Pages
Wednesday, March 31, 2021
Tạ Ơn Em - Nguyễn Văn Tới
Cô cún Sacha thân yêu của chúng tôi
Một buổi chiều chớm Thu vùng sa mạc Arizona, khi nắng vàng nhạt dần trong
không gian, cái nóng dịu đi dưới những áng mây vừa kéo về đan vào nhau như những
tảng bông gòn trắng xám giăng trên bầu trời xanh. Vợ chồng tôi cùng với con chó
nhỏ thân yêu Sacha cùng nhau đi bộ dưới những tàng cây Palo Verde tuyệt đẹp, dẵm
lên những cánh hoa vàng rực rỡ trải đầy trên lối đi. Vài cơn gió nhẹ thổi những
bông hoa rụng dạt qua hai bên đường, tạo thành con đường vàng hoa uốn lượn
quanh co qua lối đi, song song với con lộ chính. Hàng cây xanh rực rỡ sắc hoa
vàng nghiêng mình bên đường đi, tỏa bóng mát trên con đường nhỏ men theo những
dãy nhà xinh xắn ẩn mình trong khu xóm hiền hòa chúng tôi đang sống.
Mùa Thu ở sa mạc rất thật là Thu khi những
cơn gió nhè nhẹ, lao xao thổi qua mang theo hương thơm dịu dàng của các loài
hoa xương rồng gai góc nhưng sắc hoa thì đẹp đến nao lòng. Gió men theo những bụi
hoa dại thấp, lướt trên các chòm cây Mesquite cao phủ đầy hoa vàng, rồi nhẹ
nâng gót các cánh hoa rơi nhẹ xuống hai bên đường. Cảnh sắc mùa Thu Arizona, một
bức tranh hòa quyện màu sắc tuyệt đẹp đan xen vào nhau khiến khách nhàn du ngơ
ngẩn trên đường chiều và lòng tôi cũng chới với mơ theo những áng mây bàng bạc
phía chân trời.
Đi hết con đường hoa, chúng tôi bước vào
khu rừng thưa và thấp trước mặt, bắt đầu cho buổi dã ngoại chiều nay. Khu rừng
đầy các loại cây xương rồng, nhiều loại thực vật và các loại thú hoang thích hợp
sống trong vùng sa mạc cao là nơi chúng tôi và các dân cư vùng này vui thích đến
đi hiking, những cuộc đi bộ ngắn không cần phải chuẩn bị nhiều thứ linh tinh.
Chỉ cần vài chai nước là đủ vì chúng tôi chỉ đi khoảng 3, 4 giờ là quay về. Tiểu
bang Arizona là một trong những tiểu bang của nước Mỹ có nhiều hoạt động ngoài
trời cả năm nhưng nhiều nhất là vào mùa Xuân và mùa Thu cho những người yêu
thiên nhiên khoáng đãng và yêu chim chóc. Hằng năm nhiều hội yêu chim về đây
đem theo ống dòm và máy chụp hình đặc biệt để thu vào ống kính những loại chim
hiếm có.
Theo thói quen, tôi thường đi trước mở đường
với một cây gậy điện bên hông và một cây gậy dã ngoại bảo vệ cho vợ tôi và cô cún nhỏ đi theo sau. Để
an toàn, tôi luôn mang theo cây gậy điện vì chúng tôi đã một lần bị hú vía, suýt
chút nữa bị 3 con chó to lớn lao vào tấn công khi đang đi dã ngoại trong rừng.
May mà chủ của 3 con chó nghe tôi hét lớn và vung gậy xua đuổi đàn chó, ông ta
vội chạy đến, vừa la mắng vừa xua chúng lên chiếc xe đậu gần bên, vì thế chuyện
đáng tiếc đã không xảy ra. Nhiều người không ý thức, dẫn chó đi ra ngoài mà
không đem theo dây buộc cổ, để chúng tấn công những người khác, đôi khi gây ra
chết người.
Trong rừng, khi về chiều, thỉnh thoảng có một
vài con chó sói, coyote, hoặc vài con mèo rừng, bob-cat, ra kiếm ăn sớm, chúng sẽ
tấn công khi thấy những con chó nhỏ hơn chạy tung tăng phía trước; vì thế, tôi
lúc nào cũng mang theo “đồ chơi” để tự bảo vệ mình và bảo vệ cô cún nhỏ của
chúng tôi. Cây gậy điện, vừa là đèn pin, dài 19 inches, bằng hợp kim nhôm hình
dáng như chiếc đèn pin bình thường, vừa là vũ khí, với phần đầu lởm chởm răng
cưa dùng để đập vào đầu kẻ tấn công. Nó được trang bị với giòng điện 9 triệu
Volt, khi đánh trả, sẽ lưu lại một dấu vết khó phai nhòa cho kẻ tấn công. Khi bấm
nút, nó có công dụng làm chùn bước bất kỳ sinh vật hung dữ nào, với mấy tiếng
điện nẹt thật to tóe lửa khiến đối phương mất tinh thần. Không giống như súng
Taser của cảnh sát có thể bắn xa khoảng 10-15 ft., gậy điện chỉ đánh được trong
khoảng cách gần để tự vệ mà thôi.
Hôm nay, không hiểu sao, vợ tôi cứ xăm xăm
đi trước, tay cầm gậy, tay dẫn Sacha qua mặt tôi lúc nào không hay. Tôi cứ lững
thững theo sau và giữ một khoảng cách gần và vừa đủ để có gì xảy ra, vẫn kịp thời
can thiệp. Rảo bước giữa thiên nhiên hoang sơ, dưới bóng cây rợp mát, tôi nhìn về
phía trước, hình dáng vợ tôi bước thấp bước cao, cố gắng theo kịp Sacha, những
bước chân của nàng khiến tôi hồi tưởng lại bóng dáng ngày xưa và của chính mình
trong một cuộc đi chơi trong vườn hoa Azalea gần 30 năm trước, ở tiểu bang
Oklahoma.
Ngày ấy, mới bước chân đến vùng đất mới, cả
hai chúng tôi đều còn trẻ ở tuổi trên 30, chúng tôi hăm hở lao vào phía trước với
một sức sống mãnh liệt, niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Chúng tôi không nề
hà bất cứ một việc gì miễn là có tiền tự nuôi sống mình trên quê hương mới. Hôm
nay, nhìn dáng đi hơi nặng nề của vợ tôi khi cố gắng chạy theo con chó nhỏ, và cảm
giác những đau nhức khớp xương đầu gối tôi mới vừa trải qua. Tôi thấy rõ thời
gian đã lưu lại dấu vết của nó trên cuộc đời sống con người và cảm nhận được mùa
Thu đời người đang đến gần với chúng tôi hơn. Sacha vẫn thích thú chạy nhảy
tung tăng, nó kéo sợi dây buộc cổ làm vợ tôi phải chạy theo mệt vã mồ hôi. Tôi
tiến lên nắm sợi dây và dẫn cô chó đến một rẻo đất thoai thoải, chúng tôi ngồi
xuống nghỉ chân dưới một gốc cây cao.
Ngồi lặng im dưới bóng mát tàng cây, tôi để
hồn tôi lãng đãng trở về những năm tháng xa xưa đầu thập niên 90, ở một tiểu
bang vùng Trung Tây nước Mỹ. Lúc đó, cả hai chúng tôi đều còn rất ngỡ ngàng trước
cuộc sống mới trên vùng đất lạ. Cô mới vừa từ trại tỵ nạn Mã Lai qua và còn
đang sống chung với gia đình người chị ruột. Tôi khố rách áo ôm, một thân một
mình, không thân nhân, bạn bè, tôi cũng vừa đặt chân lên vùng đất hứa này.
Tính tự lập, tôi cắm đầu vừa đi học ESL vừa
đi làm để sống vì không biết chỗ để xin trợ cấp chính phủ dành cho người tỵ nạn;
vả lại tiếng Mỹ không rành, nếu biết nói chắc cũng chẳng biết trình bày ra sao.
Cô cũng thế, ở nhà chị, tuy không bận tâm nhiều về chỗ ăn ở, nhưng cũng vẫn lo kiếm
việc làm cho tương lai riêng mình chứ đâu thể ở nhờ mãi trong gia đình chị
mình.
Chuyện chúng tôi quen nhau phải được gọi là
chuyện tình “Hamburger” hay văn hoa một chút là Hamburger love story. Cô làm phụ
bếp cho một tiệm bán đồ ăn nhanh ban ngày và làm cho hãng lựa thư quảng cáo vào
ban đêm, nơi tôi cũng đang làm ca đêm và đi học ban ngày. Trong hãng cũng có một
số người Việt Nam làm ở đó. Vào giờ ăn, trong lúc mọi người lấy đồ ăn đem theo
ra hâm lại, vừa ăn vừa nói chuyện, tôi ra canteen của hãng, ngày nào cũng mua độc
nhất một món “biscuit and gravy”, món bánh bột nướng, ăn kèm với nước sốt trộn
nấm, không có thịt, chỉ tốn .99 xu, đem đến ngồi cuối bàn vừa ăn vừa nghe phe
ta rôm rả nói chuyện.
Có lẽ cô thấy tôi cứ ăn một món suốt ngày
này qua ngày khác, thân hình gầy gò, ốm yếu, ho hen, nên thương tình bước đến gần
và cho tôi một cái hamburger, cho có một “chút thịt thà” với người ta để còn đủ
sức làm việc. Cũng có thể vì thấy tôi “vợ con chưa có, mèo chó cũng không” nên cô
thương cảm tình cảnh gã độc thân, không nhà không cửa, “chẳng ma nào nhìn” vào
thời đó. Tôi cảm động thật tình vì tôi
không có nhiều tiền để mua những món ăn có thịt và cũng chẳng có thời giờ tự nấu
ăn. Cứ đụng đâu, ăn đó. Nói vui, lúc đó tôi mạnh trùi trụi, khỏe như trâu, chỉ
có một căn bệnh duy nhất là “rối loạn tiền xài” vì làm đồng nào là xào đồng nấy,
chứ không phải “rối loạn tiền đình” như người trong nước ngày nay hay nói về chứng
bệnh xây xẩm chóng mặt, mà khi nghe, tôi cứ tưởng họ đang kể chuyện kiếm hiệp của
Kim Dung tiên sinh.
Thời đó, chương trình định cự diện HO đang
qua ào ạt và đương nhiên gia đình nào, ít nhiều, đều có con gái. Các nàng tuổi
cập kê đến Mỹ thật đúng lúc làm cho các chàng độc thân đang trong thời gian hạn
hán như gặp được cơn mưa phùn. Mỗi buổi sáng, một chuỗi dài những chiếc xe mới
tinh, bóng loáng nối đuôi nhau đậu trước những căn chung cư để mong được đưa
đón những lá ngọc cành vàng và cả nhà của nàng đi làm giấy tờ cần thiết; khỏi cần
nói, các tài xế ăn mặc bảnh bao, quần áo cũng láng cóng thơm phức nước hoa,
đang kiên nhẫn ngồi nặn mụn, soi gương trong xe, nhưng đôi mắt lúc nào cũng
nhìn về phía cửa nhà các nàng.
Ở nhà thờ Việt Nam, sau thánh lễ Chủ Nhật hằng
tuần, cha xứ có thói quen giới thiệu những gia đình HO mới qua khi họ gia nhập
xứ đạo cho mọi người biết mặt biết tên, và hân hoan chào đón họ đến với cộng đồng
giáo xứ. Dạo này nhà thờ hình như đông hơn trước vì các thanh niên độc thân có
đạo cũng như không có đạo bỗng trở thành những con chiên ngoan đạo đến lạ kỳ.
Các chàng ngoan ngoãn, siêng năng đến tham dự thánh lễ và ở lại cho đến phút cuối
cùng, chứ thường khi cha xứ vừa cho rước lễ xong là các chàng lẻn về mất tiêu,
đến không ai biết, về không ai hay như điệp viên 007. Nay các chàng nấn ná ở lại,
ra vẻ cầu nguyện sốt sắng nhưng mắt thì đảo một lượt khắp nơi trong nhà thờ, cho
đến khi cha xứ giới thiệu các gia đình mới qua, mà nhất là các gia đình có nhiều
con gái thì tiếng vỗ tay càng to. Tôi cũng đi nhà thờ này, nhưng cha xứ hình
như quên, không thấy hay không biết tôi là ai. Tôi chưa hề được chính thức giới
thiệu gia nhập xứ đạo bao giờ dù tôi cũng từ đảo mới qua gần như cùng một thời
gian với họ.
Nhưng trong cái thiệt thòi vẫn có cái may,
cuối đường hầm vẫn còn le lói chút ánh sáng. Giữa đám đông xa lạ ấy, tôi vẫn may
mắn rinh được một “nàng” tuổi độ trăng tròn, xinh như mộng, đẹp như thơ như hoa
mà tôi đang tìm kiếm và mê như điếu đổ. Tên nàng là Impala, họ Chevrolet, sinh
năm 1975. Số là một anh trong ban hành giáo, một người tốt bụng, thật thà, và
đôn hậu. Anh nghe nói có một chú trẻ tuổi mới ở đảo qua, tướng mạo giống anh
như hai anh em ruột. Anh đến tìm tôi sau buổi lễ. Tôi sững sờ nhìn anh. Anh
cũng nhìn tôi, miệng há hốc, rớt cả quai hàm. Anh thấy được hình ảnh của chính
anh 20 năm trước và tôi cũng thấy tôi, 20 năm sau, trong vóc dáng một người đàn
ông 55 tuổi, cao, gầy nhom, và khắc khổ. Có một điểm rất giống nhau là cả hai
chúng tôi đều… xấu trai y như nhau.
Anh mời tôi về nhà ăn cơm, rồi tặng tôi chiếc
xe Chevrolet Impala đời 1975, mới được 16 năm tuổi. Tôi mừng như bắt được vàng
vì tôi đi làm, đi học đều bằng xe bus. Tôi rơm rớm nước mắt vì lòng tốt của
anh. Hai mươi năm sau, tuy ở xa, tôi vẫn tìm kiếm thông tin về anh và gởi anh một
món quà đặc biệt kèm theo lời cám ơn chân thành nhất của tôi. Tuy món quà chẳng
đáng là bao so với thời gian anh làm ơn cho tôi đúng lúc tôi cần nhất. Một miếng
khi đói bằng một gói khi no. Tôi nhớ ơn anh mãi cho đến bây giờ.
Vì đã có cô Impala nên tôi không màng đến
các nàng nào khác nữa. Biết thân phận “đũa mốc mà chòi mâm son”, tôi theo chiến
thuật biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng; tôi luôn chung tình bầu bạn với
nàng Impala của tôi, tôi săn sóc cho nàng mỗi ngày, tôi tắm rửa, lau chùi, tôi
trân quý nàng như một bảo vật. Trong đôi mắt tôi, cô là tất cả. Tôi đi làm, đi
học với nàng, không nhìn ngang nhìn dọc, chẳng lo lắng phải đưa đón ai. Xe của
tôi, nếu đậu trước cửa nhà các nàng mới qua, chắc chắn chẳng ai thèm nhìn. Từ
đó, số phận của tôi và nàng Impala gắn bó với nhau một thời gian dài.
Nói dài dòng một chút để bạn thấy rằng một
người không ai thèm biết đến như tôi bỗng nhiên được một cô gái để ý và đến cho
bánh hamburger, hỏi sao không xúc động. Bấy giờ tôi mới nhớ ai đó có nói tình
yêu đến qua bao tử nhanh hơn đến từ trái tim là rất đúng trong trường hợp của
tôi.
Tôi chăm chỉ học hành, lấy cần cù để bù
thông minh, sau hai năm, tốt nghiệp cái bằng về ngành hàng không để có thể tự
nuôi thân mình trước rồi mọi chuyện khác tính sau. Ra trường, tôi cùng nàng
Impala của tôi chạy mất gần 2 ngày đường xuống tới Phoenix, Arizona vì được một
việc làm trong phi trường Sky Harbor; sau đó, tôi trở lại chốn cũ cưới nàng
hamburger của tôi. Chúng tôi tạo dựng cuộc sống mới trên vùng sa mạc khô cằn,
nóng đến độ sỏi đá cũng biết thở dài.
Tôi vẫn còn hình dung ra vợ tôi, những năm
tháng xa xưa ấy, ngày mới lấy nhau, còn là một cô gái trẻ làm việc trong một
hãng điện tử, chân mang giày bốt và áo bảo hộ lao động, dáng dấp hơi chậm chạp
nhưng vững vàng, bước đi qua lại như con thoi không ngừng nghỉ. Đôi tay bận rộn,
lúc hàn những con chíp, con điện trở, lúc dùng kềm để gắn cái tụ điện một cách
tinh tế, kế bên là một chồng những board điện tử khác đang nằm chờ đôi tay khéo
léo của nàng. Tan ca, chiều về, lạng lách trên các nẻo đường, rồi lái xe như
bay trên những xa lộ để mau về đến nhà; cô lại lao đầu vào bếp lo bữa cơm cho
chồng, cho con. Biết bao nhiêu công việc mà sao cô vẫn không hề biết mệt là gì.
Những năm sau này, phong trào làm nail đang
nở rộ vào cuối thập niên 90, tôi mua cho vợ tôi một tiệm nail để cô làm chủ, khỏi
phải làm công cho người khác và cũng mong làm giàu nhanh hơn. Nhưng ngặt một nỗi,
tính cô thật thà, không lanh lẹ, nên bị thợ ăn hiếp. Cô lại không có đầu óc tổ
chức, thay vì làm cho cô giàu, tôi lại làm cô khổ hơn lúc đi làm hãng. Cô làm
ngày hơn 10 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần, bận rộn tiệm, bận rộn con cái, cơm
nước trong khi tôi đi học tiếp lấy bằng 4 năm, ngày đi làm, chiều đến lớp nên
chẳng giúp gì được nhiều.
Kéo dài như thế cả mấy năm dài, khi tôi học
xong, tiệm nail không có lời, thua đi làm thợ, mà quá cực khổ. Hai đứa “chợt nhìn
nhau xem dung nhan ấy bây giờ ra sao”? Cả hai chúng tôi mặt mày hốc hác, người
ngợm gầy rạc, tàn tạ, thần sắc nhợt nhạt mất hết sinh khí. Con cái thì bỏ bê.
Có ngày chúng tôi phải đem con lên tiệm để chúng chơi hoặc làm bài vở ở đằng
sau. Tôi quyết định bán tiệm huề vốn để thoát ra giấc mộng làm nghèo, thay vì người
ta là giấc mộng làm giàu. Chúng tôi nhận ra giàu nghèo đều có số. Đôi khi chúng
ta tận lực nhưng sẽ không có cậy trông, nếu tính toán sai. Tôi không biết làm
ăn, tôi làm khổ vợ tôi.
Giờ đây nhìn lại, cũng cô gái đó, tóc chớm
bạc và thưa dần, thân hình có hơi đẫy đà hơn trước, đang cố gắng vừa đi vừa kéo
ghì dây buộc cổ cô cún Sacha, nhưng cẩn thận, chậm rãi đặt những bước chân trên
con dốc đầy sỏi đá, lòng tôi bỗng nhiên chùng lại. Tôi đã đọc ở đâu đó hay nghe
ai đó nói khi mình già, đôi chân sẽ già trước. Quả thật, tôi cảm thấy đôi chân
mình bắt đầu mỏi mệt, thỉnh thoảng đầu gối đau khi chạy nhanh thì vợ tôi chắc
cũng không ngoại lệ. Khuôn mặt nàng lấm tấm mồ hôi nhưng hồng lên vì mải đuổi
theo con chó nhỏ.
Tôi kêu vợ tôi cùng ngồi xuống nghỉ ngơi dưới
một gốc cây Mesquite, lá nhỏ như lá me nhưng tàng cây rậm rạp, tỏa bóng mát giữa
buổi chiều Thu nhạt nắng; tia sáng mặt trời chênh chếch rọi xuyên qua kẽ lá tạo
nên những hình ảnh ngộ nghĩnh nhảy múa tung tăng mỗi khi có cơn gió nhẹ thổi
qua. Thấy cảnh đẹp, vợ tôi lấy phone ra chụp hình Sacha, cô lục túi kiếm đôi
kính đeo lên mũi, không thấy, phải nheo mắt một hồi mới thấy đường mở cái app
chụp hình. Tôi nhận ra mắt vợ tôi bắt đầu kém. Tôi đã mang kính cận từ lâu
nhưng vợ tôi thì chưa. Khi mình già, cặp mắt đương nhiên mờ đi nhưng bù lại, ta
có thể nhìn cuộc đời rõ hơn trước qua lăng kính trái tim dù nhịp đập đã ít nhiều
chậm đi.
Không những mắt mờ mà tai cũng lãng. Có lẽ
do ngày trước, chỗ làm việc, chung quanh cô chỉ toàn tiếng động đều đều của những
cỗ máy đang chạy rì rầm đơn điệu cả ngày. Ra khỏi hãng là những âm thanh tất bật
của cuộc sống thường ngày, tiếng cười nói chung quanh mình về chuyện chợ búa,
chuyện nhà, chuyện trường lớp, con cái, và cả những chuyện ngoài ngõ. Rồi tiếng
xe lăn bánh lạo xạo de ra khỏi bãi đậu, tiếng bánh cao su rít lên trên đường về
nhà. Tôi nhớ lại những ngày hai vợ chồng tôi gặp nhau tại bãi đậu xe của hãng, cô
vội vã trao lại đứa con gái bé bỏng của chúng tôi đang say ngủ trong nôi, trước
khi tất bật vơ vội túi ăn trưa, theo chân các bạn đồng nghiệp vào bấm thẻ cho kịp
giờ. Ngày ấy, chúng tôi không có cha mẹ hay anh chị em ở gần để gởi con nên phải
làm như vậy mong tiết kiệm được đồng nào hay đồng ấy.
Chúng tôi phải nỗ lực làm việc cho tương
lai. Chúng tôi phải làm việc nhiều hơn bình thường để lo trả nợ mấy năm đi học
của tôi. Cô không từ nan bất cứ công việc gì, dù nặng nhọc hay không, giúp tôi
trả cho xong món nợ sách vở, nợ cơm áo và lo cho cái gia đình nhỏ bé của chúng
tôi. Cô không bao giờ se xua trong ăn mặc, ít khi đi shopping trong Malls. Cô
chỉ mua những quần áo khi giảm giá, on sale. Tủ áo của cô toàn quần áo rẻ tiền
mua ở Walmart, hay sang hơn một chút ở Target.
Tôi thấy thương vợ tôi hơn vì từ nhỏ, cô đã
không phải làm bất cứ việc gì trong nhà, kể cả nấu cơm. Cô dân Sài Gòn, nên dù
nghèo, vẫn không phải làm việc tay chân cực nhọc. Vậy mà từ khi lấy tôi, cô phải
học làm mọi thứ dù cô làm rất chậm không nhanh nhẹn như người ta. Đôi khi tôi
phải gắt lên vì kiểu làm việc quá chậm của cô. Chỉ có duy nhất một việc cô làm
rất nhanh khó ai qua mặt đó là lái xe. Thật vậy, mỗi lần cô chạy trên đường, chiếc
xe như phượng hoàng được chấp thêm đôi cánh, chân ga lúc nào cũng sát sàn xe,
cô bị phạt liên miên đến nỗi bảo hiểm xe không muốn bán. Họ nói cô phải chạy chậm
lại nếu không, chẳng hãng nào dám bán bảo hiểm cho cô. Tôi nổi nóng la mắng vì sợ
cô bị tai nạn, cô chẳng buồn giận, luôn nhẫn nhục, không bao giờ cãi một lời.
Bây giờ, ngồi đây, âm thanh duy nhất chỉ có
tiếng gió rì rào như tiếng ru mẹ hiền, có âm thanh êm êm của giai điệu hạnh
phúc đang vang vọng trong tôi, và có tiếng chim ríu rít trên ngọn cây đang chơi
trò đuổi bắt, chuyền từ cành này qua cành khác nghe xôn xao cả một buổi chiều
yên tĩnh và thanh bình. Một con sóc nhỏ xuất hiện, cái đuôi dựng đứng và xòe ra
thật dễ thương, đôi mắt nâu lanh lẹ nhìn chúng tôi thật nhanh, rồi biến mất sau
gốc cây. Nhắm mắt lại, chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hơi thở của lồng ngực mình,
tiếng lá xào xạc đâu đây, tiếng xột xoạt của nai mẹ và nai con nai đang nhởn
nhơ gặm những chồi non của lá. Cảnh vật thật thanh bình và đầy chất thiền lặng.
Chợt tiếng vỗ cánh thật lớn của một con
chim ưng làm đàn chim nhỏ bay tán loạn và cô cún Sacha của chúng tôi vùng dậy sủa
vang, phá vỡ giấc mơ dĩ vãng của tôi. Tôi chợt nhận ra bao lâu nay sao tôi vẫn
vô tình không hay biết và không để ý săn sóc người đi bên cạnh cuộc đời tôi,
người đã chia ngọt sẻ bùi với tôi hơn 25 năm trường. Đời sống vội vã khiến tôi không
còn thời gian để nhận ra người mình yêu thương mỗi ngày, không nhận biết một tình
yêu thương tràn ngập trong cuộc sống nàng vẫn âu yếm trao ban. Tôi biết tôi nợ cô
một lời yêu thương, một cử chỉ trìu mến đáp trả và chợt thấy thương vợ tôi thật
nhiều. Nhìn cô nhắm mắt, lưng tựa vào thân cây, tôi vẫn còn thấy phảng phất đọng
lại hình ảnh của của một quá khứ tươi đẹp vừa qua, bây giờ khó mà tìm bắt lại.
Cô cũng vì tôi mà phải lâm vào cảnh má hồng
truân chuyên, làm người chinh phụ ngày đêm trông ngóng tin chồng. Những năm tháng
dài tôi bôn ba tận những nơi xa xôi bên kia nửa vòng trái đất, ở vùng Trung
Đông chiến tranh, chết chóc, loạn lạc xảy ra như cơm bữa. Tuy không là lính chiến,
tôi vẫn phải đi vào vùng lửa khói, sát cánh với người lính để bảo vệ cho hậu
phương nơi quê nhà. Tôi đi vì chí tang bồng hồ thỉ và vì yêu công việc, nỗi nhớ
nhà chắc không day dứt như người ở lại. Tôi đi vì tôi biết tôi sẽ an toàn khi
có những người lính chiến đấu bên cạnh bảo vệ tôi. Khi bạn đọc những giòng chữ
này, tôi đang ở Kurdistan, một vùng tự trị của sắc tộc người Kurd ở Iraq, và tôi
đang nhớ về vợ tôi.
Cô ở nhà, không còn cảnh người thiếu phụ tựa
bên song cửa nhìn về phương trời xa xôi, gởi niềm nhớ nhung đến bóng chim tăm cá
mịt mùng như trong trường ca Chinh Phụ Ngâm, người chinh phụ nhớ chồng đến “sầu
lên ngọn ải, oán ra cửa phòng” (1). Cô thay tôi lo lắng việc nhà, vẫn đi làm, về
nhà nấu ăn cho con cái, giữ cho mình bận rộn để khỏi phải lo lắng nhớ thương chồng
nơi phương xa. Nhưng khi đêm về, cô vẫn nhớ chồng đến quay quắt, khi chiếc gối
bên cạnh không có hơi ấm của người chồng yêu thương.
Tưởng sống ở một đất nước văn minh và hùng mạnh
nhất trên trái đất này, sẽ không còn cảnh ly biệt vợ chồng, không còn cảnh “đường
rong ruỗi lưng đeo cung tiễn, buổi tiễn đưa lòng vướng thê noa” như ngày xưa;
nhưng vẫn còn đó hình ảnh buổi chia tay, những cái hôn tạm biệt, những vòng tay
ôm ghì lấy nhau trước lúc ra đi. Cô đã vì lý tưởng của tôi mà chấp nhận để chồng
mình đi vào chỗ hiểm nguy, không biết trước số phận sẽ ra sao khi hòn tên mũi đạn
vốn vô tình. Chỉ những người một thời đã là lính chiến xa nhà và những người vợ
lính như trong cuộc chiến Việt Nam, mới thấu hiểu nỗi lòng của người đi kẻ ở. Ôi,
người chinh phụ thời nào cũng buồn như nhau!
Có một lần, cách đây khoảng 5 năm, một tối
trên đường lái xe về nhà, dưới cơn mưa tầm tã, nôn nóng sao về cho kịp để còn
lo cơm nước cho chồng con, cô đã không chịu dừng lại trước một dòng nước lũ đang
cắt ngang chỗ trũng trên con đường lộ, trong khi tất cả các xe khác đều kiên nhẫn
dừng lại bên đường chờ cho nước rút bớt. Cô đạp mạnh chân ga, hy vọng xe sẽ lướt
qua dòng nước đang cuồn cuộn chảy. Chiếc xe chồm lên, nhưng dòng nước mạnh hơn,
cuốn phăng chiếc xe theo làn nước. Động cơ xe bị ngập nước, bị “hydro-locked”,
ngưng hoạt động, đèn xe tắt ngấm. Cô hoảng loạn la hét bên trong, cửa xe bị
khóa vì hệ thống điện cũng hư, không ai dám liều mạng lao xuống nước cứu. Càng
sợ hãi, trí óc cô càng mụ mẫm đi vì kinh hoàng, không biết phải làm gì, đành
phó mặc cho dòng nước cuốn đi.
Chiếc xe xoay tròn từ từ và chậm rãi. Nước
đã tràn vào xe, ngập đến qua mắt cá chân, cô run lập cập vì lạnh và vì sợ hãi
nhiều hơn. Cô nhắm mắt lại chờ chết. Chợt một tiếng động khá lớn vang lên, chiếc
xe chạm phải một thân cây và dừng lại, không trôi nữa. Khi nước dâng lên cao gần
đến đầu gối, cô thoáng thấy ánh đèn xe cứu hỏa nhấp nháy từ xa. Thời gian như đứng
lại. Cô vẫn run rẩy, vẫn nhắm mắt cho tới khi cảm giác chiếc xe như bị kéo đi
và tiếng người lính cứu hỏa hét to bên ngoài:
-
“Are you ok?”.
Cô gào lên tưởng như tiếng hét của mình khản
đặc lại trong cổ họng:
-
“Yes, yes, yes, I’m ok”.
Khi tôi đến nơi xảy ra tai nạn, cô đang được
trùm một tấm chăn và vẫn đang run bần bật, tôi ôm cô thật chặt để truyền thêm
hơi ấm cho cô bớt run. Cô thổn thức trong nước mắt:
-
“Em tưởng không còn được gặp
anh và các con nữa rồi”.
-
“Đừng sợ, anh và các con vẫn và
sẽ còn gặp em mỗi ngày mà”. Tôi an ủi và nhìn vào đôi mắt vẫn còn đầy vẻ kinh
hoàng của vợ mình.
Đêm đó, trong giấc ngủ, cô choàng dậy la hoảng
vì dư chấn nỗi sợ hãi vẫn còn trong tâm trí. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy tôi vẫn
còn may mắn vì tôi vẫn còn có nàng kế bên và các con tôi vẫn còn có mẹ.
Giữa chốn thiên nhiên đẹp xinh này, nhìn cô
nhắm mắt như đang ngủ và hơi thở nhẹ nhàng, tôi chợt ý thức, trong lúc dịch bệnh
Covid vẫn còn đang hoành hành khắp nơi, mỗi một hơi thở thật là cái thước đo của
sự sống. Tôi cảm nhận được chúng tôi may mắn vẫn còn có nhau, chúng tôi vẫn tự
do hít thở bầu không khí trong lành trong khi biết bao người khác phải xài máy
trợ thở trong các phòng cấp cứu. Tôi thì thầm:
- “Chỉ cần có em bên anh thì mọi tai nạn, mọi
gian nan trong cuộc sống cũng không có gì đáng ngại”.
Cô ngẩng đầu lên hỏi tôi vừa nói cái gì.
Tôi chỉ mỉm cười nói không có chi, chúng mình chuẩn bị về vì trời sắp sửa về
chiều, rồi kéo cô đứng dậy. Mặt trời đang chiếu những tia nắng muộn màng lấp
lánh trên những chòm cây, ánh nắng chênh chếch rọi vào mắt khiến tôi hơi nhíu
mày.
Mặt trời lên rồi lặn, nhưng trái đất vẫn tồn
tại. Trời dù mưa lớn đến đâu, rồi trời cũng vẫn sẽ nắng. Đời người sinh ra, mất
đi, nhưng trái đất vẫn quay. Mọi giòng sông đều chảy ra biển rộng, nhưng biển vẫn
không bao giờ đầy. Cuộc sống vợ chồng mỗi ngày nối tiếp nhau như một vòng quay,
lập đi lập lại đến nhàm chán, nhưng nếu biết trân quý nhau, tình yêu lúc nào
cũng đơm hoa kết trái. Tình yêu là sống và dám hy sinh cho người mình yêu, mối
tình ấy sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian.
Tôi nghiệm ra cái quý nhất cuộc đời con người
là sự bình yên. Hạnh phúc cũng không phải là điều quá xa vời nếu chúng ta biết
trân trọng nó dù nhiều người đã không nhận ra cho đến khi đi gần hết con đường
đời. Nhìn lại cánh cửa của quá khứ, có lúc tôi tưởng tôi đã mất nàng, nhưng hôm
nay tôi vẫn còn được thấy nàng mỗi ngày trong cuộc sống. Tôi biết tôi hạnh
phúc.
Tôi biết tôi phải nói với vợ tôi ba chữ “Tạ
Ơn Em” ngay bây giờ hoặc sẽ không bao giờ. Tôi biết ba chữ đơn sơ này vẫn không
đủ nói lên những hy sinh nàng đã đi bên cạnh tôi suốt bao nhiêu năm trường gian
khổ có nhau như trong câu thề hứa của đôi tân hôn trước bàn thờ Chúa (2): “Sẽ
trung thành và thương yêu nhau từ bây giờ và cho đến mãi mãi, trong thịnh vượng
cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn
trọng nhau suốt đời, và chỉ cái chết mới có thể chia lìa đôi ta”.
Ngày nay, ở mọi nước trên thế giới, người
ta bày ra ngày Valentine để có dịp chúc tụng hay tặng quà cho người mình yêu. Đối
với tôi, tôi không chờ ngày đó mỗi năm, nhưng tôi trân trọng mỗi một ngày sống
bên vợ tôi, để tôi vẫn còn nói được ba chữ Tạ Ơn Em với nàng, bây giờ và suốt
đoạn đường còn lại của cuộc đời. Xin mượn hai câu thơ rất đỗi chân chất, mộc mạc,
và gần gũi của nhà thơ Bùi Giáng để được tạ ơn Em, tạ ơn Mình và tạ ơn Nhà Tôi:
Mình ơi tôi gọi là Nhà
Nhà ơi tôi gọi Mình là Nhà Tôi.
Nguyễn Văn Tới. 03/2021.
REFERENCES:
1 . Chinh Phụ Ngâm. Tác giả Đặng Trần Côn và dịch Nôm Đoàn Thị Điểm. Lament of the soldier’s wife.
https://en.wikipedia.org/wiki/Chinh_phụ_ngâm.
Mời nghe đọc truyện Tạ Ơn Em qua giọng đọc truyền cảm của nhà văn Như Ý
Viết Trước Ngày 30/04 - Nguoivietudo
Cách đây bốn mươi
sáu năm vào cuối tháng Tư một ngàn chín trăm bảy mươi lăm , nước Việt Nam Cộng
Hoà bi tử trận, trút hơi thở cuối cùng trước một địch thủ mà tài sức kém
mình mấy bậc, chỉ giỏi thí quân , đánh biển người học được từ Mao xếnh
xáng trong trận chiến Quốc Cộng . Thua vậy mới đau !
VNCH về tài sức
thì rõ ràng đáng bậc đàn anh , bởi vì Sĩ Quan
có trường đào tạo bài bản, đúng tiêu chuẩn quốc tế, lính phải trên mười
tám mới được chấp nhận , đủ sức khoẻ , ít nhất cũng từng đi học biết đọc biết
viết , không phải suốt đời đàng sau cái
đít con trâu . Vào quân đội rồi thì hưởng mọi quyền lợi dành cho người lính
, lưong bổng cho cá nhân và gia đình vợ
con . Khi đền nợ nước cũng có những quyền lợi dành cho Tử Sĩ , hoặc được giúp đở
tối đa nếu là Thương Binh giải ngũ . Khi còn khoác quân phục họ được trang bị để thích ứng trên chiến trường : dưới chân là
đôi giày bốt phòng chống chướng ngại đường hành quân, vải kaki dày che thân thể - còn
thêm áo giáp chống miểng - nhất là đội
trên đầu chiếc nón sắt che được phần sọ . Những điều này hoàn toàn khác hẵn với
đối phương trên đội nón cối làm bằng giấy bồi, dưới mang dép râu lộ hẵn bàn
chân cho muỗi nó chích . Vào Nam xâm lược nhưng lỡ phơi thây gia đình chẳng biết
đâu là mồ chôn, lúc nào là ngày giổ để hương hoa tưởng nhớ . Nói chung tiêu chuẩn
người lính giữa hai chiến tuyến khác xa nhau một trời một vực . Thế mà mọi rợ
đã chiến thắng văn minh như chính một nữ văn công của VC từng ôm mặt khóc xác
nhận khi vừa bước chân vào tiếp quản VNCH . Tại sao ?
1) Chiến Lược
Phòng Thủ :
VNCH chỉ cố gắng
giữ vững phần lãnh thổ của mình trước sự tấn công : phòng thủ tức luôn ở thế thụ động , địch được
tự do dưỡng sức , tích trử quân khí , lựa chọn thời điểm để ra quân . Lỡ thua
thì rút về chỉnh đốn bổ sung chờ dịp khác đánh nữa, trong khi quân trú phòng
hao hụt lực lượng, tinh thần căng thẳng, gia đình hoảng sợ toàn là thất lợi .
Lãnh đạo VNCH nhận
biết điều đó cho nên đã dự liệu kế hoạch Bắc Tiến . Với Hải Lục Không quân và những
đơn vị elites ( Dù, TQLC , BĐQ , BH , 81 BCND) kế hoạch có thể đã thành công :
Dù sẽ nhảy vào HN trong khi TQLC đổ bộ vào HP và BĐQ đánh thần tốc theo đường bộ
. Trước đó 81BCND mở đường trong hậu phương địch , kích động các phong trào chống
đối nổi dậy , cùng lúc với KQ và Hải Pháo quất tan nát các phi trường không cho
Mig bay lên mây tắt máy nằm chờ dí súng lục bắt sống Skyraider , F5 , B57... Mọi
chuyện sẽ ngã ngủ trong vòng tuần lễ như chiến thắng của Do Thái trước khối Á Rập
.
Các sư đoàn của BV
đang trong miền Nam sẽ không rut về kịp để cứu viện hay bảo vệ lảnh thổ như đã
chứng minh trong cuộc chiến biên giới Việt Trung 1979 . Khối CS cũng bất ngờ và
không dại gì can thiệp bằng vũ lực vì bíết chắc sẽ thảm bại trước sức chiến đấu
của quân đội VNCH ( nay lại cộng thêm quân dân miền Bắc vừa mới được giải phóng
) thêm khí tài quân sự hiện đại . Đặc biệt là mấy anh Tàu , chỉ có số đông chứ
vũ khí thô sơ, tinh thần chiến đấu không có (trận chiến cuối cùng lính Tàu tham
dự là vào năm 1949 giữa Quốc Cộng , kinh nghiệm đánh nhau = số không ) . Da thịt
con người làm sao đem ra đở đạn cho vũ khí thập niên 60's hay 70's ?
Tuy nhiên muốn làm
điều này phải có sự đồng ý của đàn anh . Mà nước Mỹ lúc đó được điều hành bởi
những nhân vật chết nhát nhưng rất thích đấu võ mồm . Chẳng hạn như Robert McNamara
( BTQP nhưng suốt đời chưa chắc bắn một viên M16 cho biết nó ra làm sao ) . Cho
nên mấy anh cứ sợ Tàu sẽ can thiệp như thời Triều Tiên . Mấy anh Mỹ không biết
tâm lý của Tàu như người VN. Mao có thể xua quân cứu bồ nhưng nếu bị dội cho
vài pass B52 Mao và bộ hạ sẽ xách đít chạy trước nhất vì Tàu đã nổi tiếng thế
giới khi bị Nhật mai mỉa là Đông Á Bệnh Phu .
Còn Nga thì sao ?
dù là hai đàn anh trong thế giới CS nhưng Nga Tàu đâu có ưa nhau , cũng như hai
cọp không thể ở chung một rừng . Nga sẽ vỗ tay vui mừng nhìn Mỹ hạ đo ván Tàu
và VC , miễn Mỹ cam kết sẽ không đụng chạm gì tới Nga
2) Chiến
Tranh Chính Trị :
Trong khi lính CS
bị nhồi sọ và tuyên truyền về đời sống cực khổ tù đày áp bức của người dân VNCH
họ cũng được khuyến khích bất cứ cái gì trước mặt họ ở miền Nam đều là kẻ thù
và rất xứng đáng bị tiêu diệt . Cho nên họ thoải mái nã pháo vào thường dân chạy
loạn trên Đại Lộ Kinh Hoàng khiến chật đường đầy xác chết mặc đồ dân sự. (Quân nhân được phân phát vũ
khí để đánh nhau với kẻ thù , dùng vũ khí sát hại dân tay không vũ khí thì
không xứng đáng tự xưng mình là lính) . Ngay trên đường thắng trận họ cũng
không ngần ngại xả súng và ném lựu đạn vào nhóm thường dân đang quây quần bên
mâm cơm như chính lời phản tỉnh của ông Trần Đức Thạch một CCB VC.
Tôi luôn luôn phản
đối chiến tranh vì không gì vô lý bằng những con người không hận thù cá nhân,
không quen biết lại lăn xả vào nhau hầu giết cho được đối phương trước khi họ
giết mình . Đâu phải chỉ có người chết ngoài mặt trận , hệ luỵ của nó còn lan tỏa
tới cha me , vợ chồng , anh chị em....những người còn sống sót . Tuy nhiên những
người lính miền Nam họ phải cầm súng vì họ không còn lựa chọn khác . Thay vì họ
trở thành bác sĩ, kỷ sư , luật sư , chuyên gia kỷ thuật góp chuyên môn của mình
làm giàu cho đất nước , làm người chồng người cha trong gia đình hạnh phúc , họ
phải xếp lại tất cả những thứ ấy , từ giã những người thương yêu nhất để cầm lấy
vũ khí giết người . Tất nhiên họ không phải làm vậy nếu VC không cử quân đội
khí tài xâm lược giết chóc phá hoại quê hương đồng bào họ. Nếu VNDCCH và đám cắc
ké MTGPMN không gây máu lửa thì thanh niên miền Nam có cần bỏ tất cả mà cầm
súng không ?
Do đó thay vì có một
nền văn hoá " Thề phanh thây uống máu quân thù ...." người miền Nam -
kể cả văn nghệ sĩ quân đội- thể hiện quan điểm của mình qua cách viết . Họ
không đề cao giết chóc, lấy cái chết đối phương làm hãnh diện hay vui sướng . Họ
kể lại những trận đánh như kinh nghiệm sống còn , tác phẩm của họ không nhuộm
màu máu . Nhiều vị rất nổi tiếng sau 1975 như Thiếu Tá Vuơng Mộng Long ( B Đ Q
) Thiếu Tá Tô Văn Cấp ( TQLC ) Đại Uý Lê Đắc Lực ( BCND ) Đại Úy Trương Văn Út
( Út Bạch Lan TSND) Đỗ Đức Thịnh ....bên dân sự như bác Võ Thành Nam ( Tiểu Tử
) . Với tôi đây là những BẬC THẦY trong nghệ thuật viết **
Trong chiến tranh
sống còn, đây không phải là ưu điểm . VC đã thành công khi hướng toàn bộ sức mạnh
tuyên truyền để ru ngủ và hướng căm thù vào mục tiêu duy nhất . Cho nên lính VC
ngoài chém giết dân quân miền Nam , họ không còn biết làm gì khác . Điều đó giải
thích tại sao họ thành công khi đánh biển người .
Lính và dân miền
Nam không bị nhồi sọ , chỉ chiến đấu vì
nhiêm vụ cho nên họ không quyết tâm cao độ như thế . Hễ có dịp buông vũ khí họ
sẽ chấp nhận ngay lập tức , điều này giải thích phần nào sự tan rã nhanh chóng
quân đội miền Nam ngày 30/04/75 . Bởi nếu họ được dạy dổ căm thù CS như CS căm
thù họ thi mỗi người miền Nam sẽ là một
commando và còn lâu CS mới chiếm được miền Nam dễ dàng như xãy ra trong quá khứ.
Dù sao đó cũng là
nét son của miền Nam bởi nó nói lên nếp sống hoàn toàn tư do không bị ép buộc
gò bó trong bất cứ hệ tư tưởng hay giáo điều nào . Chúng ta cũng thành công ít
nhiều khi vẽ ra được hình ảnh man rợ của lính CS nhất là tụi du kích - tuy mọi
rợ nhưng rất thích đóng vai văn minh - điển hình là hai anh Nguyễn Xuân Phúc và
anh BTGD ngọng ( quên tên ) - . Ở đâu xuất hiện VC ở đó dân bán mạng chạy về
phía Q Đ VNCH
Chỉ còn tháng nữa
vết thương lòng lại bị xé toạc ra , niềm đau lại trở về, xin hãy cầu nguyện
cho tất cả anh linh đã qua đời trong chiến tranh VỆ QUỐC , đặc biệt những thanh
niên miền Nam đã hy sinh vì Tổ Quốc khi tuổi đời còn quá trẻ . Nếu không có sự
xâm lăng của miền Bắc , họ đã là nguồn tài nguyên quý báu cho VNCH trong các
vai trò chủ yếu...
Viết Thêm Một
Chút ;
** Quý vị văn sĩ
quân đội mà tôi nêu trên xứng đáng được coi là những bậc thầy về viết lách .
Tôi biết Th. T. Vương Mộng Long vài năm về trước khi tình cờ đọc một bài viết của
ông . Về Th.T. Tô Văn Cấp tôi đọc từ khi ông còn dùng tên(Philato ) Xin cúi đầu
trước những hy sinh trong gia tộc Thiếu Tá . Nguyện xin Tổ Quốc Ghi Ơn những
đóng góp máu xương từ những người thân trong gia tộc . Đ.U. Lê Đắc Lực qua tác
phẩm " Tàn Cơn Khói Lửa " , Đ.U Út Bạch Lan từ khi ông còn nắm Đ Đ 2
TSND và ông Đỗ Đức Thịnh trong một tác phẩm viết về An Lộc .
Đặc điểm của các tác giả trên là tác phẩm của
họ không chứa căm thù hay máu me giết chóc . Đó là điều rất đáng nễ và đáng để học nếu
biết họ xuất thân nhà binh.
Về dân sự tôi luôn luôn trọng nễ tác giả Tiểu Tử . Ông viết
văn như làm thơ và tác phẩm nào cũng chứa đầy ắp tình cảm mênh mang của một người
miền Nam .
Tôi vốn muốn viết những giòng này từ lâu để bày tỏ lòng ngưỡng
mộ đối với quý vị và xin ơn trên ban cho quý vị và gia đình ơn bình an và sức
khoẻ .
Tôi luôn trân trọng quý vị như những bậc thầy.
Nguoiviettudo
Tuesday, March 30, 2021
Con Bù Tọt - Đỗ Duy Ngọc
Thú thật là từ nhỏ cho đến tháng 4/1975, tui không hề biết trên đời này có con bù tọt. Ếch, nhái thì biết vì được ăn ếch chiên bơ, ếch kho nước dừa…cũng năm thì mười hoạ thôi vì mạ tui thấy lột da, ác nhơn quá, không làm. Chỉ khi nào được dẫn đi ăn nhà hàng thì mới thưởng thức mấy món này. Hơn nữa hình như người Huế, Đà Nẵng không khoái ăn món ếch nhái lắm.
Giải Thích Từ Đại Học Đức Về Cục Máu Đông Sau Khi Tiêm Vắc Xin Của AstraZeneca - Phương Tôn
Trong những ngày
vừa qua, đặc biệt tại Âu châu đã nỗi lên mối lo ngại gây bàn tán sôi nỗi trong
dư luận quần chúng thông qua các phương tiện truyền thông dẫn đến sự can thiệp
của một số chính phủ khi nguồn tin một số người đã có các cục máu đông nguy hiểm
trong não sau khi tiêm vắc xin Corona của AstraZeneca được công bố.
Đan Mạch bắn
phát súng đầu tiên ngưng cho tiêm vắc xin của AstraZeneca vào ngày 11.03 rồi tiếp
theo trong ngày là Na Uy và Island. Tiếp theo như hiệu ứng Domino, các nước Ý,
Pháp, Portugal, Tây Ban Nha, Hòa Lan, Irland, Đức… lần lượt cũng đưa ra lệnh tạm
ngưng tiêm chủng toàn bộ vắc xin của AstraZeneca. Ngoài ra một vài nước khác
như Áo, Romania, Estland, Litauen cho tạm ngưng chích một loạt vắc xin nhất định
(Charge). Nhưng vào ngày thứ sáu 19.03, bộ y tế Đức đã cho phép được sử dụng vắc
xin trở lại sau khi EMA, cơ quan dược phẩm của EU bật đèn xanh, khi kết luận rằng
loại vắc xin này an toàn và hiệu quả.
Cho đến nay, các
chuyên gia vẫn không thể khẳng định cũng như loại trừ mối liên hệ giữa vắc xin
và các bệnh nghiêm trọng tuy nhiên vừa mới đây, các nhà nghiên cứu của đại học
Y khoa Greifswald – Đức đưa ra câu trả lời, tại sao một số người lại có các cục
máu đông trong não sau khi tiêm vắc xin AstraZeneca ngừa corona.
Trong thời gian
chích ngừa Corona, không riêng vắc xin của AstraZeneca bị nghi ngờ có khả năng
tạo ra các cúc máu đông ở tĩnh mạch não mà còn có các biến chứng nghiêm trọng
khác cũng được báo cáo:
– Mặt bị liệt:
Biontech / Pfizer 193 trường hợp, Astrazeneca 88 trường hợp
– Sưng mặt:
Biontech 230 trường hợp
– Huyết khối
(Thrombosen): Biontech 10 trường hợp
– Giảm tiểu cầu
(Thrombozytopenie): Astrazeneca 35 trường hợp, Biontech 13 trường hợp
– Rối loạn hình ảnh
máu: Astrazeneca 1098 trường hợp
– Các biến chứng
liên quan đến mạch máu não (zerebravaskuläre Ereignisse): Astrazeneca 41 trường
hợp
– Xuất huyết
não: Astrazeneca 7 trường hợp
– Đột qụy:
Astrazeneca 9 trường hợp
– Mù mắt:
Biontech 15 trường hợp, Astrazeneca 28 trường hợp
Con người sinh
ra không ai giống ai nên thân thể phản ứng với dược phẩm cũng không thể đòi hỏi
giống nhau được. Ngay với “thần dược” trụ sinh đã tồn tại, đã được nghiên cứu từ
hàng trăm năm nay và cũng đã cứu được hàng trăm triệu người, nhưng vẫn gây nguy
hại cho nhóm người bị dị ứng với trụ sinh. Hoặc với Aspirin, một “viên thuốc đa
dạng” lâu đời có từ thế kỷ 16, giúp giảm đau không thể thiếu trong tủ thuốc gia
đình, được dùng để chống từ đau răng cho đến ngừa xuất huyết nảo hoặc có thể ngừa
ung thư trực tràng, ruột già, nhiếp tuyến nhưng không phải ai cũng có thể sử dụng
Aspirin được vì có những người dùng thuốc có thể bị xuất huyết bao tử. Những
người có tiền sử mắc bệnh loét bao tử, dị ứng với Aspirin, bệnh gan thận trầm
trọng hoặc bệnh xuất huyết cũng không nên uống Aspirin.
Trong đại dịch
Corona, là những người sử dụng, được hưởng phước báu sẽ được chích ngừa chống lại
con virus Covid-19 tàn độc đang giết hàng triệu người trên thế giới, chúng ta
không được phép quên rằng, trong dược phẩm vẫn luôn luôn tiềm tàng một mối nguy
nào đó cho một nhóm người nhất định chứ không bao giờ hoàn hảo được.
Phương Tôn
Tháng
3. 2021
Nguồn:
FORSCHER LIEFERN MÖGLICHE
ERKLÄRUNG FÜR THROMBOSEN NACH CORONAIMPFUNG (SPIEGEL.DE)
WIE HOCH IST DAS
ASTRAZENECA-RISIKO? (N-TV.DE)
Für seltene Hirnvenenthrombosen gefunden! (medizin.uni-greifswald.de)
Monday, March 29, 2021
Định Nghĩa Mẹ Vợ Ở Mỗi Quốc Gia
Dầu Hào Không Phải Là… Dầu - Vũ Thế Thành
Dầu hào không phải loại
dầu chất béo như dầu cá, mỡ heo… Đó là một loại nước sốt gia vị, dạng sền sệt,
trong đó có chứa dịch chiết xuất từ hàu. Nhưng dầu hào trên thị trường hiện nay
có rất nhiều loại. Ngoại trừ loại dầu hào chay, còn dầu hào có hàu, là gọi cho
có. Dầu có hàu thực hay không, có Trời mới biết.
Một sự lơ đãng… vĩ đại
Chuyện kể rằng, một ông chủ quán thức ăn nhẹ ở Hồng Kông, làm món
hàu luộc cho khách. Lớ ngớ, lơ đãng thế nào đó, ông ta quên mất nồi hàu. Nước
đun cứ thế cạn dần, cho đến khi ông chủ ngửi thấy mùi thơm lừng. Vội mở nắp nồi,
thì nước đã cạn, chuyển sang dạng sền sệt có màu nâu đen.
Nước sốt dầu hào khởi đầu từ sự lơ đãng của ông chủ quán ăn. Và sự
lơ đãng này đã biến ông thành triệu phú nước sốt gia vị đủ loại.
Nước sốt dầu hào thứ thiệt phải được chế biến từ nước luộc hàu.
Đun riu riu hàu với nước, từ khi nước còn trong chuyển sang dạng đục. Cô nhẹ lửa
tiếp cho đến khi nước hàu bị caramel hóa chuyển sang màu nâu có nhớt sệt. Không
cần phải thêm bất cứ chất gia vị nào như muối, bột ngọt… vào, vì nước sốt dầu
hào thứ thiệt này dư sức tạo hương vị đậm đà.
Nhưng cách chế biến nước sốt dầu hào “thứ thiệt’ công phu như thế
này đã chìm vào dĩ vãng.
Hiện nay người ta dùng bột bắp để làm nước dầu hào trở thành dạng
sệt, thêm đường, muối và bột ngọt để tạo vị, dùng caramel để tạo màu nâu… Hương
liệu thì mùi nào cũng có, huống chi mùi… hàu. Tuy nhiên, hãng nào cũng kê khai
dùng chất chiết xuất từ hàu (oyster extracts). Chất chiết xuất này được
nhiều bao nhiêu, hay chỉ thêm vào chút đỉnh để gọi là có mùi… hàu, có Trời mới
biết.
Nhắc lại xì-căng-đan 3-MCPD trong dầu hào
Năm 2001, Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm Anh Quốc phát hiện ra 22% mẫu
nước sốt dầu hào và nước tương có chứa chất 3-MCPD vượt mức cho phép. Ngoài ra,
2/3 trong số các mẫu này còn chứa thêm chất 1,3- DCP. (1)
Cả hai chất 3-MCPD và 1,3 DCP đều thuộc nhóm chloropropanol, được
xác định là chất gây ung thư. Có một thời gian sốt dầu hào bị cấm ở châu Âu.
Về nguyên tắc, bất cứ thực phẩm nào có chất béo, có
muối (nguồn cung cấp clor) đều có thể phát sinh ra 3-MCPD ester. Chất
này sẽ chuyển hóa thành 3-MCPD khi nấu nướng, hoặc dưới tác động
của các men lipases trong hệ tiêu hóa. Cơ chế chuyển hóa này chưa được xác định
rõ ràng.
Vì thế 3-MCPD (hoặc 3-MCPD ester) có thể được tìm thấy
trong các loại bánh nướng, phó mát, thịt chiên, salami, dầu tinh
luyện, sữa bột, cà phê rang… Tuy nhiên, hàm lượng của chúng rất ít, có
khi chỉ là dạng vết. Chỉ có nước tương và dầu hào là bị “chiếu
tướng” kỹ vì hàm lượng 3-MCPD tìm thấy ở đây khá cao.
Chưa có bằng chứng cho
thấy độc tố 3-MCPD gây hại cho người, nhưng thử nghiệm ở chuột thì
thấy rõ, chỉ cần hàm lượng rất nhỏ 1mg/kg thể trọng đủ để ảnh
hưởng đến hệ sinh dục. Ở liều lượng cao hơn và tiếp xúc thường
xuyên, thận sẽ bị tổn thương. Chất 3-MCPD được xem là chất gây ung thư.
Vì thế, về mặt an toàn thực phẩm, 3-MCPD phải được loại bỏ cho chắc
ăn, nhưng loại bỏ triệt để là điều không thể.
1,3 DCP được phát hiện ở mức ít hơn so với 3-MPCD, tìm thấy chủ yếu
ở thịt bò bằm, jambon và xúc xích. Không hiểu vì sao cũng được tìm thấy ở dầu
hào. Nhưng mức 1,3-DCP trong các sản phẩm trên, kể cả dầu hào, được xem là quá
thấp để có ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng. Cơ chế hình thành 1,3-DCP hiện
nay vẫn chưa được biết rõ. (2)
Hãng làm dầu hào bị phát hiện có 3-MDCP vượt mức cho phép, cũng
chính là “hậu duệ” của ông chủ quán lơ đãng tìm ra nước sốt dầu hào năm xưa.
Hãng này giải thích là do chuyển đổi công nghệ nên mới ra nông nỗi thế.
Xì-căng-đan phát hiện 3-MCPD trong dầu hào ở Anh Quốc là một cú sốc,
và có một thời gian dầu hào bị cấm ở Âu châu . Hiện nay, mọi thứ đã lắng dịu.
Các chất 3-MCPD và 1,3 DCP tìm thấy trong dầu hào chỉ mức rất nhỏ. Dầu hào lại
được phép bày bán thoải mái trở lại ở Âu châu cả hơn chục năm nay.
Bảo quản sốt dầu hào
Sốt dầu hào làm tăng hương vị của nhiều món ăn, thêm sống rồi làm chín lại, hay trộn sống luôn vào món ăn là tùy vào khả năng… “khéo tay hay làm” của quý bà. Bất khả tư nghị! Nhưng về mặt an toàn, cần lưu ý những điểm sau:
- Dầu hào thứ thiệt có tuổi thọ rất… mong manh, dễ bị hư hơn hàng “không thiệt”. Rất may mắn là hàng thứ thiệt lại khó tìm, trừ khi là “hàng nhà làm”, mà phải do chính tay thân chủ mua hàu về làm, chứ còn “hàng nhà khác làm” thì coi như hàng…lạc chợ.
- Chai dầu hào nếu đã mở nắp, dùng dở dang, nên đậy chặt và lưu trữ trong ngăn mát tủ lạnh.
- Nếu lưu trữ đúng cách, thì tùy vào thành phần ‘bí hiểm’ của dầu hào, mà tuổi thọ có thể kéo dài khoảng vài ba tháng, từ khi mở nắp. Tuy nhiên, nếu dầu hào bị biến màu, có mùi khó ngửi, hoặc độ sệt trở nên lỏng bất thường, thì nên bỏ.
Vũ Thế Thành (vuthethanh202@gmail.com)
So Sánh Và Sự Khác Biệt - Đúng Quá!
Boat People - Lan Chau Nguyen
Xin gởi đến các bạn bài viết của con gái chúng tôi là Ngyễn Ngọc Lan Châu viết tại Montréal năm 1989. lúc cháu được 14 tuổi và đang học high school 4 trường trung học Lemoyne d'Iberville, Longueuil., Quebec, Canada.Bài viết ESSAY được nhà trường chọn đăng trong quyển REFLECTION 89. A LITERARY ANTHOLOGY của trường nói trên. Cháu tốt nghiệp ưu hạng (cum laude) ngành vật lý trị liệu.(physiotherapy) tại Univ Of Ottawa. Lan Châu làm việc một năm tại bệnh viện Saint Luc, Montreal và năm sau được nhận vào học Medecine tại Univ de Montreal- Cháu tốt nghiệp y khoa năm 2005.
I was only 4 and my brother 2 when we left our native land with my parents and other people on a simple boat. We abandoned everything we constructed, everything we dreamed to build, for freedom and happiness.
On the night of March 20th 1980, the boat left the shore of Viet Nam . Although my parents knew what danger we could face we were the first ones in our family to attempt this trip with no return ticket. Farewell to Viet Nam......
Waves crashed on the boat. My mother held tightly the baby and father 's arms were wrapped around me. There were so many people but not enough food to feed the starving ones. We sat and slept all day long in the boat's hold. It was far from comfortable. Everybody had to do their toilet at their sitting place. The sea sickness entered inside us and occasionally we had to vomit. Soon, the cave was covered with an unpleasant slimy water on which we sat. The captain gave each of the passengers some pills to avoid a sickness that we might catch during the journey. The crew didn't see any line of earth at the horizon for days. Above us....the sky. Under us....the sea.
We were short of food and fresh water. The usual meal we had was some rice , mixed with water. Our faces were pale, our bodies were thin. The boat navigated at the mercy of the sea, trying to cut through the strong waves. We were worried and terrified but hung on tightly to the rope of hope. The mothers caressed their children, saying that it will soon be over.
We didn't park our tiny boat next to theirs. The shock would have been so violent that it would probably make a hole in ours. We looked to each other, searching for a brave one who would swim across the green water to the pirates, not knowing how deep the sea was, not knowing if there were any sharks in the neighbourhood . Our impatient opponents were ready to shoot. They cried some words. Suddenly, my father declared, " I'll swim " .
He looked at my mother , my brother and me with tender eyes. He took the bag, attached it around his shoulder and dived into the cold water. Mother didn't let him out of her sight, for she worried that her husband would never return.
Father was pulled violently on board the pirate' boat. Guns and knives were pointed at him. The captain quickly opened the bag and seemed satisfied . Soon, my father was surrounded by people , with a used blanket covering his body. Mother sat next to him. She was relieved.
Land ahead ! Land ahead ! On the last day of April ,the boat approached nearer to the shore of the new land as we were cajoled by the warm sun on the bridge. Other wooden boat boats were lined up; therefore, we knew we weren't the only ones to survive and cross the line to freedom. No words could describe what our spirits felt on that glorious day .
When we stepped on the solid ground of Thailand, we were dizzy as we walked to the refugee camp. The black and white film was transforming into a multicoloured fairy tale.
Three months later, a Canadian family sponsored us . On the 22nd of June 1980, the plane flew above the white clouds. I had traveled almost the half of the earth to learn and know what life and freedom meant to us. I had witnessed the pain men could do to their fellow men and the love they could offer. We cannot erase the terrible nightmare we had lived : ; it is printed in the book of our lives. It's time to turn to the next page.....
A holder of a Doctorate in General Medicine from the University of Montreal, Dr. Lan Chau Nguyen has been a general practitioner since 2005. She is a member of the Collège des Médecins du Québec and of the Medical Council of Canada.
Dr. Nguyen also received specific training in aesthetic medicine in Paris, Orlando and Toronto, and obtained her Bachelor of Science in Physiotherapy from the University of Ottawa.
Her expertise and passion are a perfect fit with our team. Thanks to her particular attention to detail, her dedication and a light touch of humor, she easily wins the trust of her patients and helps them feel at ease. She is respected and appreciated for her professional skills, finesse and rigor in assuring the comfort and complete satisfaction of her clients.
Membre du Collège des médecins du Québec et du Conseil médical du Canada, Dre Lan Chau Nguyen possède un doctorat en médecine générale de l’Université de Montréal et exerce sa profession d’omnipraticienne depuis 2005.
Elle a également suivi plusieurs formations en médecine esthétique à Paris, à Orlando puis à Toronto. Elle détient par ailleurs un baccalauréat en physiothérapie de l’Université d’Ottawa
Lan Chau Nguyen