. Huawei nuôi tham vọng sẽ thay thế
công nghệ Mỹ và, với tất cà phương tiện, sẽ nắm giữ vai trò chủ đạo của ngành
này. Và đang tập trung vào 5G, không chỉ chiếm thị trường, mà nhằm chủ động và
kiểm soát được thông tin về kỹ nghệ, về hoạt động của chánh phủ các nước, các
thành phố, giao thông, các dịch vụ, ngân hàng,… Và nhứt là vũ khí. Tóm lại, kẻ
thắng sẽ làm chủ thế giới. Giữa Mỹ và Huawei là cuộc chiến sanh tử. Nhưng với Bắc
Kinh không chỉ có 5G phải đạt cho được mà là quyết tâm làm chủ trọn vẹn thế giới.
Sách lược tấn công thế giới của Tàu thật sự
đã bắt đầu từ mười năm qua. Trước đây, Bắc Kinh còn giữ lời dạy của Đặng Tiểu-bình
“Từ từ và giữ thế khiêm tốn” nhưng cuôc khủng hơảng kinh tế năm 2008 đã
làm cho Tây Phương chao đảo, Bắc Kinh vội nắm ngay thời cơ, leo lên ngôi vị bá
chủ.
Năm 2012, Xi Jinping nắm quyền, thay đổi
chiến lược. Xi muốn kết hợp 2 nền độc tài – ngàn năm quân chủ và triều đại cộng
sản – tiến lên tuyên bố nay là thời điểm “phục hưng nước Tàu”, một chánh sách
xâm chiếm không giới hạn: chiếm Biển Đông, Bắc Cực, kiểm soát mười hải cảng có
khả năng đón tiếp hải quân Tàu, tạo mười quốc gia chư hầu do ràng buộc về thương
mại như thời đế quốc Tàu.
Trên mặt trận ngoại giao và đối với những cơ
chế quốc tế, Tàu đã thoát khỏi cách ứng xử củ, sai khiến những chánh phủ chịu ảnh
hưởng của mình để lũng đoạn những nguyên tắc nền tảng của Liên Hiệp Quốc, xâm
nhập vào khối Liên Âu, mua chuộc một số quốc gia nhỏ bị kinh tế khủng hoảng để
phá thế đoàn kết của Liên Âu, bảo vệ quyền lợi của Tàu, chống lại những tấn
công nhơn quyền,…
Để thực hiện kỷ niệm 100 năm ngày lập đảng
Cộng Sản và 100 năm ngày khai sanh nước Công Hòa Nhơn Dân Trung Hoa, Bắc Kinh bắt
đầu bằng cách tỏ ra mình là một cường quốc hào phóng, có một hệ thống quyền lực
vượt trội hơn những chế độ dân chủ Tây Phương, có khả năng đem lại sự tăng trưởng
và sự ổn định. Tàu sẵn sàng mời những nhà lãnh đạo chánh trị các nước tới tu
nghiệp, đều được hậu đãi, thanh niên ưu tú, ký giả, tới làm việc, tu nghiệp, được
thù lao rộng rãi. Đồng thời, họ còn tài trợ cho hàng ngàn trung tâm nghiên cúu
(think tank) trên thế giới. Hiện tại, Tàu có 350 000 sinh viên học ở Huê Kỳ và
35 000 ở Pháp, số tiền sinh viên đóng cho các đại học sẽ có khả năng làm cho
các đại học ấy phải bỏ những môn mà Xi Jinping không hài lòng.
Một người Tàu nhìn Trung Quốc
Dưới cái nhìn của thế giới, Tàu không còn
là một thách thức mà là mối nguy đang thật sự hăm dọa an ninh thế giới, nhứt là
đối với Tây Âu và những giá trị của nó. Thế mà trong lúc đó, Tàu khoe khoang sự
phát triển của họ hoàn toàn hòa bình và nhứt là trong DNA của họ không có chứa
mầm chiến tranh. Nhưng ngân sách quốc phòng của Tàu tăng trưởng mau hơn sản lượng
nội địa (PIB).
“Một người Tàu” nhìn Trung Quốc muốn nói
trên đây là nhà văn Dai Sijie hiện ở bên Tàu để vận động tài chánh thực hiện bộ
phim của ông, đồng thời ông cũng cho ấn hành ở Paris quyển truyện nói về cuộc đời
của ông nội của ông.
Trong cách mạng văn hóa, ông là cậu bé mười
tuổi và đã bị mọi người ghét, coi ông là người tội hình sự vì có ông nội là mục
sư Tin Lành. Năm 1949, khi Cộng Sản chiếm trọn nước Tàu, ông nội của ông làm mục
sư đang điều hành một cô nhi viện. Đó là trọng tội.
Sau năm 2011, Dai biến mất khỏi Pháp. Ông
trở về Tàu nơi ông mô tả như một nước dễ thương một cách trung bình. Nhận xét nổi
bật của ông là ở Tàu có lối “1% những người sống không sống chỉ vì tiền.
Ngày nay, tiền trở thành cái đạo của người Tàu. Ông thấy một tỷ người Tàu thay đổi:
trước kia, mọi người đều là cách mạng và ông đã sống trong xấu hổ vì ông thuộc
gia đình một mục sư trong lúc những người khác thuộc gia đình thợ thuyền, nông
dân, binh sĩ,… Nhưng ngày nay, nếu ai không kiếm được tiền mới là người đáng lấy
làm xấu hổ”.
Ở Tàu, Dai có thể chạy ra tiền để làm phim
nhưng ông không thể xin được giấy phép để in và phổ biến những tác phẩm của ông
ở đó. Từ nhỏ đã mang đức tin Thiên Chúa Giáo, ông cứ nghĩ tới đời sống của
Christ và ông nội của ông, người giúp đỡ rất nhiều cho người nghèo khổ và bản
thân cũng bị đau khổ nhiều. Vậy phải chăng đó là hai điều song song với nhau?
Ông nhớ lại cảnh bị đấu tố, người trong gia đình tố nhau với Hồng Vệ Binh,… Ông
nhớ lại cha mẹ của ông, nguyên là y sĩ, bị cách mạng giam ở một nơi khác. Cảnh
tịch thâu nhà cửa, của cải, khám xét, vô cùng khủng khiếp.
Một hôm vừa đi học về, Dai nghe những tiếng
hò hét lớn, sỉ vả ông nội của ông là một tên nô lệ Tây Phương, tên phản quốc, một
tên gián điệp. Ông còn nhớ ông nội của ông quì trên một bục cao, rồi có một Hồng
Vệ Binh đá ông nội của ông làm cho ông té nhào xuống. Ông ngất liệm đi như chết.
Mọi người chỉ đứng nhìn, không ai tới giúp đỡ. Rồi bỏ đi.
Cơn ác mộng hết sau khi Mao chết. Ngày nay,
ở Tàu, Dai nhận thấy một điều lạ, không biết có phải là sự nghiệp của Mao để lại
hay không, đó là ở Tàu có cả 100 triệu người Thiên Chúa Giáo. Không phải như ở
Pháp, mà đó là những người giáo dân thuần thành, thật sự hành đạo, sống đời sống
đạo nghiêm túc.
Trước kia, dưới thời Mao, ông nội của Dai cầu
nguyện, đọc kinh trong bóng tối vì không dám đốt đèn. Ngày nay, tín đồ đi nhà
thờ, nhà nguyện. Nhưng vẫn còn điều bị chế độ, tuy không còn Mao, cấm kỵ, đó là
không được phép truyền đạo.
Dai không xin được phép in sách của ông ở
Tàu vì sách viết bằng tiếng Tàu và trong sách, nhắc lại ông nội là một mục sư.
Như vậy là phạm tội tuyên truyên tôn giáo.
Truyện của Dai đem thực hiện phim. Nhờ nhiều
bạn bè làm điện ảnh, tài tử nổi tiếng vận động xin phép. Việc xin phép có thể được
chấp thuận nhưng với điều kiện nhơn vật là mục sư phải thay đổi, như làm giáo
viên, cán bộ, …
Ngày nay, nước Tàu phát triển, là cường quốc
thứ nhì của thế giới. Dân Tàu đông đảo đi ra nước ngoài. Nhưng những thứ cộng sản
đặc sệt vẫn còn nguyên và ở khắp nơi. Đó là tổ chức và quyền lực. Người ta thât
sự không ai nói tới “độc tài” nhưng mọi thứ quyền lực đều nằm trong tay của một
đảng duy nhứt.
Mọi người ai cũng đều có thể làm giàu nhưng,
với điều kiện phải được đảng Cộng Sản ok. Mọi người đều có thể làm chuyện mình
muốn, nhưng trước hết phải chờ đảng quyết định. Trong những xí nghiệp tư, phải
có những đơn vị đảng dòm ngó dùm.
Tàu là nước tư bản nhưng đảng Cộng Sản mạnh
hơn, nó kiểm soát tất cả, cả tư tưởng, cả mọi phản ứng tâm lý của dân.
Tuy nhiên có những chuyện mà cái đảng cực mạnh
đó không thể kiểm soát được, không can thiệp được, nó chịu bất lực, đó là bịnh
hoạn, chết. Những người lãnh đạo đảng như Xi, như Lý, như bịnh, chết, đảng Cộng
Sản toàn quyền, triệt để, toàn diện, cũng chịu thua thôi.
Lúc Trẻ Cứ Tưởng
1. Lúc trẻ, tưởng khóc
là buồn. Bây giờ phát hiện buồn nhất là không thể khóc được, cứ trống rỗng, tỉnh
táo và vô hồn.
2. Lúc trẻ, tưởng
cười là vui. Bây giờ nghĩ lại, có những giọt nước mắt còn vui hơn cả một trận
cười.
3. Lúc trẻ, tưởng
đông bạn là hay. Bây giờ mới biết vẫn chỉ có mình mình.
4. Lúc trẻ, tưởng
cô đơn ở đâu xa lắm, chỉ đến ở những chỗ không người. Bây giờ mới hiểu, lúc bên
nhau, sự ấm áp mới thật mong manh, mà nỗi cô đơn sao lại gần gũi thế.
5. Lúc trẻ, tưởng
yêu là tất cả, là mọi thứ. Lớn lên mới biết, sau yêu còn có chia tay.
6. Lúc trẻ, tưởng
thành người lớn là lớn, bây giờ đã thấy có nhiều người lớn mà vẫn chưa thành
người lớn, và đến khi thật sự thành người lớn thì người ta sẽ biết không bao giờ
bé trở lại được.
7. Lúc trẻ, tưởng
đóng đinh thì đóng đinh, không thích thì có thể nhổ. Bây giờ cảm nhận được đinh
có thể nhổ nhưng vết sâu vẫn còn.
8. Lúc trẻ, tưởng
mình có thể thay đổi cả thế giới. Giờ đây thấy được ngay cả một người còn chẳng
có khả năng, có chăng vẫn chỉ là tự thay đổi mình.
9. Lúc trẻ, tưởng
yêu một người thì dễ, quên một người mới khó. Giờ thấy mình quên đi nhiều người
cũng dễ dàng,nhưng để yêu mới khó làm sao.
10. Lúc trẻ,
thích định nghĩa về tình yêu, tình yêu là X, là Y, là A,B,C,D. Bây giờ lớn rồi lại
cuống cuồng vì hoang mang không biết tình yêu thật sự là gì cả.
11. Lúc trẻ,vẫn
nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi,tình yêu là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời.
Giờ thì biết yêu đến đó rồi đi đó, như mưa bóng mây,hay dù có như chớp bể mưa
nguồn thì cũng vậy,có đó rồi mất đó. Và thực sự cũng chẳng biết thứ gì là quan
trọng nhất.
12. Lúc trẻ,
tưởng chỉ có kẹo là ngọt. Giờ lớn lên mới biết có nhiều thứ còn ngọt ngào hơn
cả kẹo.
13. Lúc trẻ, rất
sợ phải chết. Nhưng bây giờ lớn khôn mới biết, sự lãng quên còn đáng sợ hơn cái
chết rất nhiều.
14. Lúc trẻ,
tưởng tượng rất nhiều. Giờ đây khi lớn lên mới biết chuyện cổ tích không bao
giờ có thật.
15. Lúc trẻ, Mẹ
nói yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại. Giờ lớn lên chợt nhận ra, có
những yêu thương chỉ cho mà không nhận.
16. Lúc trẻ, mong
mình lớn. Giờ đây lớn lên rồi sao mong mình bé lại quá chừng.
17. Lúc trẻ,
tưởng yêu một người là sống vì người đó. Giờ mới biết yêu một người là phải
biết tự yêu lấy mình.
18. Lúc trẻ,
tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm. Giờ mới biết nó chỉ cách nhau một
lằn chỉ mong manh.
19. Lúc trẻ,
tưởng nói dối là xấu, giờ mới biết lời nói dối đôi khi cũng giúp ích rất nhiều.
20. Lúc trẻ,
tưởng trung thực là điều tốt. Giờ mới biết sống trung thực với mình thôi cũng
là điều khó khăn biết bao.
21. Lúc trẻ,
tưởng những gì đến rồi sẽ đi. Giờ mới biết niềm vui đến thì qua mau,còn nỗi
buồn đến thì cứ ở bên ta mãi.
22. Lúc trẻ, tưởng
sau tình yêu sẽ là hôn nhân. Giờ mới biết có những cuộc hôn nhân không cần tình
yêu.
23. Lúc trẻ, cứ
nghĩ "tiền bạc, tình yêu rồi mới đến sức khỏe ". Về già rồi mới khám
phá ra sự đảo ngược "sức khỏe, tiền bạc rồi mới đến tình yêu "
24. Lúc trẻ,
tưởng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm. Giờ mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản
là những thứ bình dị xung quanh ta,có chăng là mình đã không nhận thấy.
25. Lúc trẻ,
tưởng nói quên là quên được. Giờ mới biết,có những chuyện càng muốn quên thì nó
lại càng ở mãi trong lòng.
26. Lúc trẻ, cứ
mơ ước lớn lên rồi sẽ trở thành người này người kia. Về già mới biết "được
trở thành chính mình mới là điều hạnh phúc nhất "...
Sưu tầm
Sưu tầm
Friday, November 29, 2019
Mảnh Đời Phiêu Bạt! - Đoàn Xuân Thu
Bãi đậu xe khu công nghiệp Waterglade ở
Grays phía Đông thủ đô London nước Anh, lúc 1giờ 40 phút sáng, ngày 23, tháng Mười, năm 2019, các nhân
viên cấp cứu đã tìm thấy thi thể của 31 người đàn ông và 8 phụ nữ trong một ‘container’
dùng để chở hàng đông lạnh.
Khi mở cửa ‘container’, nhiệt độ xuống đến
trừ 25 độ C, nhân viên cấp cứu thấy ‘hàng chục xác người nằm chồng chất lên
nhau’. Những người bị nhốt trong container, có thể đã đập tay dữ dội vào cánh cửa
muốn được thoát ra đã để lại những dấu tay đẫm máu.
Cảnh sát Anh được gọi tới để mở cuộc điều
tra. Thi thể 39 người xấu số nầy được chuyển tới Broomfield Hospital ở
Chelmsford để khám nghiệm hậu tử, xác định nhân thân và tìm ra nguyên nhân chết
trong cái thảm kịch đã làm cả thế giới rúng động suốt cả tuần nay.
Cảnh sát Anh cho biết tiến trình nầy phải
mất khá nhiều thời gian nhưng rất quan trọng. Nhằm bảo vệ danh dự của các nạn
nhân và tôn trọng nỗi buồn đau của thân nhân những người đã khuất.
Viên tài xế đầu xe kéo, chỉ mới 25 tuổi,
và 3 người nữa ở Bắc Ái Nhĩ Lan, đã bị Cảnh sát thẩm vấn, sau đó được tại ngoại
hầu tra, chờ ra Tòa về 39 tội ngộ sát và tội buôn người.
***
Thủ tướng Anh, Boris Johnson, gọi đây là
“thảm kịch kinh hoàng”. Và Amos Kyahurwa, 40 tuổi, người đã bị bức hại
về giới tính thứ ba, đã trốn khỏi đất nước Uganda của mình, vượt bao khó khăn bằng
cách trốn trong thùng xe đông lạnh may mắn vào được nước Anh để xin tị nạn. “Khi nghe tin, tôi đã khóc khi nghĩ về
những người đã thiệt mạng!”
Ngay ngày hôm sau, người dân Anh chắp
tay cầu nguyện dưới ánh nến lung linh để tưởng niệm. Họ mang những bó hoa, những
tấm thiệp ghi lời chia buồn gửi tới gia đình những người xấu số. Và kêu gọi đừng
đổ lỗi cho những người tầm trú.
Trước những cái chết thương tâm nầy, họ
không có lỗi gì cả. Vì ai cũng trân quý một đời để sống, có quyền được chọn
cách sống thế nào, và sống ở đâu; nên đừng phán xét, ngưng trách móc hoặc dạy bảo
những người đã khuất tại sao không như làm thế này hoặc làm như thế kia!
***
Câu hỏi đặt ra là: “Tại sao nước Anh lại là miền đất hứa của những mảmh đời phiêu bạt?”
Có lẽ vì dân Anh tôn trọng sự riêng tư, ít chỏ mũi vào đời tư của người khác,
cư xử bao dung với người nhập cư, ít khi mật báo với Cảnh sát để bắt họ.
Dân Anh (cũng như dân Úc) không có căn
cước, chỉ cần có bằng lái xe xài trong nước; ra nước ngoài mới cần đến sổ thông
hành! Và luật pháp nước Anh không buộc người dân phải mang bất kỳ giấy tờ tùy
thân nào khi ra đường; nên sống bất hợp pháp cũng không phập phồng lo lắng như
những nước khác thuộc khối Liên Âu.
Thường thường thì người tị nạn, người nhập
cư, từ khắp nơi trên thế giới bằng nhiều cách khác nhau, đến những bãi xe hàng ở
thành phố cảng Calais, nước Pháp, đầu bên này của đường hầm xuyên qua eo biển
Manche, nối liền Anh với đại lục Châu Âu. Nơi đó, họ sống lay lắt, tạm bợ trong
những lều lán trong rừng để chờ cơ hội vượt biên vào Anh.
Đêm xuống, từng tốp người lẻn vào, tìm
các chuyến xe sẽ sang Anh, rạch bạt chui vào nằm im lẫn giữa hàng hoá; hoặc cắt
kẹp chì chui vào những thùng ‘container’.
Nếu có tiền trả cho tài xế và may mắn vượt
qua trạm kiểm soát biên giới, sang đến đất Anh, tài xế sẽ dừng ở một cây xăng
hay một trạm nghỉ chân nào đó cho hành khách xuống.
Mỗi ngày có hàng trăm ngàn ‘container’,
nước Anh không thể đủ nguồn lực để kiểm tra tất cả. Cho dù dùng công nghệ tiên
tiến để phát hiện khí CO2 do con người thở ra hay dùng cảnh khuyển để đánh hơi
người.
***
Khi mở chiếc ‘container’ tử thần, cái
quan tài di động kia ra, Cảnh sát và giới truyền thông Anh quốc căn vào tóc đen,
da vàng mà tạm thời nhận định các nạn nhân (không có một mẫu giấy tùy thân) là
người Trung quốc!
Vì hình ảnh kinh hoàng đó gợi nhớ cái thảm
kịch tương tự đã xảy ra vào ngày 18, tháng Sáu, năm 2000 tại hải cảng Dover làm
chết 54 người đàn ông và 4 phụ nữ!
Phóng viên của CNN hỏi: “Tại sao Trung
quốc, một đất nước có nền kinh tế hung mạnh đứng hạng nhì, chỉ sau nước Mỹ, mà
người dân lại tiếp tục bỏ nước trốn ra đi?” Thì thay vì phân tích câu hỏi để trả
lời một cách thuyết phục công luận thế giới, phát ngôn viên Hoa Xuân Oánh của Bộ
Ngoại giao Trung Quốc lại nói: phóng viên của hãng truyền thông CNN kiếm chuyện.
Tờ Hoàn Cầu Thời Báo của nhà nước CS Trung
Quốc nhảy vô, đổ lỗi: nước Anh phải chịu phần nào trách nhiệm về những cái chết
này!
Tàu cộng, theo truyền thống xưa giờ, là chối
bỏ ngay cái trách nhiệm của chính mình!
***
Việc xác định nhân thân của 39 người xấu
số nầy vẫn phải chờ Cảnh sát nước Anh chánh thức công bố. Tuy nhiên một số làng
quê ở Nghệ An và Hà Tỉnh đang chìm trong tang tóc!
Những bàn thờ vọng; những chân dung của
người trẻ tuổi có đính ngang một dãi băng tang; những buổi cầu nguyện trong
giáo đường vì có nghi vấn rằng trong số 39 người đã chết đó có rất nhiều người
Việt Nam.
Nỗi đau thương ngập tràn, ràn rụa nước mắt
trên những khuôn mặt héo khô, trong phập phồng lo lắng đợi hung tin; vậy mà nỡ
lòng nào trên những tờ báo quốc doanh trong nước lại đăng nhưng lời phê phán rất
tàn nhẫn là: “Ở Việt Nam thiếu gì cơ hội
học tập và làm việc để kiếm sống thì việc gì phải khổ cực và chui lủi vậy? “Vì
cơm áo gạo tiền mà phải đánh đổi cả mạng sống như vậy có đáng không?
Rồi có người nói: “Đau xót quá! Mong có sự nhầm lẫn nào, hy vọng không phải người Việt
?”
(Người nước nào cũng là con người; cũng
là nạn nhân mà đã là nạn nhân thì không có lỗi, ai cũng đáng thương xót như
nhau cả mà thôi!).
Có người còn nhẫn tâm hơn, phê phán rằng:
“Đi bất hợp pháp, trả giá bằng tính mạng,
rồi làm ảnh hưởng tới uy tín của người Việt (?).
(Trời ạ! Uy tín của người Việt nào ở
đây?)
***
Theo ông Gareth Ward, Đại sứ Liên hiệp Vương quốc Anh
và Bắc Ireland, cho biết người Việt là nạn nhân của tội ác mua bán người và nô
lệ hiện đại cao nhất tại Anh, chỉ xếp sau nước Albania.
“Những người nước
khác do bị dụ dỗ, chèn ép, áp bức để tới nước Anh làm nộ lệ thì người Việt Nam
lại tự nguyện ra đi bất hợp pháp; giao phó số phận của mình vào tay bọn tội phạm
quốc tế với giấc mơ về một miền đất hứa, kì vọng về cơ hội đổi đời về kinh tế
cho bản thân và gia đình mình!”
Đã làm tới chức Đại sứ một nước lớn, dĩ nhiên ông biết
nhiều hơn thiên hạ. Lý giải của ông cũng đúng chớ hổng phải sai. Nhưng chỉ đúng
có phân nửa. Nhưng nửa ổ bánh mì là bánh mì; còn phân nửa sự thực, còn hơn là dóc
tổ, vì định hướng sai công luận”. Hay là vì làm nghề ngoại giao, dẫu có những
điều ông biết mà không thể nói thẳng ra chăng?
Những người đang độ tuổi thanh xuân đó, vốn là rường cột
của gia đình, của xã hội, là tương lai của một đất nước tự do. Một đất nước mà
người dân làm việc chăm chỉ rồi mong thành quả đạt được, đem phân phối lại cho
mình một cách công bằng, (dù chỉ là tương đối), thì chắc là không một ai nỡ lòng,
cam tâm bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ làng quê, xứ sở, nơi có cha mẹ, anh em, vợ con, người
yêu hoặc bè bạn để dấn thân vào còn đường gian nan ít may nhiều rủi.
Hành trình ác mộng từ Việt Nam qua Trung Quốc, rồi cả hằng
tháng trời lang thang trong cái lạnh giá ở Nga, Ba Lan, Đức, Pháp và cuối cùng
là trốn trong thùng xe tải vượt biên giới từ Pháp sang Anh để rồi chết vì quá lạnh,
vì thiếu không khí trong thùng xe.
Nếu may mắn đến được nước Anh, thì bị giới chủ nhân,
các băng đảng, dựa nỗi lo sợ bị chính quyền bắt bớ, để bốc lột tàn tệ sức lao động,
trả cho họ những đồng lương rẻ mạt và ép họ làm việc quần quật, vì biết không
ai dám kêu ca hay tố giác!
Những di dân bất hợp pháp nầy trở thành nô lệ thời hiện
đại (theo cách nói của phương Tây)!
***
Những người bỏ nước đã ra đi nầy có biết không? Biết
nhiều và biết rõ hơn các chánh trị gia phương Tây nhiều. Vì họ là người trong
cuộc. Thời buổi của ‘internet’, của thông tin toàn cầu nầy, và dựa vào kinh
nghiệm của những người đi trước thì những điều mình cần biết đâu có khó khăn
chi?
Nhưng tại sao họ lại chọn cách ra đi? Trong chín từng
địa ngục, ông Đại sứ đang ở tầng cuối cùng, nếu có thể đi đến một tầng địa ngục
khác đở hơn thì ông Đại sứ có đi không? Họ ra đi; vì không còn mảy may còn sót lại
chút lòng tin nào về chế độ đang cầm quyền. Họ ra đi vì tuyệt vọng ở tương lai!
Xin đừng lập lờ đánh lận con đen giữa chế độ và đất nước.
Cứ ra rả là: “Đừng hỏi đất nước đã làm gì
cho bạn mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho đất nước?” Câu hỏi nầy nên dành giới cầm
quyền cai trị dân mới phải.
***
Khuya đêm thứ Ba, ngày 23, tháng Mười, năm 2019 định mệnh
đó, có một người còn rất trẻ, mới 26 tuổi, tên Phạm Thị Trà My ở thị trấn
Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam, qua ‘facebook’, gởi những lời
trăn trối bi thương trong giờ phút cuối cùng là: “Con xin lỗi Bố Mẹ nhiều Mẹ ơi. Con đường đi nước ngoài đã không thành.
Con thương Bố Mẹ nhiều. Con chết vì không thở được!”
Lời trăn trối bi thương của một người con gái Việt Nam,
một trong những mảnh đời phiêu bạt, làm rúng động thế giới, mà có người cứ hỏi nhưng
cái chết tức tưởi nầy là do lỗi tại ai?
Tại nhà cầm quyền CS chớ còn tại ai vô đây nữa?
Đoàn Xuân Thu
Melbourne
Người Việt Và Triết Lý "Giàu Nhanh, Đi Tắt, Gồm Cả Phá Hoại" - Vương Trí Nhàn
Qua câu chuyện 39 người thiệt mạng
tại Anh, tôi thấy nổi lên nhiều vấn đề có liên quan đến đến toàn thể
cộng đồng Việt hiện nay, trước tiên là câu chuyện cách kiếm sống của con
người và triết lý ẩn sau cách kiếm sống đó.
Cụ thể là người Việt
hiện rất kém về mặt nghề nghiệp để tạo nên năng suất lao động cần thiết
trong khi đó nhu cầu có một cuộc sống tiện nghi lại quá mạnh mẽ và
quyết liệt, khiến cho người ta sẵn sàng làm bậy kiếm tiền, những người
vốn ngại ly hương thì sẵn sàng ra đi tìm cách kiếm ăn ở nước ngoài dù
đôi khi phải đổi lấy mạng sống.
Mà có thoát chết chăng nữa thì tuy có một cuộc sống bề ngoài đầy đủ về mặt vật chất nhưng thật ra trong đó bao giờ cũng không thiếu những yếu tố của sự đau khổ .
Nên
biết thêm tình trạng kém cỏi về mặt nghề nghiệp là tình trạng của người
Việt trong lịch sử nó khiến cho một quyển sách như "Cuộc nổi dậy của nhà
Tây Sơn" đã viết đại ý 1/3 ba người dân ở đây là kẻ cướp, 2/3 còn lại
sống dưới mức nghèo khổ
Qua đó cho thấy chiến tranh đã tàn phá xã hội Việt Nam như thế nào cụ thể là làm hỏng con người Việt đi như thế nào.
Tôi
cũng cần thấy thêm là trong việc kiếm sống hiện nay có một triết lý phổ
biến ngấm ngầm chi phối người Việt "chỉ có những việc không làm được
chứ không có những việc không được làm"
Đây cũng là dấu hiệu của sự tàn phá con người về mặt đạo đức do chiến tranh mang lại.
Nó khiến chúng ta rất khó hội nhập với thế giới hiện đại.
Về
trình độ kiếm sống của người Việt và cái triết lý đi kèm với tình trạng
này tôi đã từng viết nhiều lần, lần cuối là trên blog của tôi tháng
2/2018:
Kiếm sống chỉ là cách nói
nôm na của khái niệm " trình độ sản xuất " của một xã hội. Trong bài này
tôi muốn đi từ hoạt động của những người dân mà nghĩ dần lên tới các
vấn đề tồn tại của xã hội. Đề tài quá rộng và cũng là quá sức với bản
thân, tôi đưa ra ở đây với ý nghĩ" nếu không phải chúng ta thì ai sẽ
nghĩ thay ta đây" và rất mong các bạn cùng nghĩ.
Kiếm sống bằng mọi giá
Thời
tiết oi ả, đang nóng bỗng lạnh đang lạnh bỗng nóng, nhiều nhà đêm trước
vừa mở điều hoà, đêm sau đã phải lôi chăn mùa rét ra đắp, khí trời năm
nay ở đồng bằng sông Hồng độc quá!
Chẳng những con người nhoai ra
mà đến cả các giống vật cũng khó sống: ở vùng ngoại ô tôi đang ở, sáng
sáng trên mặt hồ vô khối cá chết nổi lềnh bềnh.
Có cá chết là có người đi vớt, bởi thứ cá này đun lên còn cho lợn cho chó ăn được.
Mấy người dạy sớm lại chuẩn bị sẵn vợt, cá vớt được dễ đến cả rổ.
Đến lượt một ông già nọ, lộc giời chẳng còn bao nhiêu, đi lui đi tới ngắm nghía mãi mới thấy một hai con sót lại.
Cá thì nằm khá xa mà trong tay ông không có lấy một cái que cái sào nào cả. Nhưng ông không chịu.
Thoạt đầu thấy ông nhặt gạch hòn to hòn nhỏ vun thành đống lùm lùm tôi chưa hiểu để làm gì. Bỗng nghe tũm tũm gạch ném xuống nước, thì ra ông lấy gạch để lái cho cá trôi dần vào bờ. Liên tiếp, có đến vài chục viên gạch được sử dụng. Khi mùi cá chết nồng nặc xông lên thì cũng là lúc tôi nghe cái túi nilon trong tay ông gìa sột soạt.
Có thế chứ. Thoát
làm sao được khỏi tay ta, hỡi những chú cá không biết mới chết đêm qua
hay từ hôm kia mà thân hình đã mủn cả ra trên mặt nước.
Tôi đứng
nhìn ông già lấy gạch dồn cá mà nghĩ đến cách kiếm sống của con người
hiện nay. Nào ông có khác với nhiều thanh niên trai trẻ háo hức vào đời,
nhất là những thanh niên nông thôn đang đổ lên đô thị:
- Tay trắng lập nghiệp.
- Nghề ngỗng chẳng có.
- Đồ nghề không tức là công cụ không.
- Có miếng ngon miếng sốt thì lớp người đi trước dành hết cả rồi.
Thành thử có gì là lạ khi họ chỉ còn cách lăn xả vào bất cứ việc
gì người ta thuê mướn dù là mồ hôi đổ ra nhiều mà đồng bạc thu về chẳng
khác mấy con cá trôi nổi trên mặt hồ.
Trách họ thì oan cho họ quá.
Thế nhưng cái đáng sợ nhất vẫn là cái "triết lý" toát lên từ cái việc kiếm sống đơn giản này.
Nhìn đống gạch được ném xuống nước, tôi cứ định nói với ông già rằng như thế tức là trực tiếp phá huỷ môi trường.
Ai cũng thích thì làm, hôm nay mươi viên mai vài chục viên ném xuống hồ, hỏi còn gì là cái mặt nước thân yêu?
Chẳng
phải là chỉ mấy năm nay nước hồ đã đen dần vì nước cống, lòng hồ đã bồi
cao lên vì các loại phế thải xây dựng và rác rưởi ?
Nhưng tôi không mở miệng nổi.
Từ cái việc mà ông già thản nhiên và hào hứng theo đuổi, tự nó đã toát ra một lời tuyên bố: để kiếm sống, con người ta có quyền làm bất cứ việc gì họ có thể làm, bất kể là có hại cho người chung quanh hoặc tàn phá môi trường sống chung quanh đến như thế nào.
Lại nhớ nhà văn Nga Anton
Chekhov (1860 - 1904) từng có một đoản thiên kể chuyện một người mugich
hồn nhiên tháo đinh bù loong trên đường sắt về rèn mấy cái đinh thúc
ngựa. Sắt ê hề ra đấy mà làm gì, tháo một vài cái có sao, không tàu hoả
thì đi bộ đã chết ai? -ông ta lý sự.
Còn ở ta những năm chiến tranh có những người coi kho phá cả một cỗ máy để lấy mấy cái vít.
Xét
về mặt lý lẽ mà người trong cuộc đưa ra để biện hộ, giữa cái hành động
của người mugich Nga thế kỷ XIX với việc người Việt thế kỷ XXI đã và
đang làm:
- rải đinh trên đường cao tốc,
- bán đủ các loại rau quả vừa phun thuốc trừ sâu,
- đá bóng vào lưới nhà để thực hiện hợp đồng bán độ,
- rồi chặt phá rừng vô tội vạ,
- rồi mua bán bằng cấp và chức sắc,
- rồi kê đơn cho bệnh nhân toàn những thuốc đắt tiền để ăn hoa hồng,
- rồi đưa ma tuý vào trường học rủ rê con nhà lành vào con đường nghiện ngập cốt bán được ít hàng quốc cấm...
Các hành động ấy bắt nguồn từ những ý nghĩ có khác nhau là bao?
Ở đâu thì cũng cùng một lý lẽ ấy, lý lẽ của ông già ném gạch dồn cá, vốn đã bắt rễ trong tiềm thức nhiều người chúng ta hôm nay.
Khi độ nguy hiểm của nó ta còn chưa cảm thấy rõ ràng thì làm sao đủ sức để chống lại?
Từ kiếm sống đến hình thành tính cách
Từ
trường hợp của những ông già ném cá ở phần trên, tôi xin thử nêu lên
một vài đặc điểm làm nên cách kiếm sống dân ta xưa và nay:
1. Từ thời tiền hiện đại trong cuộc mưu sinh, dân ta còn đang dừng lại ở tư duy hái lượm tức là sẵn có cái gì của thiên nhiên thì nhặt lấy mang về.
Con người trong xã hội đa số là vô nghề nghiệp và không đạt tới đỉnh cao trong việc làm nghề.
Các ngành nghề không được chăm lo cải tiến nên chỉ có giậm chân tại chỗ.
Khi tiếp xúc với các nền kinh tế khác chúng ta lại không chịu học hỏi đàng hoàng kỹ lưỡng nên cứ kém mãi.
2. Chiến tranh là nhân tố chủ yếu chi phối khuôn mặt của xã hội Việt Nam trong suốt trường kỳ lịch sử.
Trong
các thế kỷ trước, nhất là hai thế kỷ XVII - XVIII sa vào nội chiến, ở
ta, việc sản xuất nông nghiệp chỉ phát triển trong mức độ bảo đảm cho
các cuộc chiến tranh giữa các phe phái được duy trì. Vậy mà nạn đói vẫn
luôn luôn xảy ra. .
Điều này càng rõ nếu xét tình hình từ 1945 tới nay.
Trong chiến tranh bao nhiêu con người giỏi giang đổ hết cả ra mặt trận.
Đến cả lương thực cho người dân miền Bắc cũng phải nhập của nước ngoài.
Súng ống đạn dược xe pháo dùng trong chiến tranh là của ngoại nhập tất.
AFP Photography, LLC
Ở hậu phương mọi công việc như xây dựng nhà cửa đường xá hoàn toàn ngưng trệ.
Sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề nghiệp.
Để
đắp điếm che giấu sự thiếu thốn này xã hội chỉ tổ chức ra một nền giáo
dục "thiếu tháng", "bất thành nhân dạng", còn cả việc học hỏi về nghề
nghiệp lẫn học kiến thức cơ bản đều chắp vá qua loa.
Trong khi
không biết xấu hổ trước trình độ sản xuất nội địa ở mức lè tè thì ta lại
đang lao đầu hưởng thụ, lấy việc kiếm được hàng hóa sản xuất từ các
nước khác làm niềm vui thích.
3. Có lần trên mạng thấy loan tin các cơ quan khoa học quốc tế người ta đánh giá rằng nước mình là một xứ mà việc quản lý các tài nguyên khoáng sản là loại đội sổ, kém nhất thế giới.
Không cần có mặt ở các loại mỏ, chỉ từ tình hình chung cũng đoán ra hết.
Những
người chủ trì công việc làm ăn ở các vùng tài nguyên đó, theo sự nhìn
nhận của tôi thật cũng chẳng khác gì mọi người dân thường.
Ta chỉ trách những quan chức này là họ tham nhũng.
Ta quên rằng họ cũng đang là những người kiếm sống không có nghề ngỗng gì hết, và kiếm sống với bất cứ giá nào.
Trong
khi khai thác tài nguyên theo kiểu thổ phỉ vậy, tự họ đã tước đi khả
năng tồn tại và phát triển của cái nguồn lực đáng lẽ nuôi sống cộng đồng
và chính họ trong một thời gian lâu dài. Họ cũng từ bỏ luôn cái cơ hội
tốt để họ và con cháu họ tử tế nên người.
4. Một đặc điểm khác chi phối việc kiếm sống của người mình, nhất là con người hiện đại.
Là
ta có lối suy nghĩ rất thiển cận, trong khi phấn đấu để vượt lên số
phận nghèo khó đã không chịu tự nhận lỗi về mình không chịu thành tâm
học hỏi theo hướng chuyên môn hóa…mà lại chỉ muốn đi tắt đón đầu nhăm
nhăm tính toán sao cho có thể đạt đến mọi mục đích tầm thường của mình
bằng Con đường Ngắn nhất.
Nhân danh nghèo khó, cho là mình có quyền làm mọi điều xấu xa và sẽ chẳng có thần phật nào trừng trị chúng ta cả.
Tiếp đó là bày ra đủ thứ lý luận để cãi trắng cho sự hư hỏng của mình.
Cả một đội quân tuyên truyền góp phần vào việc tự biện hộ này.
Chúng ta đã đi tới sự tự lừa dối tự lúc nào không biết.
Đến lúc này thì người ta nói rằng cả con người và xã hội đã vô phương cứu chữa.
Vương Trí Nhàn
https://www.bbc.com/vietnamese/forum-50425379
Thursday, November 28, 2019
Chuyện Đi Chữa Bệnh Ở Việt Nam - Sài Gòn Cô Nương
Có bệnh đương nhiên đi
chữa bệnh. Có rất nhiều cách điều trị. Chữa bằng thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc
Tây là những phương cách chính thức không kể đến chích lể, tàn hương, nước
thải, bùa phép…
Hiện nay thuốc Bắc và
thuốc Nam
không thông dụng lắm. Thuốc Bắc đi lậu qua biên giới, gần đây mang tai tiếng
nhiều do báo chí phanh phui đa số đã bị chiết xuất hết hoặc hầu hết hoạt chất,
khi vào đến lãnh thổ VN thực chất chỉ còn là rác. Thuốc Bắc rất đắt lại đòi hỏi
theo lâu dài nên người bình thường khó kham nổi; thuốc Nam chỉ trồng một phần, còn thì hái
cây cỏ mọc sẵn nên nguyên liệu không ổn định và cũng chưa được nghiên cứu, hệ
thống đến nơi đến chốn. Cả hai loại thuốc này nấu sắc rất mất công và chưa đáp
ứng được vô số căn bệnh khoa học tìm ra. Vì thế đi chữa bệnh thường bao giờ
người ta cũng theo Tây y.
Những bệnh thông thường
có thể tự chữa trị bằng cách xem quảng cáo trên báo và TV, loại thuốc nào mô tả
giống như triệu chứng của mình thì ra tiệm thuốc tây mua về uống hết bệnh ngay,
thật đơn giản và nhanh chóng. Còn như không thông thạo thuốc men thì sai thằng
nhỏ ra tiệm tạp hóa của bà Sáu cứ hỏi thuốc ho kèm sổ mũi mua hai viên đầu đỏ
đầu đen hay đầu xanh đầu vàng gì đó quên mất; nói bán viên thuốc nhức đầu có
hình cái búa tạ là bà biết ngay, đưa đúng thuốc uống xong hết nhức đầu liền.
Nếu bà Sáu không đủ tin
tưởng thì chữa bệnh tại nhà thuốc tây. Mỗi tiệm thuốc đều buộc dược sĩ đứng
tên. Nếu đó là tiệm nhà thì chính dược sĩ đứng bán thuốc nhưng thường thì các
nhà thuốc chỉ thuê bằng cấp của một dược sĩ nào đó, hoặc chủ nhà là dược tá học
một khóa sáu tháng đứng ra kê toa, bán thuốc luôn. Việc này chẳng chút gì khó
khăn, nghề dạy nghề dễ thôi, vài tháng là chữa bệnh trơn tru. Sau khi bình thản
nghe bệnh nhân khai, bất kỳ bệnh gì trên cõi đời này, cô bán thuốc đều chữa
tuốt luốt. Câu đầu tiên cô hỏi: Uống mấy ngày? Ý là túi tiền bệnh nhân chịu
được mấy ngày; câu hỏi thứ hai: Thuốc nội hay ngoại? Chẳng biết thực chất ra
sao mù tịt nhưng chữ “ngoại” bao giờ nghe cũng có phần… kêu hơn “nội”!
Nội xem chừng… kém cỏi gì đâu. Nếu có tiền thì tốt hơn hết nên xài đồ ngoại cho
mau hết bệnh!!!
Có bệnh đương nhiên đi chữa bệnh. Có rất nhiều cách điều trị. Chữa bằng thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc Tây là những phương cách chính thức không kể đến chích lể, tàn hương, nước thải, bùa phép…
Hiện nay thuốc Bắc và thuốc Nam không thông dụng lắm. Thuốc Bắc đi lậu qua biên giới, gần đây mang tai tiếng nhiều do báo chí phanh phui đa số đã bị chiết xuất hết hoặc hầu hết hoạt chất, khi vào đến lãnh thổ VN thực chất chỉ còn là rác. Thuốc Bắc rất đắt lại đòi hỏi theo lâu dài nên người bình thường khó kham nổi; thuốc Nam chỉ trồng một phần, còn thì hái cây cỏ mọc sẵn nên nguyên liệu không ổn định và cũng chưa được nghiên cứu, hệ thống đến nơi đến chốn. Cả hai loại thuốc này nấu sắc rất mất công và chưa đáp ứng được vô số căn bệnh khoa học tìm ra. Vì thế đi chữa bệnh thường bao giờ người ta cũng theo Tây y.
Loại người đi khai bệnh
tại nhà thuốc tây dĩ nhiên chỉ lấy một ngày thuốc, cùng lắm là hai. Cô bán
thuốc rất cẩn thận chia sẵn cho bệnh nhân mấy bịch nylon nhỏ đựng lẫn lộn đủ
viên trắng, viên cam, viên dẹp, viên tròn, viên dài, viên ngắn, viên rời, viên
vỉ… Cứ ba bịch uống ba lần một ngày, hai bịch uống hai lần, cầm nguyên bịch dốc
vào miệng là xong. Nếu hết bệnh thì tốt, không hết thì mai quay lại để cô điều
chỉnh thay đổi thuốc hoặc tiện trên đường đi làm ghé vào tiệm thuốc nào cũng
được khai bệnh tiếp. Việc chữa bệnh như thế không mất thời giờ, vô cùng thuận
tiện. Thậm chí chỉ cần nói má con đau bụng bán dùm viên thuốc giống kỳ rồi là
bà Sáu và cô dược tá đáp ứng ngay không thắc mắc, dù cho “kỳ rồi” đó
cách đến hàng tuần, hàng tháng.
Đúng “đường lối
chính sách” hơn là ra y tế phường, có bác sĩ khám đàng hoàng, phải tội hơi
rắc rối một chút là mua cuốn sổ khám bệnh và đóng tiền khám. Bác sĩ cấp phường
đều thuộc thành phần bất mãn kinh niên. Trong lúc bạn đồng môn lẫm liệt ở các
bệnh viện danh giá cấp trung ương, cấp thành phố, cấp chuyên khoa như Chợ Rẫy,
Nguyễn Trãi, Chấn thương chỉnh hình, Tai mũi họng… hay các bệnh viện tư Vạn
Hạnh, Pháp Việt… thì anh chúi mũi vào trạm y tế phường hiu quạnh hay trạm y tế
xã heo hút cạnh đám ruộng, chuồng bò… nhằm trú chân tránh việc thuyên chuyển đi
xa. Vả người có những căn bệnh hay ho nằm ở tim gan phèo phổi đều đi bác sĩ hay
bệnh viện chuyên khoa. Chỉ toàn cảm mạo, ho gió, sổ mũi… mới chịu ra phường.
Một phần cũng sợ trách nhiệm nên sau hai, ba kỳ cho toa không hết sổ mũi, ho
gió, cảm mạo… thì bác sĩ đẩy ngay lên bệnh viện trên cho rảnh chuyện.
Bà Thị không biết mình
bị mắc bệnh tiểu đường biến chứng sang mờ mắt, ra y tế phường kể lể lúc nào tôi
cũng thấy có con ruồi bay qua. Thế là bác sĩ định bệnh ngay vào sổ khám bệnh là
“ruồi bay”, cho thuốc bổ mắt để sau đó nếu phường chán bà thì phường
chuyển bà lên bệnh viện, nếu bà chán phường thì bà bỏ ra đi bác sĩ ngoài. Riết
rồi bác sĩ áo bỏ ngoài quần, lê dép lẹp xẹp với bộ mặt thường trực cau có,
không biết từ lúc nào trở thành lang vườn, lang phường, nghề dần lụt đi mau
chóng, hoàn toàn không có khả năng phát hiện bệnh là điều cần thiết của một bác
sĩ cơ sở. Ngoài kê toa thuốc cảm thì còn mỗi việc họp hành, lâu lâu có đợt
chích ngừa trẻ em cũng được một buổi rộn ràng, vui vẻ.
Có tiền đi bác sĩ tư khá
tiện, không phải chờ đợi, xếp hàng, đăng ký này nọ mất thời gian. Đi bác sĩ tư
giống cô dược tá ở chỗ lại nhận bịch thuốc không nhãn hiệu về uống ngày mấy
bận; hơn cô dược tá ở chỗ ông có văn bằng chứng nhận bảy năm đại học đàng hoàng;
khác cô ở chỗ ông đủ thẩm quyền gửi bệnh nhân đến các cơ sở xét nghiệm quen có
chia hoa hồng để xét nghiệm đủ thứ, sau đó bệnh nhân nhận kết quả trao lại cho
bác sĩ mà chẳng hiểu tờ giấy nói gì trong đó, tùy nghi bác sĩ giải thích trăng
sao; thua cô dược tá ở chỗ cô bán thuốc đắt rẻ theo đúng giá thị trường, còn
bác sĩ bán thuốc có thể đắt hơn hàng chục, hàng trăm lần, thậm chí nhiều trường
hợp còn bị nghi ngờ cho thuốc ầu ơ để “nuôi bệnh”. Không có toa
thuốc, ngay cả có trường hợp thuốc bị xé vỉ xoá dấu nên bệnh nhân mù tịt, cũng
không biết mình đau bệnh gì mà lần. Rất hiếm bác sĩ chỉ lấy công khám mà không
bán thuốc kèm.
Tình trạng này bắt nguồn
từ những ngày tháng khó khăn sau 75. Thuốc tây hiếm hoi, phần lớn nguồn thuốc
do những người có thân nhân từ ngoại quốc gửi về. Bác sĩ dù cho toa, ra nhà
thuốc cũng không có nên sau khi khám bệnh, bác sĩ bán luôn thuốc có nguồn gốc
gom từ chợ trời về. Từ đó thành thông lệ, hễ khám bệnh thì đương nhiên bán
thuốc, lợi cả đôi đàng, bác sĩ lấy công khám lẫn lãi thuốc, bệnh nhân có thuốc
uống ngay, khỏi cần đi lùng kiếm. Cách kiếm ăn dễ dàng bất ngờ khiến một số bác
sĩ đưa việc cung cấp thuốc thành công nghệ. Một y tá giúp việc, thường là bà vợ
ngồi kế với ngăn kéo gồm các lọ thuốc chính chung chung hay đơn giản hơn là
đóng bịch sẵn. Chị này đau bụng cầm bịch thuốc một trăm ngàn đồng, ông kia lỏng
gối trăm rưỡi, bé nóng đầu nhận bịch bảy chục ngàn thôi… Khi đau ốm bệnh hoạn,
đứng trước bác sĩ là đứng trước ông thần nắm giữ sức khỏe, sinh mạng, ai nấy
kính cẩn bác sĩ nói sao cũng dạ dạ, đâu dám có dám ý kiến, ý cò sợ bác sĩ phật
lòng…
Chẳng khác gì cô dược tá
ngoài tiệm, bác sĩ cũng chỉ dặn miệng bởi toa thuốc giấy trắng mực đen làm sao
ghi được những câu đại loại: mười hai viên đỏ uống ngày ba lần sau bữa ăn, bịch
này chín viên tròn hòa tan trong nước âm ấm, ba viên hạt dưa buổi tối trước giờ
đi ngủ nhớ đừng “xơi” sớm quá. Rõ chưa, cứ lẩm nhẩm như thế từ phòng mạch về
đến nhà cách nào cũng thuộc. Có người tức mình quá từng mang bịch thuốc trần
trụi đi khảo giá mới hay bịch một trăm ngàn chỉ đáng giá ba chục, bịch hét hai
trăm ngàn gồm những viên thuốc nội hóa giá chỉ tám mươi… Thế là mò đến bác sĩ
kèo nèo ì xèo gây phiền phức quá thể. Bác cũng bực mình không kém. Cuối cùng
bác bỏ bao bì, xé vỉ thuốc, tháo vỏ con nhộng… Trộn thuốc bột, giã nhuyễn thuốc
viên, chế thêm ít nước lọc… bào chế thủ công thành thứ hỗn hợp -giống như phù
thủy Gà mên trong thế giới Xì trum làm… thuốc tễ- được gọi là “thần dược của
bác sĩ XYZ”. Chỉ uống thuốc của bác sĩ XYZ mới mập tròn, trắng da, mát thịt.
Rồi trong đó có chất gì không biết mà bệnh nhân đâm mê bác sĩ, cứ nhất định
phải đi khám, uống thuốc của chính ổng mới khỏe ra…
Đó không hề là chuyện
hài hước vì mấy hôm nay, báo chí đăng tải tin về hai vợ chồng bác sĩ nhi khoa
bán thuốc chuyên trị trẻ em biếng ăn, còi cọc. Dùng đều đặn loại thuốc này thì
con nít tròn trịa, ú na ú nần, nhưng hễ nghỉ thuốc là ốm o, da trở nên xạm đen.
Phụ huynh cứ phải cầu cạnh vị bác sĩ đó cho con mình được mũm mĩm như búp bê.
Phân chất thuốc chẳng qua chỉ gồm kháng sinh có tác dụng phụ giữ nước và muối
nên cơ thể bé bị phù thôi. Trong lúc phòng mạch và tủ thuốc của hai vợ chồng
bác sĩ bị nhà nước khám xét, thì bên ngoài vẫn túc trực hơn bốn mươi người bế
con cháu đứng ngồi ngổn ngang chực chờ mua bằng được loại thần dược rỉ tai nổi
tiếng, để lũ trẻ có thể mập mạp mà không cần ăn cơm, uống sữa. Nghe tin phòng
mạch bị hỏi thăm, sợ bị đóng cửa, một bà ngoại khóc ròng vì sợ con cháu thiếu
thuốc không chịu ăn, xuống cân liền. Bà thấp thỏm mua trữ mấy bịch thuốc để
dành có người sắp đi gửi qua “bển”.
Thôi thì người giàu đi
bệnh viện tư, nơi đó đúng theo câu khẩu hiệu “Khách hàng là thượng
đế” đón tiếp niềm nở, đon đả, tiện nghi đầy đủ. Các bệnh viện tư mở nhiều
loại xét nghiệm. Thời buổi tối tân, hễ vào bệnh viện thì thủ tục đầu tiên là
xét nghiệm đủ thứ. Chán bệnh viện này qua nơi khác, bao nhiêu xét nghiệm làm
lại từ đầu vì rất kỳ cục là kết quả của các bệnh viện thường không giống nhau.
Dù gần kế nhưng mỗi bệnh viện đều đua nhau mua sắm máy móc riêng và bắt bệnh
nhân xét nghiệm lu bù để chóng thu hồi vốn, kiếm lãi to.
Hầu hết dân chúng vẫn
phải đi bệnh viện công. Tội nghiệp các bệnh viện công xây cất từ đời xửa đời
xưa vẫn bấy nhiêu đó, vừa xuống cấp, vừa còng lưng quá tải gánh số lượng dân
thành phố cứ tăng cao đều đều. Tuy nhiên bệnh viện công không phải là bệnh viện
miễn phí như trước kia. Nếu là công chức thì đương nhiên buộc đóng bảo hiểm y
tế (BHYT), tư chức cũng thế nhưng đôi khi bị ăn quỵt. Hàng tháng dù đã bị trừ
lương đóng đủ bảo hiểm không thiếu một xu, nhưng đến khi hữu sự, đau ốm, sinh
đẻ… nhiều người mới tá hỏa là công ty gom tiền đóng bảo hiểm của nhân viên mang
gửi vào… ngân hàng kiếm lãi!!
Muốn có thẻ bảo hiểm y
tế cũng trần ai. Trước đây, chỉ ai có đi làm cho cơ quan, xí nghiệp mới được
đóng bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội.
VN bắt nhịp được nền xã hội tiên tiến nên mở rộng lãnh vực này bằng cách cho
dân chúng -tức những người không đi làm hay hành nghề tự do- được mua gọi là “bảo
hiểm y tế tự nguyện”. Một hai năm đầu, thể thức mua loại bảo hiểm này không
được phổ biến rộng rãi và người dân cũng mơ hồ về nó nhưng rồi dần dần thức ăn,
không khí, vệ sinh môi trường ngày càng ô nhiễm, bệnh tật gia tăng nhất là ung
thư… Dân chúng hiểu ra lợi ích nên ùn ùn kéo nhau đi mua bảo hiểm y tế. Chỉ có
điều toàn già cả, đau ốm chứ người trẻ trung, khỏe mạnh nhất định không đóng
một xu. Thế là quỹ BHYT chỉ sau một, hai năm âm mấy ngàn tỷ, trong đó phải kể
tới nhiều người thông đồng tuồn thuốc bảo hiểm y tế ra ngoài bán hàng chục
triệu đồng. Nhà nước hoảng hốt vội vàng ban hành chính sách mới xiết chặt lại.
Trước đây thẻ BHYT bán
lẻ cho từng người nhưng kết quả chỉ toàn người già, người mắc bệnh mãn tính tới
lúc vào bệnh viện mới mua. Thanh niên trai tráng chẳng tội tình gì bỏ tiền ra
mua BHYT, chưa kể có người sợ xui, đang mạnh khỏe lại mua cái thẻ… trị bệnh
giống như leo lên đò phải mặc áo phao giữa lúc trời quang sóng lặng. Chẳng khác nào trù ẻo!
Quỹ BHYT có nguy cơ bị
vỡ. Nhà nước phải xiết lại. Toàn bộ người có tên trong một sổ hộ khẩu phải cùng
lúc mua BHYT.
Lại đi khiếu nại. Nhà
hơn chục người, làm việc ăn lương công nhật lại chưa kịp tách hộ khẩu thì kiếm
đâu ra cùng lúc mấy triệu đồng để mua BHYT mà thực tế chỉ có một, hai ông bà
già sử dụng.
L
ại uyển chuyển sửa đổi.
Mức đóng bảo hiểm của từng người trong hộ gia đình giảm dần: Người thứ nhất
đóng bằng 4,5% mức lương; người thứ 2 đóng bằng 70% mức đóng của người
thứ nhất… cho tới người thứ 5 trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.
Và nếu kẹt lắm thì có
thể đóng từng quý thay vì đóng một lúc cả năm..
Rắc rối quá. Tới đó là
chấm dứt câu chuyện đi chữa bệnh!
Saigon cô nương
http://vietluan.com.au
Wednesday, November 27, 2019
Phiếm: Nếu Có Kiếp Sau, Xin Được Làm Đàn Bà...
Tôi thường nghe các bà, các chị ca thán “sinh ra đàn bà là đã mang khổ vào thân”. Nhưng bằng kinh nghiệm ba mươi lăm năm làm kiếp đàn ông của mình, tôi xin khẳng định: Làm đàn ông không hề sung sướng như đàn bà vẫn tưởng.
Từ nhỏ tôi đã thấy làm con trai không có gì vinh quang: Con trai khóc nhè là xấu, con trai sợ ma bị chế giễu, con trai phải thế nọ, thế kia.Và nỗi khổ thấm dần cho đến khi là thanh niên, nhưng nỗi ám ảnh thân phận lớn nhất bắt đầu từ khi lấy vợ.
Tôi thực sự không biết sống sao cho vừa lòng vợ tôi. Ngày yêu nhau cô
ấy nói “Em thật may mắn khi gặp được anh”. Vậy mà càng sống chung, cô
ấy càng cố chứng tỏ cho tôi thấy rằng gặp tôi chính là bất hạnh lớn nhất
đời của cô ấy.
Tôi tiết kiệm thì cô ấy kêu rằng “đàn ông mà ki bo, đo lọ nước mắm,
đếm củ dưa hành”, đến khi tỏ ra hào phóng thì lại bảo rằng “tiêu xài
hoang phí”.
Tôi ăn mặc giản dị thì bảo “để người ta cười vào mặt vợ không chăm lo
cho chồng”, nhưng hễ trước khi ra đường mà đứng trước gương ngắm vuốt
một tý thì y như rằng “hò hẹn với đứa nào mà trau chuốt thế?”.
Không đụng tay vào việc nhà thì cô ấy bảo “về nhà như khách trọ” mà
mó tay vào việc gì thì hét lên “Hôm nay mặt trời mọc đằng Tây sao?”.
Con cái khó bảo, cô ấy đánh con thì được, nhưng tôi mà lăm le doạ nạt
con tý thì cô ấy bảo rằng “anh có mang nặng đẻ đau đâu mà xót”.
Cô ấy suốt ngày nói xấu mẹ chồng nhưng chồng mà có phản ánh gì về bên
ngoại thì ngay lập tức nhảy dựng lên bảo chồng phân biệt, coi thường.
Mỗi lần tôi bảo “em quan tâm đến mẹ chồng một tý, dù em không hài lòng với mẹ thì đó cũng là người đã sinh và nuôi dạy chồng em đấy”. Ngay lập tức cô ấy đáp trả “có bà mẹ nào không phải sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Chẳng lẽ em tự dưới đất chui lên, tự hít khí trời mà sống à. Sao anh lúc nào cũng chỉ mẹ anh, mẹ anh?”. Mà nào tôi có phân biệt nội ngoại gì đâu, mà hễ nhắc đến vấn đề đó là cô ấy cứ nóng lên như dầu gặp lửa.
Nếu tôi lo kiếm tiền, vợ sẽ nói tôi coi trọng tiền bạc hơn gia đình,
vợ con. Nếu tôi dành nhiều thời gian cho vợ con, cô ấy lại bảo tôi dễ
bằng lòng, an phận.
Những lúc tôi buồn than thở đôi câu, cô ấy bảo tôi yếu đuối. Cô ấy
buồn mà tôi cố làm cho cô ấy vui, cô ấy trách tôi “máu lạnh, vô cảm”.
Tôi làm gì mà không hỏi vợ thì cô ấy nói “không tôn trọng vợ”, mà hỏi thì lại bảo “đàn ông không biết chủ động, tự quyết”.
Nếu tôi mua hoa tặng vợ, cô ấy kêu lãng phí. Còn nếu không mua thì bảo rằng khô khan, không lãng mạn.
Nếu nói những lời ngọt ngào, cô ấy nghi ngờ tôi làm gì có lỗi nên
nịnh bợ. Nếu không cô ấy bảo tôi ngày càng cộc cằn, thô lỗ, hết yêu cô
ấy rồi.
Từ ngày có vợ, tôi như biến thành một con người khác, không còn là mình nữa. Tôi còn không phân biệt được thế nào là đúng, thế nào là sai. Vì làm gì vợ cũng bảo không được, làm gì cô ấy cũng chê, làm gì cô ấy cũng tìm được lý do để than phiền chê trách.
Có lần vợ bảo tôi: “Nếu giờ cho anh một điều ước, anh sẽ ước gì?”,
Lúc đó tôi không ngần ngại trả lời “ước sau khi ngủ dậy mình đã biến
thành đàn bà”. Nghe xong, vợ tôi liền hét lên: “Anh hâm à, làm đàn bà
khổ lắm”.
Vâng! Làm đàn bà khổ lắm, còn làm chồng đàn bà thì tận cùng của khổ.