Pages
Tuesday, January 31, 2023
Mấy Người Bạn Quảng - Phan
Những Ý Tưởng Rất Hay (Song Ngữ) Từ Rishika Jain's Inspirations Nên Đọc
Không ai sinh ra là được hạnh phúc ngay,
nhưng tất cả mọi người đều được sinh ra với khả năng tạo hạnh phúc.
Bốn ý tưởng hay cho cuộc sống:
Nhìn lại đàng sau để có Kinh nghiệm !
Nhìn về phía trước để thấy Hy vọng !
Nhìn xung quanh để tìm ra Thực tại !
Nhìn vào bên trong để tìm thấy Chính
mình!
Tại sao ta lại đỗ lỗi cho một người nào
đó trong đời mình.
Người Tốt mang Hạnh Phúc cho ta...
Người Xấu cho ta Kinh Nghiệm...
Người Tệ nhất thì cho ta một Bài Học...
Người bạn là người biết ta rất tường tận,
am hiểu gốc gác ta,
chấp nhận chỗ đứng của ta và vẫn dịu
dàng để cho ta tiến tới.
Khi ta tìm một người bạn, đừng cố tìm một
người hoàn hảo
mà chỉ nên tìm cho được một tình bạn
chân chính.
F - few: vài (chỉ có một vài, chỉ có rất
ít)
R - relations: mối quan hệ
I - in: trong
E - earth: trái đất
N - never: không bao giờ
D - die: chết
Chỉ có rất ít mối quan hệ trên đời này mới
tồn tại mãi mãi.
Những lời nói tử tế có thể rất ngắn và rất
dễ nói
nhưng âm vang của chúng sẽ thật sự tồn tại
vĩnh viễn.
Lẫn trốn một vấn đề rắc rối chỉ làm cho
việc giải quyết vấn đề càng lùi xa thêm mà thôi!
Cách dễ nhất để thoát khỏi một vấn đề là
tìm cách giải quyết nó.
Sự thật đáng ngạc nhiên về về Cái Lưỡi của
con người:
Phải mất 3 năm mới biết được cách sử dụng
nó, nhưng phải mất cả một đời người mới biết được Ở
ÐÂU và KHI NÀO thì mới nên sử dụng nó.
Không ai có thể làm tổn thương ta được
nếu ta không cho phép họ.
Tâm trí sẽ được an bình không cần hao tốn
gì cả ..
.. nếu ta biết loại bỏ 3 điều này đi (3
chữ C trong tiếng Anh):
Criticizing: chỉ trích
Comparing: so sánh
Complaining: phàn nàn.
BA QUY TẮC VÀNG của Vivekanand:
- Ai giúp ta .........
- Ta đừng quên họ.
- Ai yêu thương ta - Ta đừng
ghét họ.
- Ai tin tưởng
ta - Ta đừng lừa gạt họ.
Monday, January 30, 2023
Chuyện Về Việt Nam Tìm Vợ - Hoàng Phạm
Ca dao:
Chim tham ăn sa vào vòng bẫy
Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu
Ai thường nghe nhạc VN đều phải biết
nhạc sĩ Văn Phụng và vợ là ca sĩ Châu Hà. Ông bà nầy chỉ có một người con trai
duy nhất. Anh nầy tuy lớn tuổi mà chưa có gia đình nên thường chit chat trên
net để tìm người yêu. Qua net anh gặp được một cô gái trẻ ở VN. Hai người
email và phone một thời gian thì anh ta quyết định về VN gặp mặt.
Cô gái ra đón anh tại phi trường rồi
đưa thẳng về khách sạn. Ngay hôm sau đưa anh ra phường để làm giấy hôn
thú. Thật ra thì anh chưa có ý định về VN để cứơi vợ nhưng gặp cô gái thì
anh như người mất hồn, sai gì làm nấy. Trở lại Mỹ anh bị cô gái liên tục hối
thúc làm giấy tờ bão lãnh. Ngày đêm email và điện thoại quấy rầy. Anh chưa động
tĩnh gì về việc bảo lãnh thì mỗi người có số, trong lúc đang làm việc anh bị đứng
tim và gục chết ngay tại bàn làm việc ở sỡ làm!
Hay tin “chồng” chết, cô gái tại
VN đã nhờ một tổ hợp luật sư Mỹ có văn phòng tại VN, đòi hỏi chiếm đoạt tất cả
tài sản của “chồng” để lại vì cô ấy là “vợ” có hôn thú. Văn phòng luật sư đại
diện tại Mỹ mời bà Châu Hà đến thông báo. May mắn cho bà Châu Hà là trước khi
đi VN anh con trai có để lại di chúc dành hết tài sản cho mẹ nếu có điều chẳng
lành xảy ra cho anh. Anh ta cũng khôn đáo để vì gia đình chỉ có mẹ con.
Biết là cũng khó ăn vì giấy tờ bảo
lãnh chưa có, lại có di chúc để lại cho mẹ nên luật sư đòi bà Châu Hà lệ phí 20
ngàn đô để “clear the case”. Bà Châu Hà tức lắm nên trả lời là không có tiền.
Sau đó luật sư hạ xuống 10 ngàn. Bà CH cũng nói không. Về nhà, bà CH liên lạc bạn
bè và may mắn gặp được một bà VN có chồng là luật sư Mỹ giúp đỡ. Chỉ tốn chút đỉnh
500 đô cho giấy tờ là clear xong mọi chuyện.
Bà Châu Hà đã đem chuyện riêng tư
nầy nói trên đài phát thanh VNHN để có ý giúp đở và cảnh giác những ai có con
cháu muốn về VN cưới vợ. Thông điệp của bà là trước khi đi VN thì nên để lại di
chúc như con bà để đề phòng mọi chuyên rủi ro khi đi du lịch VN. Đài phát thanh
VNHN đã phát thanh câu chuyện của bà Châu Hà nhiều lần. Ai thường nghe đài phát
thanh VNHN đều biết chuyện nầy.
Đi du lich VN cũng như lính ra trận,
không chết kiểu nầy cũng có thể chết kiểu khác : chết vì hít khói xe, chết vì bị
xe đụng,chết vì ngộ độc thực phẩm, nhảy lầu tự tử, cướp đâm chết, SIDA ….
Ngay cả thấy mặt thằng Việt kiều
nhớn nhơ, dễ ghét quá, lụi cho một nhát. Ấy thế mà dân ta vẫn ào ạt về
VN.
“Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”.
Hoàng Phạm
Vài Nét Về Tư Tưởng Phật Giáo Của Vua Trần Thái Tông - Phần 1 - Nguyễn Giụ Hùng
Lời mở đầu:
-Nội dung câu chuyện được ghi lại theo
ký ức của một người xa quê lâu năm nhớ về “những năm tháng ấy” tại quê nhà vào giai đoạn đầu thập
niên 1950, trước hiệp định Geneve 1954 ở miền Bắc nước ta.
Hà
Nội chưa thức giấc!
Tôi,
Thi và Uyên, cả ba chúng tôi đạp xe song song bên nhau trên đường phố Hà Nội. Chẳng
ai nói với ai lời nào, nhưng sao tôi vẫn thấy thật gần gũi và thân thương với
nhau quá. Gần gũi như những cây sấu mọc dọc hai bên đường, đương vươn cành, khoác
vai nhau thủ thỉ dưới ánh đèn điện lờ mờ trong sương sớm.
Tất
cả cảnh vật chung quanh, bỗng dưng tôi cảm nhận như có một cái gì rất “của riêng
mình” để yêu chúng hơn, để thấy mình là chúng và chúng cũng chính là mình. Cái
cảm giác lâng lâng đầy hòa ái ấy, phải chăng nó xuất phát từ sự tinh khiết, yên
tĩnh của một buổi sáng sớm thanh bình. Hay nó đến từ hình ảnh của Thi, người
con gái đang đạp xe bên tôi mà tôi hết mực yêu thương. Tôi tự mỉm cười với ý nghĩ
đó.
Hình
ảnh của tôi và Thi không thể tách rời nhau và cũng không thể tách rời ra khỏi
thành phố Hà Nội. Thành phố này đã ghi lại biết bao nhiêu kỷ niệm kể từ những
ngày chúng tôi vừa mới thân nhau. Tôi nhớ lại, những ngày Thi còn như con chim
nhỏ truyền cành, tung tăng trên đường phố trong những dịp đi chơi cùng tôi. Nàng
thường nắm tay tôi kéo đi cho nhanh hơn mỗi khi tôi la cà dừng chân hay đi chậm
lại. Chợt đến một ngày, cái ấm áp mềm mại của đôi bàn tay ấy như có một điều gì
khác lạ. Và tôi nhận ra một sự thay đổi lớn sâu kín trong tôi: tôi đã yêu nàng.
Sự khăng khít cứ tăng lên mãi theo ngày tháng bên nhau. Và để hôm nay, không thể
nghi ngờ, nàng sẽ là người đi bên tôi đến trọn cuộc đời như một định mệnh đã được an bài.
Tôi
đưa tay sang xoa nhẹ bàn tay Thi. Hai chúng tôi nhìn nhau cùng mỉm cười. Uyên cũng
mỉm cười với chúng tôi một cách bâng quơ.
Chúng
tôi đạp một vòng theo bờ hồ Hoàn Kiếm, một cái hồ mang dấu tích lịch sử của thời
vua Lê Lợi, và người ta từng ví nó như hình ảnh của một đóa hoa đẹp được đặt giữa
lòng thủ đô Hà Nội. Vài cây cổ thụ quanh hồ chìa cành nằm xoài mình trên mặt nước,
soi bóng lung linh dưới ánh đèn đường. Tháp Rùa mờ mờ trong sương.
Tầu
điện chưa chạy nên thiếu tiếng leng keng. Lác đác vài chiếc xe xích lô đi tìm
khách sớm, chậm chạp, uể oải như người còn đang ngái ngủ. Thỉnh thoảng lắm mới
có một hai chiếc ô-tô con chạy đi vội vã, phá tan bầu không khí yên tĩnh của phố
phường.
Hà Nội vẫn ngủ!
Ba chúng
tôi vui chân đạp xe về hướng Hồ Tây. Hồ Tây là hồ lớn nhất Hà Nội. Xung quanh Hồ
có nhiều thắng cảnh, cộng thêm vào với nhiều truyền tích dân gian. Có những truyền
tích ngàn năm, tới bây giờ vẫn chưa ai giải mã được.
Gió
mát quá!
Chúng
tôi khóa xe bên cây cổ thụ rồi lững thững đi bộ trên con đường nhỏ dọc theo bờ
hồ. Bóng chùa Trấn Quốc ẩn hiện lờ mờ. Đèn điện dọc đường Cổ Ngư và ven Hồ Tây không
đủ sức phá tan đi sương sớm đang bao phủ mặt hồ. Không gian nơi đây trở nên huyền
ảo, trầm mặc và thật nên thơ.
Tôi
nắm tay Thi cùng chạy lên phía trước. Uyên bước vội theo sau. Chạy được một quãng
ngắn, trong lúc “ngẫu hứng”, tôi nhắc bổng Thi lên quay một vòng. Thi ép mặt vào
vai tôi cười khúc khích. Tôi đặt nàng xuống rồi lại nắm tay nhau chạy tiếp. Chạy
thêm một quãng nữa mới dừng chân, cùng dang tay rộng hít thở vài hơi thật dài.
Tôi khoác vai Thi đi ngược trở lại phía sau đón Uyên cũng đang bước tới.
Ba
chúng tôi lại cùng đi bên nhau. Tôi hứa với Uyên, có dịp nào thuận tiện, tôi sẽ
đưa Thi và nàng đi chơi một vòng Hồ Tây. Tôi sẽ giảng giải cho nàng về những thắng
tích quanh vùng. Uyên nhìn tôi cảm động với đề nghị ấy.
Vừa
đi, tôi vừa kể cho Uyên nghe về những kỷ niệm ban đầu của tôi và Thi đã từng trải
qua trên con đường này, thường vào những buổi chiều nhàn rỗi hay trong những ngày
nghỉ học cuối tuần. Uyên bóp nhẹ vào cánh tay Thi như để chia sẻ niềm hạnh phúc
của cô em. Thi không thể che dấu được sự sung sướng của mình trên nét mặt. Đôi
lúc, Thi bụm miệng cười mỗi khi tôi “kể xấu” về nàng.
Trời
bắt đầu sáng dần. Hà Nội đã tỉnh dậy. Sinh hoạt của thành phố bùng lên rất
nhanh. Tiếng xe cộ, tiếng rao hàng, tiếng người qua lại chẳng mấy lúc đã trở nên
ồn ào huyên náo.
Giữa
những tiếng ồn ào của nơi đô hội ấy, tiếng chuông chùa Trấn Quốc bỗng ngân lên
và văng vẳng vang xa. Tiếng chuông chùa dõng dạc, điểm từng tiếng một, bình thản
như bước chân thiền hành của các vị
thiền sư, đi để mà đi chứ không phải đi để tới nơi nào. Dõng dạc, bình thản nhưng
nó vẫn huyền diệu, có khả năng đưa lòng người về với “chân như”.
Chúng
tôi nhìn nhau như hỏi ý. Và cũng không cần ai phải lên tiếng, chúng tôi cùng
quay bước về phía chùa Trấn Quốc, nơi phát ra tiếng chuông ngân.
Chùa Trấn Quốc
Chùa
Trấn Quốc nằm trên một ốc đảo ngay ven bờ Hồ Tây. Những hàng cây cau và những cây
cổ thụ quanh chùa in bóng trên mặt nước. Chùa có lịch sử lâu đời. Nơi đây, Thái
hậu Ỷ Lan - thời nhà Lý - thường có những buổi đàm luận với các vị sư nổi tiếng
đương thời về nhiều đề tài liên quan đến Phật giáo. Cũng nhờ vào đó, ngày nay
chúng ta mới có thêm những tài liệu quý báu để truy tìm ra được phần nào về lai
lịch và sự phát triển của Phật giáo Việt Nam ở vào thời kỳ đầu. Chùa đã bị đổi
tên nhiều lần và cũng mang nhiều dấu vết thăng trầm. Trịnh Sâm đã từng biến chùa
này thành “cung hành lạc” để vui thú cùng cung nữ. Bà Huyện Thanh Quan đã có bài
thơ trách cứ về sự việc này.
Chúng
tôi bước theo dải đất dài, nối liền từ bờ hồ ra ốc đảo, dẫn đến cổng chùa. Chùa
mang dấu vết rêu phong của thời gian hàng nhiều thế kỷ. Càng vào sâu bên trong,
chùa càng được mở rộng ra. Ngoài chính điện to lớn là dẫy nhà ngang dùng làm nơi
sinh hoạt và tiếp khách thập phương hàng ngày. Bên trong chính điện, ngoài thờ Phật ở chính giữa, còn thờ thần như các bà Thánh Mẫu ở hai bên
hông điện, một hình ảnh về sự hòa hợp của hai tôn giáo Phật-Nho và tín
ngưỡng thờ Mẫu
rất riêng biệt của Việt Nam ta.
Tiếng
chuông “đại chung” vẫn dõng dạc ngân vang. Tôi và Thi tò mò trèo lên tháp chuông.
Nơi đây, một chiếc chuông to treo trên “giá” gỗ. Tôi nghe nói chuông này được đúc
vào năm Cảnh Hưng thứ ba đời Tây Sơn. Một chú tiểu độ chừng mươi tuổi, ngồi bên
đánh chuông với nét mặt thật hồn nhiên. Tôi bấm tay Thi đi xuống cầu thang để đừng
làm kinh động tới chú.
Bước
vào chính điện, tôi thấy Uyên đang thắp hương, đứng lẩm bẩm khấn vái trước bàn
thờ các bà Thánh Mẫu. Tôi và Thi cùng thắp hương lễ Phật. Đứng bên nhau, tôi liếc
mắt sang Thi thấy nàng nghiêm trang và “người lớn” hẳn lên. Tôi mỉm cười.
Lễ
xong, Thi quay sang hỏi tôi:
-
Em liếc thấy anh mỉm cười. Đang lễ Phật mà anh cười à?
Tôi
không trả lời Thi. Ra tới ngoài sân tôi mới hỏi đùa lại:
-
Đang lễ Phật mà em liếc anh à?
Thi
che miệng cười nhỏ.
Uyên
vén vạt áo dài ngồi xuống thềm chùa, trên nét mặt vương vất một chút gì trầm mặc,
ưu tư. Nàng nói với tôi:
-
Mỗi lần bước vào chùa, em thấy lòng mình thật thanh thản. Mọi hình ảnh trầm luân
của cuộc đời dường như được xóa đi trong tâm trí em. Mùi nhang thơm đưa em về một
nơi nào thật an bình. Em mới hiểu các vị vua đầu đời Trần, các ngài không
muốn làm vua mà chỉ thích đi tu. Vừa làm hết trọng trách với đời là vội vàng tìm về với đạo. Người xưa hay hơn chúng ta bây giờ nhiều
anh nhỉ?
Tôi
nhìn Uyên và chia sẻ với lời tâm sự của nàng:
-
Anh hoàn toàn đồng ý với Uyên. Cứ như vua Trần Thái Tông, ngài trốn triều đình
lên núi Yên Tử tìm cầu làm Phật. Triều đình phải đến tận nơi đó mời ngài trở về
cung. Khi thắng quân Nguyên năm vừa tròn bốn mươi (40) tuổi, ngài nhường ngôi
cho con là vua Trần Thánh Tông rồi vào Hoa Lư lập cung Thái Vi để tu hành. Nhưng
thật ra, ngài đã thực hiện con đường đời-đạo
song hành: khi làm vua lo việc nước, ngài vẫn chăm lo tu học; khi đi ẩn tu, ngài
vẫn để tâm lập hậu cứ ở Hoa Lư để phòng chống quân Nguyên sau này. Uyên còn nhớ
câu chuyện ấy chứ?
-
Thưa anh, em còn nhớ!
-
Tốt lắm! Về nhà nhớ nhắc anh nói thêm cho Uyên nghe về một bản văn của ngài, tức
bài tựa “Thiền Tông Chỉ Nam” của vua Trần Thái Tông còn lưu lại tới ngày nay.
Uyên
nhìn tôi với ánh mắt biết ơn:
-
Em cám ơn anh nhiều lắm!
Thi
cũng nắm cánh tay chị nói thêm:
-
Anh ấy đọc quên cả ăn! Em phải dục mãi anh ấy mới chịu buông sách. Anh nói phải
đọc gấp vì chị sắp lên chơi.
Uyên
nắm tay Thi:
-
Chị cũng cám ơn em luôn! Hai người là một mà!
Chợt
Thi xoa bụng mình, nhõng nhẽo:
-
Em đói!
Tôi
nói đùa:
-
“Con gái mười bẩy bẻ gẫy sừng trâu” có khác, lúc nào cũng kêu đói!
Thi
nhăn mặt cãi lại:
-
Em sắp mười sáu mà!
Tôi
cười to:
-
Em thích làm người lớn! Anh tưởng em đòi tăng tuổi mình lên tới mười tám nữa đấy
chứ!
Thi
biết mình bị lừa nên “véo” tôi một cái nhẹ:
-
Em ghét anh!
Tôi
và Uyên cùng cười. Tôi cũng bắt chước Thi xoa bụng mình:
-
Anh cũng đói! Để anh vào trong bếp xem có cơm chay không nhé! Cơm chay ngon lắm
đấy!
Uyên
vội cản:
-
Mới sáng sớm, nhà chùa làm gì đã có cơm chay!
Thi
nhẩy nhẹ lên, khẽ vỗ tay như hoan hô ý kiến “xin ăn” của tôi. Đúng lúc có chú
tiểu đi ngang qua sân, tôi liền hỏi:
-
Chú tiểu ơi, nhà chùa có cơm chay cho khách thập phương không chú!
-
Thưa thí chủ, nhà chùa chỉ ăn một bữa vào giờ Ngọ (giữa trưa) thôi ạ!
Tôi
vờ ôm bụng tỏ ra thất vọng. Tôi hỏi đùa thêm:
-
Thế nhà chùa còn cơm nguội không chú?
Chú
tiểu biết chúng tôi hỏi đùa nên chỉ mỉm cười bước vào chính điện.
Chúng
tôi sợ “thất lễ” với chú tiểu nên phải “bấm bụng” nhịn cười cho tới khi chú đi
khuất.
Thi
lườm tôi:
-
Anh không tha cho ai hết! Vào chùa mà cũng còn đùa nghịch. Phật phạt anh bây giờ!
Uyên
nói ngay:
-
Anh ấy không sợ Phật phạt đâu, mà chỉ sợ cô em gái của chị phạt đấy thôi!
Tôi
nói với Uyên:
-
Phạt gì thì phạt! Cô ấy đừng “véo” và đừng “cắn” anh là được.
Thi
hỏi:
-
Thế phạt anh bằng cách nào?
Tôi
đi lùi nhanh ra phía cổng chùa, tay chỉ chỉ vào má tôi như có ý bảo “phạt anh bằng
cách hôn anh đây này”. Thi phồng má “không!” một tiếng nhẹ rồi đuổi theo tôi. Tôi vừa
chạy ra khỏi cổng chùa thì đi chậm lại.
Thi
nhõng nhẽo:
-
Em phạt anh! Anh phải cõng em ra xe!
Tôi
vờ ghé lưng như để cõng Thi lên. Thi nhìn chung quanh rồi cười:
-
Em tha cho anh lần này đấy!
Nói
xong nàng quay lại để đi cùng với chị.
Tôi
đề nghị:
-
Anh mời hai cô đi ăn phở nhé!
Thi
nắm tay chị kéo đi:
-
Đi ăn phở đi chị! Anh ấy mới “lĩnh lương” mà.
Uyên
rút tay ra khỏi tay Thi:
-
Ăn ngoài tốn tiền lắm! Về nhà ăn cơm với món gà kho gừng của mẹ mới gửi
cho. Không ăn
mẹ giận đấy!
Thi
ngúng nguẩy, nũng nịu đi theo chị.
Nắng sớm đã lên cao. Chúng tôi lấy xe, đạp thẳng về nhà.
***
Mời nghe bản nhạc:
https://www.youtube.com/watch?v=5HRMcvTvoxE&t=161s
Xin
xem tiếp PHẦN 2
Nơi Tôi Về (Phần 2) - Nguyễn Văn Tới
Tiểu chủng viện
thừa sai Kontum, vẻ hài hòa của lối kiến trúc Pháp và nhà Rông cao nguyên, hiện
là nơi du khách đến thăm nhiều nhất. Khởi công năm 1935. Hoàn thành năm 1938.
Tòa nhà được dựng lên bằng gỗ Chít, cộng với đất và rơm. Mối mọt không ăn được.
Phần 2
Bốn người chúng
tôi ở lại Kontum và Pleiku một thời gian khá dài, không khí miền cao nguyên dầu
sao cũng trong lành và mát mẻ hơn ở Sài Gòn. Chúng tôi đi thăm lại những nơi
trong thời niên thiếu đã đi qua, viếng đền Đức Mẹ Măng Đen phía Bắc Kontum với
bức tượng Mẹ bị cụt cả hai bàn tay do chiến tranh. Chúng tôi trở về mái trường
xưa, chủng viện thừa sai Kontum và ở lại nơi này 4 ngày, nhìn lại ngôi nhà
nguyện nhỏ bé, từng lớp học thân thương, căn phòng ngủ ngày xưa chúng tôi trùm
mền, lén thày giám thị, lấy đậu phộng và khoai lang deo ra ăn. Nhìn lại chốn
xưa mà lòng dâng lên biết bao cảm xúc buồn vui thời học trò.
Pleiku bây giờ
không còn là thành phố sương mù, không thể nào hình dung ra một thành phố “đi
dăm phút trở về chốn cũ”. Em Pleiku giờ đã hết “má đỏ môi hồng” vì xe cộ chật
kín, phun khói đầy trời; nữ sinh không còn e ấp tà áo dài trắng ngày xưa bước
chân sáo tung tăng đến trường. Ngôi nhà thờ “Quân Đội” to lớn trang nghiêm ngày
xưa, giờ tràn ngập những thiếu niên khăn quàng đỏ, cứ mỗi chiều tối, họp nhau
hô to khẩu hiệu vang trời. Chính quyền chiếm lấy nơi thờ phượng làm cung văn
hóa thiếu nhi tỉnh Gia Lai.
Người ở đâu về
đông quá. Phố xá chen chúc, xe cộ tấp nập. Người ngoài Bắc di cư vào Nam ào ạt
với lượng người còn đông hơn dân Bắc đi tàu há mồm vào Nam năm 1954; lạ một
điều là không có di dân theo chiều ngược lại từ Nam ra Bắc, nơi khai sinh ra
chủ nghĩa cộng sản được rêu rao là cái nôi giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ
thực dân và cũng là nơi đem lại tự do hạnh phúc đầu tiên cho miền Bắc.
Một buổi tối,
chúng tôi dạo phố thăm Chợ Mới, ngôi chợ lớn nhất của Pleiku. Tôi muốn nhìn lại
nơi chốn mà năm 1988 tôi đã từng ăn, ngủ hằng đêm, chờ xe cá ở Quy Nhơn lên để
khuân vác và cân cá thuê cho chủ vựa. Cố tìm kiếm mà cũng không thể nào nhận ra
đâu là cái sạp cá ngày xưa mình từng ở. Đứng thẫn thờ, ngó quanh. Những thước
phim dĩ vãng quay về.
Ngày đó, vợ
chồng ông bà chủ vựa cá nhận cho tôi giúp việc và cho tôi ngủ lại trong một cái
sạp bằng gỗ khoảng 10 mét vuông, cửa và vách là những miếng ván dài được ghép
vào với nhau trượt trong những cái khe, dựng đứng lên. Ông bà chủ đã gởi gắm
tôi cho ông nhân viên an ninh đi tuần chợ ban đêm nên tôi không lo bị công an
hốt về đồn. Đêm về, những cơn gió lạnh miền cao nguyên xuyên qua khe hở, thổi
se sắt qua vách ván, tôi nằm co ro bên trong, điếu thuốc cháy đỏ trên môi, ngẫm
nghĩ sự đời dâu biển mà thương cho số phận hẩm hiu của mình.
Đêm nào cũng
vậy, khoảng 2 hay 3 giờ sáng, bạn hàng từ Quy Nhơn lên, đập rầm rầm vào vách
ván kêu tôi thức dậy cân cá. Trời rét căm căm, tôi miễn cưỡng chui ra khỏi tấm
mền ấm áp. Chiếc áo len lúc nào cũng trên người, kể cả lúc đi ngủ, tôi chỉ cần
xỏ chân vào đôi dày bốt cao cổ, găng tay cao su màu vàng, và cái áo mưa khoác
lên người, vội vàng lao ra chiếc xe ba-lua (poids-lourd) để vác những cần xé cá
trên vai chạy thật nhanh về sạp cá, trong khi nước đá tan chảy, nhỏ ròng ròng
trên cổ, trên vai, ướt hết bên ngoài áo mưa.
Cần xé cá ướp
đá càng làm tăng cái lạnh nửa đêm về sáng của Pleiku, tôi cố tập quen dần tuy
răng vẫn đánh bò cạp, hai hàm răng lập cập va vào nhau nghe lách cách. Cái khổ
nhất của nghề cân cá không phải là dậy sớm, lạnh run, khuân vác cực khổ mà là
những cái gai ngạnh cá đâm vào đầu ngón tay. Những ngón tay tê cóng khi bới đá
bào ra để bốc cá chuyển qua cần xé của mình, dù cẩn thận đến thế nào, những gai
ngạnh của cá cũng xóc vào đầu ngón tay nhức tới óc. Không lúc nào tôi thấm thía
hai chữ “tê tái” như lúc đó. Ngón tay đau buốt “tê” cóng, mặt “tái” nhợt đi vì
lạnh.
Dưới ánh đèn lù
mù của bóng đèn điện, tôi và anh phu khuân vác bên bà chủ xe cá, xỏ cái đòn vào
cái móc cân, cả hai nhấc cần xé cá lên cân để bà chủ kéo trái cân. Bà chủ cá và
tôi cùng ghi chép vô cuốn sổ riêng của mình số lượng và trọng lượng của mỗi cần
xé, để khi xong sẽ so sánh với nhau. Chúng tôi phải làm thật nhanh, không được
nghỉ ngơi vì bà chủ xe cá còn phải giao cho các vựa cá khác.
Tiếng kêu của
bạn kéo tôi trở về thực tại. Chúng tôi đi ra khỏi Chợ Mới đến ngã tư khu phố
lớn Hoàng Diệu và Võ Tánh, ngày nay họ đặt tên mới là Hùng Vương và Hoàng Văn
Thụ. Nhà tôi nằm gần ngã tư này, đối diện kho gạo Trần Tỷ là kho gạo lớn nhất
miền cao nguyên ngày đó. Tôi cố hình dung ra ngôi nhà ngày xưa của mình ở đâu,
phải mất nhiều lần đi qua lại, tôi mới nhận ra vì người chủ mới đã xây nó lên
thành nhà lầu ba tầng. Một nỗi buồn sâu đậm len vào hồn khiến tôi thẫn thờ mất
một lúc.
Chúng tôi ở lại
Pleiku thêm hai ngày rồi thuê một tài xế và một chiếc xe Toyota Innova 7 chỗ,
tiếp tục hành trình trên quốc lộ 19, sẵn ghé thăm hai người bạn học ngày xưa.
N. K. An làm nghề xay lúa gạo và Bok N. Đ.Trường, hiện là linh mục quản nhiệm
giáo xứ Ayunpa ở Phú Bổn.
Thị trấn Phú
Bổn ngày xưa được nhiều người biết đến trong cuộc di tản ngày 14 tháng 3 năm
1975 từ quân đoàn II. Đoàn người di tản từ Pleiku trên quốc lộ 19 hướng về Nha
Trang, đến đoạn Phú Bổn thì không đi được nữa vì quân lính cộng sản miền Bắc
chặn ngang. Cả đoàn mấy chục ngàn người dân vô tội, đói ăn, mệt mỏi, lê thê
lếch thếch, phải dừng lại giữa đường, cuối cùng phải cắt rừng mà đi qua con tử
lộ 7B oan nghiệt, xác chết chồng lên nhau do quân lính phía Bắc bắn giết bừa
bãi thường dân và cũng do chết đói, chết khát. Khi ấy, tôi chỉ là một thiếu
niên di tản trong đoàn người Exodus khốn khổ đó. Những điều tôi đã trải qua và
trông thấy trên đoạn đường này 47 năm trước, vẫn còn hằn lại trong tâm khảm tôi
nỗi ám ảnh cho đến hết cuộc đời mình.
Con đường đi
Phú Bổn vẫn còn xấu, nhiều đoạn đầy ổ gà, ổ voi, có đoạn đang sửa chữa nhưng
không hề có bảng cảnh báo nguy hiểm. Anh tài xế cho hay nhiều người dân chạy xe
máy ban đêm đã lọt hố chết trên đoạn đường này mà chẳng ai chịu trách nhiệm.
Mấy nhà thầu thích đào đường lên rồi bỏ đó như một kiểu ăn vạ, mặc cho dân than
phiền cho đến khi chính quyền địa phương chịu không nổi vì dân chửi, phải kêu
nhà thầu tới sửa chữa thì họ mới có tiền.
Bây giờ trong
nước lạ lắm, món ăn gì cũng đều được tôn lên hàng “đặc sản”, nghe rất kêu nhưng
thật ra chẳng có gì là đặc biệt. Bok Trường hỏi chúng tôi có muốn thử món “bò
một nắng” chấm với “muối kiến vàng” mà dân ở đây gọi là đặc sản của Phú Bổn.
Nghe nói thịt bò, thịt heo sống mà phơi một nắng, nướng lên chấm
với muối kiến vàng; chúng tôi không ai dám ăn, nhưng chúng tôi vẫn
liều nếm thử đặc sản muối kiến vàng vì tự biết bụng dạ mình không quen, lỡ giữa
chiến trường “thọ tiễn” của Tào Tháo, bị ngài rượt sát đít thì biết chạy đi
đâu.
Việt Nam bây
giờ tràn lan hàng giả, son phấn dầu thơm giả, que thử covid-test giả, thậm chí
cơm chúng ta đang ăn cũng giả; một hôm chúng tôi đưa mắt dõi theo một bóng hồng
nhún nhẩy đi qua với những đường cong tuyệt mỹ đong đưa lên xuống, tôi chợt
khám phá ra một “bộ phận” không ít phụ nữ trong nước bây giờ cũng xài đồ giả …
nói theo văn chương trong nước, đây chỉ là có tính cách “cục bộ”, nghĩa là chỉ
có “một bộ phận” ngườì đàn bà vẫn thích xài hàng giả thôi. May mắn thay, tôi
cũng được an ủi khi biết rằng đồ giả vẫn có thể là “đồ tốt” và rất có ích cho
con người khi nhìn bác tài xế tháo hàm răng giả ra cọ rửa sau bữa ăn, vừa đánh
răng vừa huýt sáo véo von, thế mới tài!
Muối
kiến vàng. Góc trái phía trên, thấy rõ đầu con kiến Vống trên cây Xoài. Loại
muối này dùng để chấm với thịt bò/heo phơi một nắng. Đặc sản của Phú Bổn.
Khi bàn về kinh
tế của một đất nước, người ta thường trích dẫn cuộc sống người dân, công ăn,
việc làm, nhà cửa, và phương tiện công cộng người dân có thể sử dụng hằng ngày.
Cái đập vào mắt chúng tôi nhiều nhất là nhà cửa, phố xá mà trong nước gọi là
bất động sản. Trong nước hiện nay có hai thế lực bất động sản mạnh nhất được
bảo kê bởi nhà nước là Sun Group của ông Lê Viết Lam và Vin Group của ông Phạm
Nhật Vượng. Cả hai ông nhà giàu mới nổi này đều người ngoài Bắc từng đi lao
động hợp tác, sống và làm ăn ở Ukraine trở về. Họ ngầm đồng ý chia nhau mỗi
người hùng cứ một phương, không dẵm chân lên nhau.
Ai đã từng về
Việt Nam mà không biết hay không từng đi chơi khu công viên (theme park) Bà Nà
Hills ở thành phố Đà Nẵng của tập đoàn Sun Group, hệ thống cáp treo, các địa
điểm vui chơi ở đây, tất cả đều do họ xây dựng lên nhái theo phong cách Châu
Âu. Đa số khách đến thăm Bà nà Hills là người châu Á từ các nước láng giềng của
Việt Nam và người Việt trong nước, họ thích thú ngắm nhìn những tòa lâu đài
“made-in-Vietnam” rẻ tiền, vì du lịch tại chỗ tốn ít tiền hơn nhiều so với đi
ra nước ngoài.
Từ Phú Quốc cho
đến Quảng Ninh, ngoài Bắc và nhiều tỉnh thành khác trên cả nước, nhiều dãy nhà
trải dài cả 2,3 cây số, được xây cất rất đẹp, theo phong cách Châu Âu, 3, 4
tầng lầu ngay trên những đường phố chính được trải nhựa mới tinh, mà chẳng thấy
có người ở hay chứng tỏ đã có người mua. Mỗi căn được rao bán từ 20 tỷ cho đến
40 tỷ đồng Việt Nam ($800,000 - $1,6 millions). Khu The Grand World ở Phú Quốc
thuộc tập đoàn Vin Group, rộng 85 mẫu đất, toàn những căn nhà nguy nga với giá
40 tỷ đồng một căn. Nếu chụp hình đưa lên mạng, nói đây là một thành phố châu
Âu, ai cũng phải tin.
Ngoại trừ con
đường chính trong The Grand World là có người ở và tấp nập người qua lại, phía
trong, dân cư rất thưa thớt, lèo tèo vài nhà có người đang sống thì có đèn
điện, các nhà khác tối om, không ai ở. Họ chỉ cho phép xe điện là phương tiện
di chuyển duy nhất trong đây. Một cái hồ nhân tạo khá lớn ở khu trung tâm, điện
sáng trưng, bao quanh là nhà dân và cũng là tiệm buôn bán và nhà hàng, vài đêm
một tuần, có màn trình diễn một “show” 45 phút gọi là The Color of Venice để
phô trương cái phồn hoa giả tạo.
Đây là màn múa
của các vũ công Việt Nam, được sự hỗ trợ của ánh sáng, âm thanh, và các vòi
phun nước giống như ở sòng bài Las Vegas. Tôi thất vọng vì họ nhảy múa quá dở,
vũ công ăn mặc theo kiểu phương Tây, nhưng trình diễn rất vụng về. Ánh sáng
không nhịp nhàng với vũ điệu, âm thanh quá ồn ào. Tôi chỉ cầu mong cho nó kết
thúc sớm để tôi khỏi bị tra tấn cái lỗ tai. Tôi tự hỏi ai là người dám bỏ ra 1
triệu 6 đô la ($1.6 millions) chỉ để sống trong khu “sang trọng” không có 1
chút gì Việt Nam, và để mỗi đêm bị tra tấn bởi âm thanh nhức óc như thế này.
Tôi cho rằng
những cán bộ điều hành nhà nước và các kỹ sư xây dựng đô thị người Việt Nam
hiện nay đều tốt nghiệp từ những trường đại học “KINH-THẾ” ở trong
nước mới có thể nghĩ ra kiểu làm kinh tế như vậy. Tôi chắc họ đi theo mô hình
của công ty địa ốc vừa sập tiêm Evergrande bên nước Tàu. Quan chức bắt tay
với tài phiệt thân hữu, xoay đất ruộng rẻ mạt, thành đất vàng
đô thị, để các tập đoàn “mafia”này xây nhà bán theo phương châm “có làm mới
có ăn”. Quan chức có thực hiện công trình thì mới có lại quả, được
chia phần trăm.
Cách điều hành
đất nước và làm kinh tế của Việt Nam hiện nay đều bắt chước theo cách quản lý
của nước đàn anh Tàu. Trung ương ra nghị quyết, chỉ thị, địa phương phải thi
hành sao cho đạt chỉ tiêu là tệ nhất, còn thường là vượt chỉ tiêu theo phép
thần thông biến hóa của từng viên bí thư địa phương. Hiện nay, Tàu là nước có
hệ thống xe lửa tốc hành (Bullet- trains) lớn và dài nhất, các khu đô thị,
thương xá cũng to lớn và đẹp nhất thế giới mà không ai biết là số nợ xấu mượn
nhà bank đã vượt quá mức cho phép nên Trung Cộng chịu không nổi, phải dừng lại
chương trình con đường Tơ Lụa từ Á sang Âu. Ai từng đi du lịch Trung cộng đều
biết có những khu đô thị ma không có người ở.
Một ví dụ điển
hình là đoạn đường sắt Metro Hà Nội, tuyến đường Cát Linh – Hà Đông, được xây
dựng bởi nhà thầu Trung cộng, dài 13.1 Km, gồm 12 trạm, tốc độ tối đa 80
Km/giờ. Chi phí hoàn thành cao gấp 3,4 lần dự tính, có thể nói mắc nhất trên
thế giới, theo Báo Điện Tử đảng cộng sản Việt Nam đưa tin. Họ dự đoán khoảng
4.9 triệu khách trong một tháng, nhưng chỉ chưa đến 800.000 khách xử dụng tàu
điện vì tò mò. Dân Việt Nam chỉ thích đi xe gắn máy riêng chứ không thích metro
vì bất tiện.
Chúng tôi đến
tận nơi và leo lên đi thử. Con tàu rất tầm thường không có gì đặc biệt, hành
khách thưa thớt nhưng vẫn phải hoạt động dù bị lỗ nặng nề (1), lại một kiểu
cách có làm mới có ăn, cha ông mình vẫn dạy như thế. Tôi hỏi một
cặp vợ chồng trẻ đi với đứa con trai, lý do gì anh thích đi tàu điện này. Anh
cho biết đứa con trai mê đi tàu điện có máy lạnh mát mẻ mà lại vui được gặp bạn
bè, thay vì ở nhà chật chội và nóng nực, giá tàu lại rẻ mạt.
Sau đó, cậu
hướng dẫn viên du lịch đưa chúng tôi đến Phở Thìn nổi tiếng ở phố Cổ Hà Nội.
Cậu khoe đây là một trong hai tiệm phở nổi tiếng nhất ở đây, tiệm kia là Phở Lý
Quốc Sư. Đây là 1 tiệm phở tồi tàn nằm ngay trong con hẻm chật chội, họ dẫn
chúng tôi ngồi vào một cái bàn có mấy cái ghế gỗ nhỏ xíu. Sau khi gọi món phở,
tôi đứng dậy kiếm nhà vệ sinh. Họ chỉ sâu vô phía trong hẻm cách đó chừng 10
thước. Vừa bước vào một cái vách ngăn không có cửa là một cảnh tượng tôi không
thể nào quên. Phải diễn tả là một bàn cầu ngập ngụa phân và mùi xú uế xông lên
ngạt thở. Tôi quay ngoắt ra ngay lập tức, ráng nhịn, trở lại nhìn tô phở, tôi
không thể nào ăn nổi vì hình ảnh vừa nhìn thấy. Ôi thủ đô ngàn năm văn vật của Việt
Nam.
Dọc đường đi
miền Trung, chúng tôi đáp tàu lửa toa giường nằm vì nó chạy dọc theo bờ biển ra
tới Hội an, Đà Nẵng. Tuy chậm nhưng chúng tôi có thể ngắm phong cảnh và quan
sát đời sống người dân rõ ràng hơn. Đa số những làng mạc và thị trấn đi qua,
nhà cửa bình thường, chỉ lác đác vài căn nhà lầu vươn lên cao coi rất lạc điệu,
nhưng mấy cái cổng chào thì được xây to lớn không cần thiết, người trong nước
gọi là “hoành tráng”. Trên cổng chào lúc nào cũng có hàng chữ đỏ to tướng “độc
lập-tự do-hạnh phúc” mà tính tôi lại thật thà như đếm nên diễn dịch ra
là độc lập trừ (-) tự do và trừ (-) hạnh phúc vì trước
các chữ tự do và hạnh phúc có hai cái dấu trừ (-) lừng lững trước mắt.
Tàu lửa đi ngang qua sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, tỉnh Quảng Trị. Cây cầu lịch sử chia đôi Nam Bắc vẫn còn đó, không còn xử dụng, coi như là một chứng tích của cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Trước năm 1975, tôi còn nhỏ, chưa đi lính, nên không hình dung được sự căng thẳng ở đây ra sao. Bây giờ bên phía Bắc cây cầu, họ dựng lên một cổng chào và một bảo tàng viện, một cái đài cao lớn nhiều bậc cấp với hàng chữ “cột cờ giới tuyến” và lá cờ đỏ búa liềm bay phất phới, còn phía Nam, đìu hiu, không có gì.
Chúng tôi về
Việt Nam vào lúc dịch bệnh đang hoành hành bên Trung cộng nên các địa điểm du
lịch không bị tràn ngập du khách Tàu, nghe nói họ không được lịch sự cho lắm,
mà lại xả rác bừa bãi. Trung cộng vừa mở cửa từ ngày 8 tháng 1-2023, cho dân
Tàu đi tự do vì chính sách Zero-civid của họ thất bại não nề. Người dân như
những con chim bị nhốt trong lồng, giờ bung ra đi khắp nơi trên đất nước Việt
Nam và thế giới. Không biết họ sẽ còn gieo rắc con covid này đến nơi nào trên
quả địa cầu này.
Nguyễn Văn Tới
REFERENCES:
Tàu metro Cát Linh- Hà Đông vắng khách.
Hồ nước nhân tạo với màn trình diễn nhạt
nhẽo The color of Venice, Phú Quốc.
Khu phố chính The Grand World, Phú Quốc. Một căn nhà trị giá 40 tỷ đồng VN.
Mời đọc lại phần 1