Pages

Friday, December 31, 2021

Bệnh Di Truyền… Lạ - Phan


Lúc này việc làm của tôi nhiều, bị áp lực công việc thì không nhưng cũng không thoải mái được với hoàn cảnh những người khác phải chờ mình. Bà sếp đến thương thảo với tôi phải nhận thêm người mới và chỉ dẫn họ làm phụ với tôi. Nhưng đó là chuyện tôi sợ nhất vì những người mình xin thường không được bởi họ cũng đang đầu tắt mặt tối như mình ở một xó khác, cái xó qủy tha ma bắt này cũng không ai muốn tới vì việc khó nên sai trật nhiều, trách nhiệm cũng nhiều mà lương cũng vậy. Chính vì lẽ đó mà tôi sợ một con gấu mẹ vĩ đại, hay một ông kẹ nào đó bị những nơi khác chờ dịp tống đi mà sếp đưa đến đây thì tôi chết chắc. Và bà sếp thì lúc nào cũng giỏi hơn những ông sếp trong cách dụng người. Vậy là từ đó, những người đang làm những việc làm khác mà rảnh tay là bị sếp điều đến giúp tôi, dù hết người này đến người khác đều không ai thích nên việc giữ hoà khí với đồng nghiệp, đồng hương càng khó cho tôi…

Hôm nay có hai người bạn làm chung được điều tới với tôi nguyên ngày. Ông bạn già thì cố gắng bằng thừa vì mắt kém, tay run. Người bạn trẻ lại quen làm việc nặng chứ không thích công việc đòi hỏi tỉ mỉ, một chút khéo tay và nhẹ nhàng…

Tôi nói hai người bạn, “hai ông cứ làm rể cho qua ngày, sếp mình là má vợ thì hai ông biết rồi, không bao giờ để cho ai được rảnh tay vì bà đã gả con gái thì nhà bà khỏi mua trâu…” Họ tán đồng ngay, anh em đều muốn làm việc chung với tôi cho vui, chỉ ngặt sếp ưa đì tôi làm việc khó nên họ ngại trách nhiệm. 

Thôi thì họ làm được gì làm, chỗ đồng nghiệp, đồng hương lại anh em cột chèo chung một mái nhà bà nhạc chằn ăn trăn quấn. Đến nửa ngày, hai người rách việc ngồi tán dóc. Tôi nghe người bạn trẻ nói với ông già, 

“Anh chị lớn tuổi rồi mà cãi nhau mỗi ngày như vậy thì làm sao sống nổi?”

Ông già thở dài, “Chứ anh hỏi em, tức ói máu mà không cãi thì anh ói ra lục phủ ngũ tạng anh luôn hả?”

“Cũng khổ cho anh, còn em khác. Em lấy vợ cũng lâu rồi, con em mười lăm tuổi rồi còn gì. Nhưng vợ em chưa bao giờ cãi em một tiếng…”

“Thiệt không vậy?” Ông già hỏi với cái nhướn mắt đầy nghi hoặc…

Người bạn trẻ trả lời chắc nịch, “Má vợ em có cãi, nhưng vợ em thì không bao giờ. Như cuối tuần nào đó, về nhà ngoại ăn hủ tiếu. Má vợ em nấu hủ tiếu Nam vang cho cả nhà ăn. Em khen, ‘má nấu hủ tiếu ngon quá, làm con nhớ hủ tiếu gõ ở Sài gòn…’ Má vợ em cãi liền, ‘cái anh này, má nấu hủ tiếu Nam vang đặc biệt cho cả nhà ăn, vậy mà nói giống hủ tiếu gõ được hà…’ Vợ em nói với má, ‘cứ ăn bằng tô, trong tô có sợi sợi và nước lèo nóng hổi thì ảnh gọi là hủ tiếu. Hơi đâu má cãi ảnh không biết phân biệt bún bò huế với bún mắm; bún riêu, búng mộc, bún nước lèo, mì quảng… ảnh gọi là hủ tiếu hết. Hủ tiếu gõ là ngon nhất đối với anh ấy…’

Anh thấy không, má vợ em không hiểu ý em nên mới cãi, chứ vợ em đi guốc trong bụng em rồi nên đâu có gì để cãi nữa.”

“Anh không tin đâu! Đàn ông còn nhịn vợ chứ đàn bà không bao giờ nhịn chồng.”

“Anh nói cũng đúng, vì em cũng thấy nhiều rồi. Hình như vợ chồng nào cũng cãi nhau thì mới ăn cơm được, nhưng vợ em chưa hề cãi em một tiếng? Sống với nhau mười mấy năm rồi, tính luôn mấy năm quen biết là có hai mươi năm hơn, vợ em chỉ biết ‘dạ’…”

Ông già thêm kinh ngạc nên phiền đến tôi, “Anh có tin nổi không?”

“Tin chứ sao không!” Tôi trả lời rồi nói tiếp, “… thấy vợ định làm bất cứ chuyện gì thì chồng cũng đều nói: Em để đó anh. Việc đó cực lắm, để anh làm cho…” Hay nói với vợ, “em thích ăn tôm hùm hả, ăn hết hai con luôn đi. Anh ăn mì gói, anh không thích tôm hùm lắm…” Thì vợ nào chẳng ‘dạ’; ‘dạ anh’ ngọt như Điêu Thuyền ‘dạ’ Lữ Bố thì Đổng Trác mới chết. Ngọt mật chết ruồi, giơ cao đánh khẽ… đều là đàn bà cả.”

Ông già tâm đắc với câu trả lời của tôi, nhưng vẫn hoài nghi anh bạn trẻ nên anh ta đưa ra dẫn chứng nhằm thuyết phục ông già…

“Như em đi làm về, em thường la lối om xòm, ‘em dọn dẹp hết mớ giày dép của hai má con chỗ máy giặt dùm anh, không là anh vụt hết vô thùng rác đó…’ Vợ em ‘dạ’ liền. Em chưa hết bực mình nên nẹt thêm, ‘có cần phải mua giày dép cả đống như vậy không, vừa hoang phí vừa chật chội, bừa bộn cả nhà…’ Vợ em ‘dạ’ lần nữa, ‘để em dọn liền’.

Nhưng em đi ra đi vô, ở nhà em lại thường đi chân không cho mát nên giẫm đạp lên mấy đôi giày cao gót làm mình đau chân muốn chết. Bực quá, em ngồi xuống, xếp hết giày dép lên kệ để giày dép cho thật ngay ngắn, ngăn nắp đúng ý em mới thôi.

Thường cuối tuần ở nhà, vợ nấu bữa ăn ngon cuối tuần là phải, nấu vài món cho tuần tới giỡ cơm đi làm là đúng quá rồi. Nhưng tuần nào cũng nấu chè, làm bánh… Lúc nào cái bồn rửa chén cũng tù lu tới em muốn rửa cái ly cà phê để uống trà cũng không được. Em la làng ỏm tỏi, “em rửa hết cho anh cái bồn rửa chén này liền lập tức. Cái gì mà tù lu tới anh muốn rửa cái ly cà phê để uống trà cũng không xoay được cái vòi nước qua bên nào hết.” Vợ em ‘dạ’ liền. ‘Dạ’ chắc như đinh đóng cột. Vậy mà em đi cắt cỏ vô, cái bồn rửa chén vẫn tù lu như cũ. Em la dữ hơn thì vợ em ‘dạ’ thêm lần nữa. Tới lần thứ ba thì em bực hết chịu nổi… em xắn tay áo.”

“Vậy là đầu hàng vô điều kiện rồi còn gì mà kể…” Ông già cười rất vui nhưng rõ là không vui kết luận.

Người bạn trẻ cũng không thua, “Em đâu có đầu hàng. Vì lúc mình giận thì la lối om xòm theo bản năng hay la, nhưng hồi bình tĩnh, ngẫm nghĩ mới thấy thương vợ. Vì không muốn con ăn chè, bánh bán ngoài chợ nên mới tự nấu ở nhà. Vì thương Phật bà, tổ tiên trên bàn thờ phải coi nhà cho vợ chồng đi làm, con đi học suốt cả tuần thì cuối tuần cũng nên mời Phật bà, mời tổ tiên ăn chén chè, miếng bánh bò nướng, miếng khoai lang chiên… Em cũng mặc cảm tội lỗi với bề trên lắm chứ. Hồi nhỏ thì muốn gì cũng nói với bà ngoại. Bây giờ ngoại ngồi trên bàn thờ thì thằng cháu cả năm không đốt được cây nhang. Em nói đúng không? Cả năm không đốt được cây nhang cho Phật bà, nhưng cứ hễ cáp độ cà na trong hãng với anh em là khấn Phật bà cho con thắng; dù chỉ cáp độ hộp bia, hay dĩa cánh gà cay đâu có bao nhiêu tiền…

Cứ như vậy, họ đã quên hẳn việc làm. Một già một trẻ chắc không nhớ cả hai đang còn trong hãng, đang giờ làm. Họ tiếp tục tâm sự râm ran…

“Anh biết không? Ăn cơm trưa xong là em nhắc, “giặt đồ đi em. Ngày mai đi làm rồi, anh hết vớ rồi đó.” Vợ em ‘dạ’. Nhưng chiều chủ nhật, mặt trời lặn tới mắt cá biển rồi, cũng không nghe tiếng máy giặt, máy sấy chạy gì hết. Em vô nhà tắm, thấy đống quần áo dơ như đồi thông hai mộ. Em bực quá… ôm hết đi giặt; cho vợ nấu mấy loại chè, làm mấy thứ bánh, cho Phật bà tiểu đường chơi, cho tổ tiên béo phì với nước cốt dừa thì chưa chắc nhưng ông ba má vợ ở gần nhà là có cơ hội hơn… ”

Ông già khoái chí, cười nắc nẻ. “Hay. Hay. Chiêu này hay. Anh học em đó. Từ nay vợ anh nói gì anh cũng ‘dạ’… rồi kệ mồ bả. Ba má vợ anh chết rồi chứ không anh cũng xúi vợ nấu chè, làm bánh nhiều nhiều vô vì má vợ anh người Quảng, ba vợ người Bình định thì em biết rồi…”

Đến anh bạn trẻ cười đồng tình vì trúng ý anh hay sao. Anh nói tiếp, “Hèn gì anh chị cãi lộn không biết mệt. Theo em thấy ‘cãi’ là bệnh di truyền, vì hầu hết anh chị em người Quảng trong hãng mình đều là thầy ‘cãi’. Em chỉ không ngờ ‘dạ’ cũng là bệnh di truyền. Để em kể cho anh nghe về một buổi trưa chủ nhật ở nhà em. Em đang coi trận banh cà na trên tivi thì nhỏ con gái em cứ gọi giật giọng mấy lần em cũng không rời mắt khỏi tivi vì đội nhà sắp ghi điểm, tới nó đến chỗ em đang ngồi, nắm tay em – dắt ba đi.

Hai cha con ra garage, nó kê sẵn cái ghế đẩu cao. Kéo, lược sắp sẵn. Nói, ‘ba cắt tóc giùm con. Con nực quá!” Em nói, ‘sao không nói mẹ, sao mẹ không cắt tóc cho con?’ Nó nhìn em thách thức thấy ghét, ‘vợ ba mà ba hỏi con! Con nói mẹ hai tuần rồi…’

Em cắt tóc cho con gái em xong. Em nói nó, ‘con quét dọn chỗ này rồi đi tắm gội. Nhắc mẹ trả tiền nhà cho ba, tới ngày rồi đó…” Nó ‘dạ’ rồi biến. Em quét dọn cho con mình thì có sao đâu, nhưng hồi em vô nhà thì thấy nó lên mạng, nó vô trang nhà của mortgate để trả tiền nhà, nhưng nó không biết password nên lúng túng. Em nói, ‘ba nói con nhắc mẹ trả tiền nhà chứ ba đâu có sai con làm.’ Nó ‘dạ’… rồi biến vô phòng. Bỏ cái laptop trên bàn ăn cho em.

Em ngồi xuống cái laptop, trả tiền nhà mà tức vợ vì em đã nói nhiều lần, ‘em phải biết hết mọi chuyện dính tới gia đình như tiền lương đi làm có vô trương mục nhà băng của mình đúng không? Rồi hằng tháng phải lên mạng trả tiền điện nước, tiền nhà ra làm sao, bao nhiêu, ngày nào là hạn chót trả tiền thẻ nhựa… Đâu phải cái gì cũng bỏ đó cho anh. Anh chết bất tử thì hai mẹ con ra chùa ở cho thầy lo hả?’ Nhưng cứ ‘dạ’ rồi đâu có làm. Nay truyền nhân đời thứ hai đã lộ diện, em nói con em là password trả tiền nhà, ba dán trên tủ lạnh cho mẹ con đó. Nó ‘dạ’ rồi biến vô phòng chứ đâu có làm. Càng giống mẹ hơn là con em cũng không bao giờ cãi, nói gì nó cũng ‘dạ’… nhưng không có làm. 

Tới hôm em giận quá, sáng nào vợ cũng đi làm trước, tới em rời nhà đi làm rồi con đi học sau. Hôm đó trời lạnh nên em nói con, ‘con nhớ mặc áo lạnh rồi mới ra xe buýt nha. Hôm nay càng về chiều trời càng lạnh đó. Nó ‘dạ’ nghe chắc nịch luôn. Nhưng em tin em hơn nên lấy cái áo lạnh của nó trùm lên cái ba lô đi học nó để trên sofa cho nó đừng quên. Chiều về, nó bị cảm vì không mặc áo lạnh. Em giận quá, ‘sao hồi sáng ba đã trùm cái áo lạnh lên ba lô của con rồi ba mới đi làm, sao không mặc?’ Nó… ‘dạ’. Em tức quá, ‘dạ cái gì mà dạ. Áo lạnh để sẵn cũng không mặc cho bị cảm rồi còn dạ dạ cái gì?’

Nó cười… ‘dạ con quên.’

Từ đó em tin, ‘dạ’ cũng di truyền như ‘cãi’ vậy anh ơi! Mình đừng để bụng thì không có chuyện gì xảy ra. Anh vô tới chỗ làm rồi còn tức chị nhà sáng nay cãi anh là anh tự hại anh làm việc thiếu tập trung vì phân tâm; chút nữa tới giờ nghỉ, uống ly cà phên cũng không ngon vì còn tức giận trong lòng…”

Ông già một chiều vì ông không biết mọi người cũng nghĩ về ông là một người hay cãi. Nhưng hôm nay ông thấm đòn, trúng quả anh bạn trẻ; ông tự nói tự nghe hơn là lẩm bẩm, ‘nhường nhịn cũng phải, nhưng sức người có hạn…’

Tôi vừa làm vừa hóng chuyện của hai người bạn, nhìn lên vách tường có đồng hồ, không ngờ đã tới giờ về. Thật cảm ơn họ đã giúp tôi một ngày làm qua mau, cảm ơn họ nhiều hơn về hiểu biết về những người hay cãi và cả những người không cãi nhưng họ đâu có làm. Hai căn bệnh lạ là bệnh ‘cãi’ và bệnh ‘dạ’ nhưng không làm có lẽ lạ với tôi vì mới biết…


Phan

Thư Gửi Bạn: Về Hưu - Nguyễn Giụ Hùng



    ... Ngồi trong sở, đợi “đi về” ngày mai, tôi đọc thư anh thấy chạnh lòng nửa buồn nửa vui. Buồn vì tiếng “hưu”, vui vì được anh cổ võ. Vẫn bực nhất là cái tiếng “hưu”. Hưu thì hưu chứ sợ chi ai, có chăng là sợ cô hàng xóm nhà tôi chê già. Cái “Cô Láng Giềng” của ông nhạc sĩ Hoàng Quý ấy mà.

Còn “được” về hưu hay không chắc còn tùy vào thằng boss anh ạ. Muốn cũng chẳng được mà không muốn cũng chẳng xong. Thôi thì ta cứ “nhắm mắt lại, tới đâu hay đó “, hay nói theo kiểu cụ Nguyễn Văn Vĩnh là “Nhăn răng HÌ một tiếng   cho ... bớt vẻ trang nghiêm (Tôi sửa lại đấy).

...Về hưu đôi khi cũng là cái hay. Nhưng có điều này cần phải nói với anh trước nhé. Tôi “đi” sau nhưng lại “về” trước anh, nghĩa là tôi đi làm sau anh mà lại “về vườn” trước anh.

Anh có nghe câu hát hồi chúng mình còn nhỏ không? "Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ ..." Chăn trâu thì sướng thật đấy vì có thời giờ để mà nằm trên mình trâu và miệng hát nghêu ngao. Về hưu thì không phải thế đâu đấy nhé. Lắm việc lắm!

Về hưu mới thương vợ anh ạ. Tôi đề nghị các bà nên cầu nguyện cho các đức ông chồng ít nhất trong đời phải được “về hưu” một lần, càng sớm càng tốt để cho các đức lang quân biết được giá trị của các bà. Sao nó lắm việc thế hả anh. Cứ gọi là tối mắt đấy, hay là tại tôi “được chiều” quen rồi.

Khi nghỉ việc tôi hăng lắm. Tôi tuyên bố với nhà tôi: Em đi làm, anh nội trợ. Ngon chưa, vung vít chưa? Mới có mấy ngày thử việc, tôi “đừ quá anh ạ. Tôi làm đủ chuyện, toàn những công việc ngày xưa nhà tôi làm cả. Vai trò nay được hoán chuyển là nhà tôi đi làm về thì bật TV lên coi, còn tôi làm bếp. Chuyện bếp núc tôi tưởng là dễ hóa ra nó còn khó hơn cả việc mình làm ở sở. Cứ nguyên cái lọ muối với chai nước mắm không thôi, cả hai nó cùng làm cho thức ăn mặn cả mà lúc nào dùng muối lúc nào dùng nước mắm mới chết chứ. Hỏi vợ thì quê, đường đường một đấng nam nhi mà ai lại đi hỏi cái chuyện cỏn con ấy. Ai biết được luộc rau chín rồi, đậy nắp để đó không vớt ra ngay thì nó “nhũn nhùn nhùn ra. Luộc trứng muối, lúc bóc vỏ sao nó cứ ra từng tảng, bóc xong chỉ còn toàn lòng đỏ, lòng trắng theo vỏ mất rồi ... Ôi thì cứ trăm thứ phải học.

Đến bữa cơm, vợ con tôi có ai diet đâu mà sao thức ăn còn nhiều thế. Mẹ con cứ “nhìn nhau mà chẳng nói ...” (bài hát). Lát sau, thấy đứa con lẳng lặng mang về một “mẹt pizza”, mắt ai nấy đều sáng rỡ. Tôi ngẩn cả người. Thế này là thế nào?

Đến lúc thu dọn chiến trường, đem bát đĩa đi rửa. Tôi nhớ tới lời một vị thiền sư dậy đệ tử: Khi một người đạt đến độ cao nhất của hiểu biết, của tình thương và của tỉnh thức thì người ấy đạt tới quả vị Phật. Ông dậy tiếp, tỉnh thức là mình đang làm cái gì thì mình biết mình đang làm cái ấy, đang rửa bát thì biết mình đang rửa bát.  Học thiền cũng dễ thôi, thành Phật cũng dễ thôi! Chả phải tỉnh thức cũng phải tỉnh thức, xà bông nó trơn nhầy nhẫy ấy, nếu không tỉnh thức, tuột tay một cái là “choang” ngay, vợ nằm cười khúc khích thì ngượng đến chín người. Nếu “choang” nhiều lần, vợ sốt ruột nhìn mình bằng con mắt băng giá như Tình em như tuyết giăng đầu núi, và chẳng bao giờ tìm thấy trong ánh mắt nàng Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời nữa cả.

 Kỳ tới anh gặp tôi, nếu anh thấy có đệ tử theo tôi là anh biết tôi “thành đạo” đấy nhé. Thôi thì hôm nay tôi tạm ngưng ở đây, tôi sẽ báo cáo những chuyện “về hưu” khác sau này. Tôi phải đi cọ cái buồng tắm cái đã, đống quần áo giặt đang đợi tôi đây. Lại phải học, không biết phải sử dụng cái máy giặt ra sao?

Chúc anh sớm về hưu để chị ấy được nhờ. Vạn tuế các ông chồng về hưu, vạn tuế, vạn vạn tuế!!!

 

NGUYỄN GIỤ HÙNG

Vết Chân Kỷ Niệm - Điệp Mỹ Linh



Ba chữ Ga Hải Phòng vừa khuất, Đông khép mắt, muốn giữ lại trong lòng hình ảnh của Hải Phòng. Bất ngờ, tiếng violon nỉ non từ Iphone của Hà – vợ của Đông – rồi tổng hợp âm thanh của piano và nhiều nhạc cụ nhẹ cùng hòa vào, tạo nên dòng nhạc thiết tha, mượt mà như từng lượn sóng rạt rào ve vuốt giải cát vàng. Chỉ một thoáng thôi, giọng soprano vút cao:

“Lìa xa thành đô yêu dấu,

một sớm khi heo may về…

Nhìn em mờ trong mây khói,

bước đi nhưng chưa nỡ rời…” (1). 

Đông chợt cảm thấy bồi hồi, xót xa như ai vừa khơi dậy từ tâm thức u hoài của chàng hình ảnh chàng đang bịn rịn chia tay với Yến, khi chàng theo gia đình xuống tàu “há mồm”, di cư vào Nam, năm 1954.

Năm 1954, trong khi sắp hàng chờ xuống tàu, nghe tiếng gọi “Anh Đông! Đông quay sang. Nhận ra Yến, Đông vội rời hàng chạy nhanh đến:

-Yến! Em làm gì ở đây?

Yến chỉ quẹt nước mắt. Đông cầm tay Yến, tiếp:

-Yến đi với gia đình anh, nhé!

Yến lắc đầu. Vừa khi đó, Đông nghe tiếng Bố gọi “Đông!” Đông vội thả tay Yến ra. Yến khóc lớn:

-Anh Đông! Ở lại với em, đừng đi

Đông chưa kịp tỏ thái độ thì Bố đến, nắm tay, kéo Đông trở lại với gia đình!

Sau này, nhiều khi nhớ lại mối tình thơ và hình ảnh Yến trong buổi chia xa năm xưa, Đông thường tự hỏi không biết cuộc đời của Yến bây giờ ra sao? Nàng có trở thành “nữ hộ lý” hoặc “cán bộ gái” trong đoàn quân xâm chiếm miền Nam hay không? Những khi chiến hạm công tác dài hạn, đêm đến, từ đài chỉ huy nhìn về phương Bắc, Đông nhận biết lòng chàng gợn lên nhiều nỗi luyến thương! Sau phiên trực, trên cầu thang trở về phòng ngủ sĩ quan, đôi khi nghe tiếng hát từ radio của nhân viên trực – văng vẳng trong không gian tràn ngập ánh trăng:

“…Rồi đây dù lạc ngàn nơi,

ta hướng về chốn xa vời…

Nghẹn ngào thương nhớ ‘em’, Hà Nội ơi!...” (2) 

Đông đứng lặng trên cầu thang, vì niềm thương nhớ dạt dào đang dâng tràn! Nhìn vào bờ, thấy ánh đèn rực rỡ, lung linh, Đông chỉ ước mơ được nắm tay một thiếu nữ, bước chầm chậm trong vùng không gian huyền diệu đó.

Ước mơ như thế, nhưng khi Dương Vận Hạm – LST Landing Ship Tank – Nha Trang, HQ 505, cập hải cảng Đà Nẵng vào chiều cuối năm, Đông lại lưỡng lự, không biết chàng nên “đi bờ” (3) hay không; bởi vì Đông không có một thiếu nữ nào để nắm tay! Vừa khi đó, Hoàng – sĩ quan trên HQ 505 – rủ Đông “đi bờ”.

Lang thang trong thành phố nhộn nhịp, khi đi ngang nhà thờ, nghe tiếng organ và tiếng hát vọng ra, Đông bảo:

-Trời lành lạnh, nghe Thánh ca “moa” chịu không được! “Moa” muốn vào xin lễ.

-Thì vào, có gì đâu, Hạm Phó!

Vào đến cửa bên hông nhà thờ, Đông và Hoàng đều lấy “nón kết” kẹp vào tay trái, đưa tay phải làm dấu thánh giá.

Thấy hai “chàng” Hải Quân mặc quân phục tiểu lễ trắng, áo dạ màu xanh đậm, làm dấu thánh giá, nhiều người đứng hàng đầu xích sát vào nhau, ra hiệu mời Đông và Hoàng đứng vào. Đông và Hoàng vừa đứng vào, bản thánh ca do cả hội trường đồng ca cũng vừa dứt. Mọi người ngồi xuống.

Nam nữ học sinh từ phía sau bước ra, sắp hàng dưới bục giảng của Đức Cha. Một nữ sinh bước ra, đứng phía sau ca đoàn nhưng trên một bục gỗ cao. Đông nghĩ có lẽ cô này là giọng nữ chính.

Tiếng organ vang lên trầm trầm, uyển chuyển rồi chậm dần để ca đoàn “bắt” vào:

“Bài thánh ca còn đó nhớ không em?

Noel năm nào chúng mình có nhau.

Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt.

Áo trắng em bay như cánh thiên thần...” (4).

Cô gái đứng phía sau ca đoàn thường ngẩng mặt lên mỗi khi cô hát những chữ ở âm vực cao. Nhìn sóng mũi cao, ánh mắt rực sáng và khuôn mặt diễm kiều của cô gái, Đông xúc động bồi hồi và tưởng như vẻ đẹp thánh thiện của cô gái chờn vờn trong ánh nến lung linh.

Vẻ đẹp thánh thiện của cô gái, tiếng organ ngân dài và tiếng ca trong vắt của các nam nữ sinh làm cho tâm hồn của Đông bềnh bồng, tưởng như thoát khỏi thế giới loạn lạc, đảo điên trên mảnh đất đầy máu và nước mắt này! Đông quên nỗi cô đơn vô tận trên những chuyến hải hành dài hạn! Đông quên tiếng B40/B41 của Việt cộng, từ những khúc quanh ngặt, xé không gian, rơi quanh đoàn chiến đỉnh! Đông quên gương mặt non choẹt của tù binh Việt cộng – khoảng 14, 15 tuổi – nhìn chàng như sợ hãi, như van lơn! Đông quên luôn khuôn mặt thơ ngây và buổi chia xa với Yến tại bến cảng Hải Phòng. Nhưng Đông lại không thể quên được pháo thủ Phi!

Khi đoàn chiến đỉnh bị phục kích tại Gia Rai, Đông vẫn đứng thẳng, gần mũi chiếc Command, tay trái cầm ống liên hợp để chỉ huy. Bất ngờ Đông bị trúng đạn, ngã xuống. Phi vội vàng rời pháo tháp, chạy đến bên Đông. Đông chưa kịp phản ứng thì một trái B40 xẹt ngang. Phi gục xuống! 

Khi nào hình ảnh Phi hiện về Đông cũng cảm thấy mủi lòng. Đông kín đáo làm dấu thánh giá, thầm cầu nguyện cho linh hồn Phi. Hoàng khẻ nói:

-Khuôn mặt của “cô bé đứng một mình” phảng phất nét đẹp quý phái của Grace Kelly, phải không, Hạm Phó? Đông gật đầu. Nhìn “cô bé”, Đông chợt nhận biết tình cảm của chàng giao động rộn ràng chẳng khác chi tình cảm chàng dành cho Yến năm xưa. 

Bài hợp ca chấm dứt. “Cô bé” bước thẳng đến người đàn ông cao tuổi ngồi cạnh Hoàng và Đông, cúi đầu:

-Dạ, con xin chào Bác.

-Cháu hát hay lắm!

-Dạ, con cảm ơn Bác. Thưa Bác, con xin phép Bác, con đến ngồi với Ba Má con.

Nhìn dáng đi thướt tha của “cô bé”, Đông tưởng như đôi chân của chàng muốn bước theo; nhưng chợt nhớ cương vị của chàng, Đông đành ngồi yên. Hoàng quay sang cụ ông, khẻ hỏi:

-Thưa bác, cô cháu của bác học trường nào ạ?

Cụ ông kề vào tai Hoàng, đáp:

-Cháu nó học trường Phan Chu Trinh.

Tối hôm đó, sau khi trở về chiến hạm, Đông ôm trong lòng hình bóng “cô bé” và tự hứa sẽ cố tìm nàng sau khi chàng đi phép thường niên.

 Trong khi Đông đi phép, khi chiến hạm vào bến sau chuyến công tác, Hoàng xin phép “đi bờ”.

 Hoàng ngồi nơi quán nước đối diện trường Phan Chu Trinh. 

Lúc học sinh tan học, Hoàng đi tới đi lui trước trường, với mục đích tìm “cô bé”. Bất ngờ, Hoàng thấy một thanh niên lái Vespa chầm chậm từ trong trường ra cổng. Nhận ra người bạn xưa, Hoàng gọi: 

-Trịnh! Trịnh ơi!

Trịnh dừng Vespa, ngạc nhiên:

-Ủa, Hoàng, mi làm chi đây?

 -Tau tìm một người mà tau không biết tên. Còn mi?

-Tau dạy ở đây. Mi tìm người mà không biết tên! Chán mi quá! Chắc ‘mết’ con bé nào rồi, phải không? Tả hình dáng, mặt mày của nàng” cho tau nghe, may ra tau sẽ giúp mi.

-Mi vào quán uống nước, nói chuyện.

-Không được! Tau phải kiếm tý chi ăn tạm rồi trở lại trường ngay; vì tụi hắn đang tập chung kết cho buổi văn nghệ cuối năm.

Hoàng đáp rất thật lòng:

-Tau sẽ mời mày ăn trưa. Còn về “cô bé”, tau chỉ thấy và nghe cô ấy hát có một lần tại nhà thờ thôi. Cô ấy đẹp như lai và giọng soprano của cô nàng không thua gì Thái Thanh!

-Rứa thì tau biết rồi. Cô nàng là học trò của tau, đệ Nhị C, tên Uyên. Uyên là “thỏi nam châm” của Đà Nẵng đó. Mi là Hải Quân, lang thang hoài mần răng…

-Mi đừng lo, cứ giới thiệu cho tau, mọi việc khác để tau lo!

Trong bữa ăn trưa vội vàng tại một nhà hàng gần trường, Trịnh căn dặn:

-Người ta con nhà gia giáo, nề nếp, mi đừng “ẩu tả”, tội nghiệp con người ta, nha!

-Mi biết tính tau “ba gai”, xem đời như…củ khoai; rứa mà không hiểu tại răng từ hôm thấy “cô bé” đến chừ tau nghĩ rằng tau không thể sống mà thiếu cô nàng!

-Vừa thôi! Răng giống cải lương rứa, mi?

-Tau nói thật mà!

-Được rồi, ăn xong tau chở mi tới trường. Mi quan sát tụi hắn tập dượt, có nhận xét chi thì cho tau hay.

******

Ngồi cạnh Trịnh, quan sát nhạc cảnh Hòn Vọng Phu, Hoàng nghiêng sang, nói với Trịnh:

-Mi chọn Uyên vào vai ni là “hết sẩy”! Giọng hát của nàng sẽ làm khán giả xúc động nhiều.

Sau màn nhạc cảnh, trong khi Uyên cùng nhóm học sinh rời “sân khấu giả”, Hoàng nhìn nàng không rời. Không hiểu vì trực giác bén nhạy hay là vì bộ quân phục Hải Quân của Hoàng, Uyên quay nhanh lại, nhìn Hoàng. Bốn mắt giao nhau!

Cử chỉ của Hoàng và Uyên không thể nào thoát được ánh mắt của Trịnh. Trịnh cảm thấy se lòng! Vừa khi đó, một nam sinh đến cho Trịnh biết chỉ còn mục hợp ca Con Đường Vui nữa thì buổi tổng dượt sẽ chấm dứt. Trịnh gật đầu, quay sang Hoàng:

-Hoàng! Chỉ còn một mục nữa thôi. Mi muốn đi ăn với tau rồi tối mai trở lại xem văn nghệ hay không?

-Không được! Tau phải trở lại tàu. Tàu sẽ rời bến tối ni.

-Khi mô mi trở lại?

-Chưa biết, vì tau nhận được lệnh đổi đi Giang Đoàn rồi.

-Giang Đoàn là mấy đơn vị chuyên “wuýnh” nhau, phải không?

-Ừ!

-Mi muốn hát một bài để chinh phục cảm tình của Uyên không?

-Mi “đi guốc trong bụng tau”! Cảm ơn mi.

Trịnh đến micro:

-Tôi thành thật cảm ơn các em đã chịu khó tập dượt. Tôi nghĩ rằng đêm văn nghệ mừng Xuân năm nay sẽ thành công mỹ mãn. Nhân đây, tôi muốn giới thiệu với các em người bạn thân của tôi, trung úy Hoàng. Vì lý do đặc biệt, Hoàng không thể tham dự văn nghệ tối mai. Hoàng có một kỹ thuật trình diễn rất khác lạ. Tôi yêu cầu Hoàng hát tặng chúng ta một bài trước khi các em rời trường để chuẩn bị cho tối mai.

Tiếng vỗ tay vang lên. Hoàng tươi cười, choàng guitar qua cổ, đến sau micro. Muốn nhân cơ hội này gián tiếp tỏ tình với Uyên, Hoàng nói:

-Xin cảm ơn “thầy” Trịnh, người bạn thân thiết nhất của tôi và cảm ơn các bạn. Tôi xin hát tình khúc bất tuyệt của Elvis Presley: It’s Now or Never.

Mọi người lại vỗ tay. Hoàng dạo Cha Cha Cha rồi “bắt” vào:

It's now or never, come hold me tight.

Kiss me my darling, be mine tonight.

Tomorrow will be too late, it's now or never.

My love won't wait…”

Thấy Hoàng vừa đàn vừa hát vừa lắc vai vừa gật đầu và đôi chân như đang khiêu vũ,  nhóm học sinh tròn mắt nhìn nhau. Thấy Uyên nhìn Hoàng không rời và môi nàng như mỉm cười, Trịnh cúi mặt, thở dài!...

******

Suốt ngày đi thăm nhiều nơi quanh Vũng Áng, Đông không thấy nụ cười nào trên môi người dân. Nhưng khi Đông và Hà bước vào nhà hàng trong khách sạn – nơi vợ chồng Đông ngụ lại sau khi rời Hải Phòng thì lại nghe tiếng nói cười rộn ràng!

Đông và Hà được đưa đến chiếc bàn nhỏ vừa khi một nhóm khách mặc quân phục màu cứt ngựa” bước vào và cười nói oang oang. Đông cứ trầm ngâm, cố nén vẻ khó chịu vì sự tương phản quá lộ liễu giữa vấn nạn của người dân và từng tràn cười hô hố của nhóm thực khách mặc quân phục.

Nhóm đàn ông ngồi vào chiếc bàn lớn. Bà chủ khách sạn từ đâu bước vào. Nhận ra nhóm khách quen, bà chủ vội bước về chiếc bàn có nhiều người mặc quân phục để chào hỏi. Theo cách thăm hỏi, Đông hiểu rằng những người này là khách thường xuyên. Bà chủ, nhờ kỹ thuật thẩm mỹ, trông trẻ hơn tuổi thật rất nhiều. Một người mặc quân phục hỏi bà:

-Chị Yến! Càng ngày trông chị càng đẹp, càng trẻ ra, lại ăn mặc như mấy “em chân dài”. Chị đi thi hoa hậu phu nhân, đi!

-Úi giời! Các anh mà thấy tôi lúc trẻ, các anh đi không đành đâu!

Một tên lả lơi:

-Bây giờ tôi cũng đi không đành, nói gì thấy chị lúc chị còn trẻ.

-Không, thật đấy! Lúc trẻ tôi đẹp lắm cơ. Vì Bố Mẹ tôi không chịu trốn vào Nam cho nên tôi mới cơ cực, phải tham gia đánh Mỹ “kíu” nước; nếu Bố Mẹ tôi di cư thì tôi đã là phu nhân của một “thuyền trưởng” Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) rồi đấy.

-Ôi giời! Lại có chuyện tình đẹp thế cơ?

-Không bịa đâu! Thằng láng giềng của tôi mê tôi lắm, muốn tôi theo gia đình hắn vào Nam nhưng tôi không dám bỏ Bố Mẹ. Sau này nghe tin hắn mang “quân hàm” trung tá và là “thuyền trưởng” chiếc tàu “há mồm” đấy.

Đông giật mình, nhìn Yến, nhưng không thể thấy được dấu vết nào của cô láng giềng hiền dịu năm xưa! Một tên khác chuyển đề tài:

-Chị Yến! Ai làm gì phía sau mà nghe ồn ào thế?

-Ô, mấy thằng đui, mù, cụt, què í mà!

-Chúng nó làm gì sau “nhà nghỉ” của chị?

-Cứ lâu lâu có vài người nước ngoài” về, gọi chúng đến, thuê sân sau của tôi và cho chúng ăn một bữa để giàn cảnh quay phim, quay video đem về bên ấy khoe là đi làm từ thiện! Nghe nói mấy nhóm ấy bảo chúng làm hồ sơ có hình, giấy chứng thương, giấy giải ngũ, v. v…rồi gửi sang bên đó để họ cứu xét xem hồ sơ thật hay giả rồi mới gửi tiền về cho. Làm hồ sơ, chụp hình, tiền cước phí, v. v…cái gì cũng tốn tiền nhiều quá nhưng gửi đi rồi, chờ mãi chả thấy xu teng nào gửi về!

Mặt Đông nóng bừng. Đông bậm môi, cố giằn cơn giận. Hà nắm tay Đông:

-Anh! Mình đang ở Việt Nam!

Vừa khi đó, một người đàn ông mù mắt cõng một người đàn ông mất cả hai chân, bước vào. Mọi người quay sang nhìn. Đông đứng bật dậy, bước nhanh đến bên người đàn ông mù, vừa đưa tay đỡ người cụt hai chân vừa nói:

-Anh thả anh này ra. Tôi giúp hai anh. Hai anh cần gì? Cần đi đâu?

-Thằng này có mắt, tôi có chân, giúp nhau đến đây; vì được biết có người trợ giúp Thương Binh V.N.C.H. tại đây.

Yến bước nhanh đến, lớn tiếng trong khi Đông “ẳm” gọn anh Thương Binh trên tay:

-Lại cũng… trò khỉ nữa! Cổng sau mở để cho vào tại sao không vào, lại đi cửa chính? Mấy người có biết khách của chúng tôi toàn là những người có quyền cao chức trọng hay không, hả?

Đông nhìn Yến, cố lấy giọng trầm tĩnh:

-Không có lý do gì chị phải nặng lời với hai anh này. Chị chỉ tôi ngõ sau, tôi sẽ đưa hai anh này đi ngõ sau.

-Ra cửa, rẽ phải, cổng màu xanh đấy.

Đông chẳng thèm lịch sự cảm ơn người phụ nữ – mà chàng nghĩ rằng đó là “người xưa” của chàng – chỉ quay sang người bị mù, bảo:

-Anh vịn vai tôi, đi theo tôi.

 Hà vội bước đến:

-Để em giúp anh ấy đi theo anh.

Thấy vợ chồng Đông như sắp bỏ đi, Yến quay sang, tru tréo:

-Này! Này! Thức ăn gọi rồi, bỏ đi cũng phải trả tiền. Biết chưa?

Đông bảo :

-Em bảo họ cho room service. Anh trở lại đón em ngay.

Khi Đông trở lại, Hà bảo:

-Họ bảo không có room service.

-Tốt!

Đông bảo người hầu bàn:

-Em cho thức ăn của chúng tôi vào hộp để đem đi.

Sau khi trả tiền, cầm thức ăn bước ra cửa, Đông thầm nghĩ, ngôn ngữ và tư cách của “Yến bây giờ” đốt cháy hình bóng của “Yến ngày xưa”, bên bến cảng Hải Phòng!

Qua khỏi cổng màu xanh, Đông và Hà chợt nghe tiếng hát não nùng:

“…Con có hay chăng cha về.

Lời ca hồn nhiên líu lo ngoài kia.

Chinh chiến đã qua một thì.

Tuổi thơ nở trên biết bao ê chề…”(5)

Thấy nhiều Thương Binh ngồi dọc chiếc bàn dài,không hiểu gì cả. Đông bảo:

-Mình sẽ cùng ngồi ăn với họ.

Thấy Đông trở lại, Châu – anh Thương Binh cụt chân mà lúc nãy Đông đã bế từ phòng khách đến đây – vui mừng:

-Mời anh chị ngồi đây.

Để thức ăn lên bàn, gật đầu chào mọi người xong, Đông và Hà ngồi cạnh Châu. Trong khi nhà bếp dọn thức ăn, Châu nói với Đông:

-Anh biết không, tụi em cơ cực lắm, vậy mà vẫn có người “phe mình” lợi dụng tụi em cho mục đích không tốt của họ!

Chợt nhớ câu Yến nói lúc nãy, Đông hỏi:

-Tôi có nghe như thế, nhưng không biết có đúng là “phe mình” không?

-Nghe họ nói chuyện, tụi em biết. Tụi em bị cộng sản Việt Nam (csVN) hất ra khỏi xã hội cho nên tụi em thương nhau lắm, vui buồn gì cũng chia xẻ với nhau. Anh cứ hỏi tất cả mấy “đứa” này xem có “đứa” nào không từng là nạn nhân của trò Việt kiều về kêu gọi, cho ăn một bữa, quay phim, video, bảo làm hồ sơ gửi qua bển, khi họ nhận được, họ sẽ gửi tiền về cho. Tốn tiền chụp hình, làm copy, gửi bưu điện, v.v… Chờ dài cổ chẳng “đứa” nào nhận được đồng xu nào cả. Bị mấy lần như vậy, tụi em “tởn”, ai mời, cho ăn tụi em cũng chẳng thèm tới…

-Thế sao hôm nay…?

-Hôm nay là trường hợp đặc biệt; vì đây là lần đầu tiên tụi em sẽ được gặp người ơn mà suốt mấy năm qua người ơn này âm thầm gửi về cho tụi em, mỗi “đứa” $100.00 U.S. đô la.

-Ở ngoại quốc làm ăn rất cực nhọc mà ai làm được những việc như thế thật là quý. Nhưng làm thế nào người đó biết các anh mà liên lạc

-Dạ, lúc đầu, người đó được một tờ báo chuyên lo yểm trợ Thương Binh V.N.C.H. giao một hồ sơ để giúp trực tiếp. “Thằng” này cho “thằng” bạn cùng cảnh ngộ với nó địa chỉ của người đó thì “thằng” bạn của nó cũng được người đó cho tiền. Cứ vậy, bây giờ Thương Binh V.N.C.H. cả huyện đều được quà mà không “đứa” nào biết mặt người đó cả.

-Thế hôm nay ai trả phí tổn này?

-Hôm nay là ngày đầu tiên người đó trở về thăm Quê Hương.

-Thế anh gặp người đó chưa?

-Chưa, tý nữa. Nghe nói ông đang đem nước ngọt đến cho từng người là chồng của bà đó.

Nghe Châu nói đến đây, Hà nói nhỏ với Đông:

-Em về phòng, tý em trở lại.

Đông “okay” rồi nhìn người đang phân phát nước ngọt và thấy khuôn mặt quen quen. Vừa khi đó, người phát nước ngọt ngẩng lên, nhíu mày nhìn Đông rồi vừa reo “Commandant” vừa vội vàng đến bên Đông:  

 -Commandant làm gì đây?

-Hoàng! Ngày xưa “toi” “ba gai” lắm mà sao bây giờ “toi” làm được những việc như thế này?

-Việc như thế này là việc như thế nào, Commandant?

-Giúp anh em Thương Binh.

-Ô, không! Đó là bà xã của Hoàng âm thầm làm chứ Hoàng không biết. Ngày nay đi thăm Vũng Áng, thấy thiên hạ khổ quá, bà ấy khóc rồi mua bánh mì thịt cho trẻ em. Cách đây mấy tiếng đồng hồ, bà ấy nhờ Hoàng đi thuê microguitar để anh em Thương Binh ca hát cho vui. Hoàng cật vấn hoài bà ấy mới “bật mí” chuyện Thương Binh.

Hoàng vừa dứt câu, Đông thấy một thiếu phụ từ khách sạn bước ra. Hoàng vừa gọi vừa đưa tay ngoắt:

-Uyên, lại đây!

Thấy người phụ nữ bước về phía Hoàng, Đông nghi ngờ, quay nhìn Hoàng bằng ánh mắt khó hiểu. Hoàng cười thật tươi, giới thiệu:

-Đây là vị cựu Hạm Phó của anh; đây là Uyên, bà xã của Hoàng.

Nhìn nụ cười của Hoàng rồi thấy cung cách Uyên cúi đầu chào, Đông biết chàng không thể nào nhầm phụ nữ này với “cô bé trong nhà thờ”! Đông thở dài, chưa kịp thăm hỏi Uyên thì Hoàng xin lỗi, đến giờ chàng phải giúp Uyên phân phát quà cho Thương Binh trước khi họ ăn tối và “hát cho nhau nghe”. Đông thấy Uyên và Hoàng trao mỗi Thương Binh một phong bì.

Từ khách sạn bước ra, Hà ngồi cạnh Đông và trao cho chàng một xấp bì thư:

-Đây, em đếm đủ cả rồi. Tý nữa anh phát cho mỗi ông Thương Binh một thư, nhá!

-Em làm cái gì anh chả hiểu?

-Lúc nãy nghe anh Châu nói về việc làm âm thầm của bà nào đó em cảm thấy áy náy là từ trước đến giờ em không biết gì về Thương Binh V.N.C.H. Bây giờ mình có tý quà, anh tặng mấy ông ấy hộ em.

Đông chợt hiểu. Từ nãy giờ Ngân Hà vào văn phòng khách sạn xin bì thư, cho tiền vào từng bì thư. Đông nắm tay vợ:

-Em quả thật là người vợ tuyệt vời! Em tặng mỗi người bao nhiêu?

-Dạ, $100.00 Mỹ kim.

-Anh sẽ đi với em. Nhưng công khó của em, em nên trao tận tay từng người.

Khi trao bì thư cho mỗi Thương Binh, giọng Hà xúc động:

-Chúng tôi biết ơn các anh nhiều lắm!

Tặng quà xong, Hoàng và Uyên đến ngồi cạnh vợ chồng Đông, cùng vui vẻ ăn uống với Thương Binh. Ăn xong, Đông cáo từ để về phòng, nghỉ – dù Hoàng hết lời năn nỉ Đông ở lại.

Cùng Hà buớc lên bậc cấp để về phòng, Đông chợt cảm thấy có lỗi với ; vì hình ảnh và tiếng hát cao vút của “cô bé trong nhà thờ” năm xưa đang bừng sống trong lòng chàng. Đông bồng bột thương , vội nắm tay , thủ thỉ:

-Anh cảm ơn em. Mấy mươi năm qua em đã tận tụy và hết lòng với anh.

-Ơ, cái gì thế?

-Lòng tốt của em đã giúp anh đỡ bị “quê” với Hoàng.

-Có thế mà cũng…bày đặt!

Đông mở cửa, kéo sát vào chàng:

-Em thay đồ. Anh ra lan can nhìn biển một chốc.

-Lại mơ mộng nữa rồi! Anh thì thôi!

Đông tựa vào lan can, tự hỏi: Từ lúc nào và làm thế nào Hoàng có thể chinh phục được “cô bé trong nhà thờ”? Không thể tìm được câu trả lời, Đông nhìn vùng trời mờ sương. Chính lúc đó, Đông tưởng như có thể thấy được Dương Vận Hạm Nha Trang, HQ 505, đang hải hành nơi cuối trời! Đông thở dài, cảm nhận được từng vết chân kỷ niệm đang dẫm nát tim chàng!


ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com/


1 và 2.- Giấc Mơ Hồi Hương của Vũ Thành.

3.- Có nghĩa là rời chiến hạm/chiến đỉnh/đơn vị để đi phố.

4.- Bài Thánh Ca Buồn của Nguyễn Vũ.

5.- Ngày về của Phạm Duy.