Pages

Friday, March 31, 2023

Em Đã Về - Loc Duong

Hình internet

Được tin người yêu của hắn, một trong số bốn cô chiêu đãi viên vừa được trả tự do, hắn mừng quýnh quáng, ôm bó hoa chạy đến thăm. Nàng rạng rỡ trong chiếc áo ngủ chạy ra cổng đón hắn, hai cái vú nhảy tưng tưng : 

-Ôi, anh cho em nhiều hoa quá.

-Mười một bông đấy, mỗi bông tượng trưng cho một ký ma tuý em đã cất công đem về.

-Anh của em điệu nghệ, dễ thương quá...


Ngồi trong phòng khách sang trọng, nàng mang cho hắn ly rượu sâm Hàn Quốc, còn nàng uống cà phê Pháp :

-Em có bong bóng cười, anh có muốn xài bây giờ không ?

-Thôi để tối. Bây giờ anh đang mừng quá. Cứ tưởng em sẽ còn bị giam lâu lắm.

-Anh nói lạ. Bắt thế nào được em.

-Bị tóm quả tang vận chuyển 11 ký ma tuý, bắt giam là còn may, anh còn đang sợ em bị tử hình nữa kìa.

-Anh của em dân chơi mà ngây thơ cụ. Luật đó chỉ dành cho dân thường. Còn với tụi em phải khác đi chứ lị.

-Ừ, ngay từ đầu coi ti vi anh đã thấy có gì khác khác. Như người ta bị bắt ma tuý, ít hơn em nhiều, vẫn bị còng tay tại chỗ, bắt ngồi xổm cạnh đống ma tuý để chụp hình, còn em được ngồi ghế thoải mái, không bị còng gì hết, hai bàn tay vẫn kiêu sa...

-Chúng nó còn hỏi em muốn uống gì không nhưng em lắc đầu, chẳng buồn trả lời. Em đang bực mình mà.

-Rồi anh thấy bắt bao nhiêu vụ ma tuý, bị can cứ âm thầm chờ ngày ra toà lãnh chung thân hay án tử. Còn vụ của em, tự nhiên cả báo chí lẫn đài truyền hình mời bao nhiêu là luật sư dỏm lên phát biểu, phân tích chủ yếu về điều luật nếu mang ma tuý mà không biết đó là ma tuý thì trở thành vô tội. Lúc coi anh đã nghi nghi tụi nó dọn đường dư luận rồi.

-Thì chúng em đã được dặn cứ khai như thế, bảo đảm không sao hết. Có vậy chúng em mới dám xách ma tuý tự nhiên như đi chợ chứ. Em đi bao nhiêu chuyến rồi chứ có phải lần đầu đâu. 

-Nhưng lần này có vẻ như tụi nó đã lập chuyên án. Đâu phải vô tình mà tụi nó bố trí người quay phim lúc các em đưa va ly qua máy chiếu. Rồi bố trí quay luôn màn hình máy chiếu thấy rõ va ly của em có bao nhiêu tuýp kem đánh răng xinh đẹp đang nằm trong đó...

-Chuyên án khỉ mốc gì ? Tụi Hải quan TP/HCM đái không qua ngọn cỏ, định tranh ăn, không biết mặt trời nằm ở đâu, cứ tưởng làm vậy là vừa ăn bẫm vừa lập chiến công. Rồi anh coi, mai mốt mấy thằng lãnh đạo ở đó sẽ bay chức hết. Nhất là cái thằng bắt em cầm tờ giấy ghi tên họ đứng lên để chụp hình, em sẽ đề nghị với các anh ở trên cấm nó bay một năm, cho nó biết thế nào là sức mạnh của tiếp viên hàng không có chống lưng.

-Nhưng hiện nay dư luận cả nước đang vô cùng bức xúc. Họ cứ tưởng rằng luật pháp là phải công minh, bình đẳng với mọi người... 

Nàng bổng nhoẻn một nụ cười, hàm răng sứ xinh xinh :

-Thì vẫn bình đẳng đó chứ. Anh đọc cuốn “Trại Súc Vật” rồi chứ gì ?

-Chưa. Có gì không ?

-Thế mà em nghe nói từ năm học cấp 2 anh đã đọc và có tủ sách gồm hơn 100 tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới.

-Cái đó là thằng Huệ. Không phải anh. Anh không xạo trâng tráo như thế. Nhưng trại súc vật nói thế nào cơ ?

-À, ông George Orwell viết : Trong trại súc vật thì mọi con vật đều bình đẳng, nhưng lại có những con vật bình đẳng hơn những con khác....

-Tức là không bình đẳng gì cả, chứ gì ?

-Anh của em thông minh quá. 

Nói xong nàng bước đến dụi đầu hắn vào ngực nàng. Trong khi đó ở con hẻm bên cạnh, một thanh niên lên cơn ngáo ma tuý đã dùng dao đâm chết mẹ ruột của mình và làm trọng thương hai người khác, trước khi bị công an khống chế một cách vất vả. 

 

Loc Duong

Bơ Vơ Tình Sầu - Hàn Thiên Lương

 

Ta nay lỡ bước tang bồng

Em đang khắc khoải má hồng nhạt phai

Giờ ta lưu xứ lạc loài

Đỉnh sầu chất ngất héo nhòa mộng xanh !

 

Nhớ về quê cũ điêu linh

Thương người cô quả trắng vành khăn tang

Buồn hoen mắt biếc võ vàng

Xa trông biền biệt nghìn trùng sương pha!

 

Ta đâu vui cảnh phồn hoa

Chỉ là ảo ảnh nhạt nhòa sắc không!

Mây che trăng ngọc bềnh bồng

Lệ rưng rưng chảy khô lòng mắt xanh !

 

Ngẩn ngơ trong cõi nhân sinh

Đau dời lữ thứ độc hành chênh vênh

Thuyền nan bãi bể  đầu ghềnh

Sông xô đá chạm lênh đênh giữa dòng !

 

Đôi bờ sương gió mênh mông

Bến xưa mờ khuất tao phùng cõi mơ

Hoàng hôn sương khói mịt mờ

Kẻ đi người đợi bơ vơ tình sầu!

 

Cớ sao trăng rụng xuống cầu

Để cho trăng rải phai màu nước xanh

Từng cơn sóng bạc lênh đênh

Thêm mùa gió chướng thuyền tình trôi xa!

 

Biệt mù… biết mấy hải hà

Chừng như bão tố trong ta trùng trùng !


28-3-2023

Hàn Thiên Lương 

Trong Chốn Bụi Trần, Ta Chỉ Là Những Vị Khách Qua Đường Của Tháng Năm

Ảnh minh hoạ: pixabay

Ngày tháng thoi đưa, cuộc đời đã trải qua bao mưa gió, giữa gặp gỡ và ly biệt mà diễn dịch ra buồn vui tan hợp của cuộc đời. Những bước chân vội vàng hối hả không níu được thời gian, chẳng giữ được thanh xuân. Rất nhiều người cũng như rất nhiều sự tình, vốn vẫn chưa nhìn được rõ ràng tường tận, thì chúng đã vội trôi đi…

Khi ta vừa mới biết thế nào là trưởng thành cũng chính là lúc chợt nhận ra rằng bản thân mình đã không còn trẻ nữa. Ngày trước, ta cứ luôn cho rằng năm tháng đời người dài đằng đẵng, thế mà giờ đây nhìn lại thấy sự đời sao quá vô thường. Năm tháng trôi đi một cách vô tình, thời gian vốn chẳng do ta nắm giữ.

Năm tháng còn lại mỗi ngày một ngắn, thời gian cứ thế mỏng dần mỏng dần. Từ điểm bắt đầu cho đến điểm kết thúc, có niềm vui, có nỗi buồn, có hạnh phúc, có thương đau, cũng có những chặng đường chúng ta phải tự mình bước đi, tự mình lĩnh ngộ.

Trên con đường đời, thân động theo cảnh, nếu như có thể, thử hỏi có ai không muốn quẳng đi hết thảy phiền não chốn hồng trần mà sống trọn với tình yêu thương?

Thời trẻ, chúng ta mãi luôn cho rằng quãng đường phía trước dường như vô tận, có lượng lớn thời gian có thể nắm bắt. Nhưng khi nắng sớm bình minh rọi qua cửa sổ, xuyên qua ký ước, rơi vào trong những khoảnh khắc đã đi xa đó, ta mới chợt nhận ra, năm tháng dài đằng đẵng đó từ sớm đã ở ngay bên cạnh.

Biết bao phồn hoa nay đã thành ra xưa cũ, biết bao năm tháng giờ đã đổi thay, thời gian giống như một món kỷ vật xưa cũ, khâu khâu vá vá, nhưng lại không nỡ vứt đi. Những năm tháng đã đi xa đó, đã từng chứa đựng giấc mộng, thấm nhuần cái tuổi thanh xuân, lấp đầy những ký ức.

Có người từng nói: Khi còn trẻ chúng ta không hiểu biết gì cả, đến khi chúng ta hiểu biết rồi mới chợt nhận ra rằng ta đã không còn trẻ nữa…

Mỗi người đều có một chặng đường gian nan khó bước, cần bản thân phải tự mình lĩnh ngộ và bước đi. Chỉ cần tâm vẫn còn đó, có thể đi được bao xa thì hãy cứ đi bao xa. Sau khi vượt qua những thử thách chông gai, bạn sẽ nhận thấy rằng bạn còn mạnh mẽ hơn mình nghĩ rất nhiều.

Năm tháng đằng đẵng đong đưa, luôn cũng có những khoảnh khắc đáng nhớ được lưu lại. Những lúc nhàn rỗi, chọn ra một đoạn thời gian thuộc về mình, pha một ấm trà tịnh tâm, mỉm cười trong hương trà thoang thoảng, làm ấm tâm mình trong những ký ức tươi đẹp. Mỗi một chút đến đến đi đi đó đều là món quà tuyệt vời của tháng năm. Điều may mắn là chúng ta chưa từng cô phụ thời gian, cũng chưa từng cô phụ bản thân mình.

Ảnh minh họa: lovepik

Có người từng nói, chờ đợi là bắt đầu già dặn của một đời. Một đời này định sẵn không thể quay trở lại, chi bằng thản nhiên đón nhận, đạt được hay mất đi, hãy cứ xem nó là điều đương nhiên, điềm tĩnh ôm giữ quang cảnh trong tâm, nhìn cười bốn mùa thay đổi. Tình người ấm lạnh, hãy xem nó là điều đương nhiên.

Trưởng thành không phải là tâm đã trở nên già đi, mà là tâm thái ngày càng điềm tĩnh ung dung. Với năm tháng vĩnh hằng mà nói, chúng ta chẳng qua chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi chẳng đáng kể. Vậy nên, hãy thuận theo tiếng gọi từ nơi sâu thẳm trong tâm, sống sao cho lòng thanh thản, để mỗi ngày đều cảm nhận được niềm vui.

Trong cõi hồng trần này, mỗi người chẳng khác chi người khách từ phương xa đến, thời gian sẽ cho chúng ta biết: niềm vui lâu bền nhất là niềm đam mê giản đơn, người khiến ta yên tâm nhất là người đồng hành với bạn hàng ngày, người khiến bạn ấm áp nhất là người bạn tri âm luôn thấu hiểu bạn.

Cảm ơn những ai đã cùng ta dắt tay nhau đi qua những đoạn chặng đường ấm áp, mong bạn hãy trân quý những người luôn ở bên. Trong năm tháng xế chiều, hãy gieo thêm hạt giống thiện lương, để tình yêu thương được lưu lại dài lâu.

Thời gian, giống như một quyển sách, dù đã trải qua bao năm tháng, nhẹ nhàng lật lại, các chữ trong sách tuy đã ngả vàng, nhưng vẫn khiến lòng người thổn thức. Mong người khách viễn phương đều sẽ thấy được những quanh cảnh tươi đẹp, mong bạn khi trở về không dính bụi trần của tháng năm.

Theo jj59
Vũ Dương biên dịc

Liệu Có Vĩnh Biệt Tình Nhau? - Vũ thế Thành

 

Hồi đi học, tôi “cúp cua” đi xem phim Doctor Zhivago. Trước đó tôi đã đọc bản dịch tiểu thuyết này với tựa đề “Vĩnh biệt tình em” (hình như là bản dịch của Nguyễn Hữu Hiệu).

*****

Mấy ngày Tết vừa qua, nằm nhà xem lại bộ phim kinh điển này. Gọi là kinh điển vì phim phát hành cách nay đã gần 60 năm (năm 1965), hay cả về kịch bản, hình ảnh, diễn xuất, và âm nhạc, không thể tuyệt vời hơn được nữa.

Hai lần xem phim, tôi có hai cảm nhận khác nhau. Khoảng cách giữa hai lần xem cũng 50 năm. Khoảng cách của một đời người với bao cuộc bể dâu.

Lần đầu đọc truyện cũng như xem phim, tôi bị lôi kéo vào tình tiết éo le của hai nhân vật chính, Zhivago và Lara, còn bối cảnh xô đẩy đôi tình nhân này gắn kết và xa nhau, lúc ẩn lúc hiện, tôi không chú ý lắm, nói đúng hơn chỉ hiểu lờ mờ…

Câu chuyện xảy ra vào thế chiến thứ nhất, là liền sau đó là cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga. Zhivago và Lara lần đầu gặp nhau ở Moscow trong tình huống không lấy gì vui vẻ lắm. Mẹ của Lara tự vẫn khi biết được nhân tình của bà, một luật sư có thế lực chính trị đã cưỡng hiếp Lara. Dr Zhivago có mặt để cứu bà. Lần đầu gặp mặt chỉ thoảng qua như thế.

Rồi chàng có vợ, nàng có chồng. Zhivago ra mặt trận như một bác sĩ quân y. Hai người gặp nhau ở chiến trường. Giữa khoảng khắc của cái sống và chết, cả hai thầm yêu nhau, nhưng đè nén, không tỏ ra lời. Cả hai đều có bổn phận riêng.

Chiến tranh kết thúc. Hai người chia tay. Liền sau đó cuộc cách mạng tháng 10 xảy ra. Zhivago trở về Moscow. Nơi đây, chàng không thể hội nhập được với bầu không khí cách mạng, bị phê phán là tiểu tư sản, thiếu tinh thần cách mạng. Chịu hết nổi, Zhivago đưa vợ con về vùng quê lánh nạn.

Tại vùng quê, Zhivago và Lara tình cờ gặp nhau ở một thư viện nhỏ. Lần gặp bất ngờ khiến lý trí của cả hai không kịp đối phó. Lò xo bị nén chặt, một khi đã bung ra, thì bung càng mãnh liệt Lara đưa Zhivago về căn nhà nhỏ của nàng, khởi đầu cho những khoảng khắc đẹp nhất của đôi tình nhân này.

Chỉ ít lâu sau, sự giằng co giữa bổn phận và tình yêu trong lòng Zhivago đã lên đỉnh điểm, chàng đến nhà Lara, quyết định nói lời chia tay. Lara vẫn bình tĩnh chấp nhận và chờ đợi. Trên đường về nhà, Zhivago bị quân cách mạng bắt và đẩy ra chiến trường.

Vài năm sau, Zhivago trốn thoát về lại vùng quê thì hay tin vợ con đã trở về Moscow, sau đó bị trục xuất ra nước ngoài vì là con nhà tư sản. Lara vẫn chờ đợi chàng. Đây là khoảng thời gian đẹp nhất của đôi tình nhân. Hương đồng cỏ nội dường như lãng quên số phận, đã làm tình yêu thăng hoa biến anh chàng bác sĩ trở thành thi sĩ. Họ sanh ra dường như để tìm nhau, để yêu nhau và để có nhau…, dù cho số phận đẩy đưa nghiệt ngã, và dù cho bổn phận có che khuất tình yêu đó.  Đời người chỉ cần một lần biết yêu thật sự là đủ.

Rồi gã luật sư, nhân tình của mẹ Lara lại tìm đến. Hắn cho biết Lara đang bị truy nã vì chồng cũ của nàng là tên phản bội, phản cách mạng. Vì mạng sống của nàng, Zhivago đã khẩn khoản nàng đi trốn cùng với tên luật sư đó. Họ lại chia tay. Và lần này là chia tay vĩnh quyết, chỉ còn lại hình bóng. Vĩnh biệt tình em!

Zhivago trở về Moscow. Hai mươi năm trôi qua. Một lần ở ga xe lửa, Zhivago thoáng thấy bóng Lara dưới phố, chàng đuổi theo và chết vì đột quỵ ngay sau đó. Lara không hay biết gì. Vài ngày sau, định mệnh đã sắp đặt để Lara  tình cờ trông thấy đám tang của Zhivago. Vĩnh biệt tình anh!

Mà liệu đôi tình nhân này có vĩnh biệt nhau được chăng?

Một người có trái tim nhân hậu như Dr.Zhivago phải chết. Nếu là Boris Parternak, tôi cũng để cho nhân vật Zhivago chết. Chỉ có cái chết mới xóa bỏ mọi ngăn cách. Họ sẽ tìm đến nhau như đã từng chờ đợi nhau.

Chỉ những ngày sau năm 75, khi đã nếm mùi Paven trong “Thép đã tôi thế đấy. Tôi nhớ lại những lần bị phê bình vì huýt sao bản nhạc ủy vàng, nhớ những người trong trại cải tạo, những người chết nơi biển cả, những vùng kinh tế mới,.. đọc lại quyển Bác sĩ Zhivago tôi mới thấm thía bối cảnh nghiệt ngã mà đôi tình nhân này trải qua.

Bộ phim tập trung khai thác vào mối tình vừa lãng mạn của Zhivago và Lara nên lược bỏ đi khá nhiều những tình tiết trong thời cách mạng tháng 10 Nga, nhưng cũng đủ để những ai đã từng đọc truyện, xem phim có thể hình dung lại được.

Bên dưới là đoạn phim được xem là hay nhất khi cả hai đang sống bên nhau những ngày êm đẹp nhất, và cũng kết thúc trong bi kịch nhất khi cả hai chia tay. Đôi mắt của cặp diễn viên Omar Sharif và Julie Christie đã nói lên tất cả. Lara ngoái đầu nhìn lại, xe ngựa khuất nẻo, Zhivago chạy lên lầu, đập kính cửa sổ để chỉ nhìn thấy đám bụi mờ. 


Vũ Thế Thành 

March 24, 2023

 

Best scene of Docteur Jivago with Lara's Theme - Maurice Jarre

Thursday, March 30, 2023

25 Sự Thật Thú Vị Về Đồng USD

90% đồng USD có dấu vết của cocain, một người có 10 USD trong ví và không có khoản nợ nào được xem là giàu có hơn 25% dân Mỹ.... là những sự thật thú vị về đồng tiền này. 

1. Có 75.000 tỷ USD trên toàn thế giới. Nếu chia đều cho dân số, mỗi người sẽ có ít nhất 11.000 USD.

2. 90% tiền Mỹ có dấu vết của cocain.

3. Khoản nợ của Mỹ gấp 10 lần tổng giá trị tiền đang lưu thông.

4. 66% tiền mặt của Mỹ nằm ở nước ngoài.


5. Nếu giảm 1 xu trên mỗi hóa đơn thanh toán bằng USD thì sau 30 năm nước Mỹ tiết kiệm được khoảng 4,4 tỷ USD.

6. Số lượng tiền in cho trò chơi "cờ tỷ phú" cao hơn nhiều lần so với tiền thật.

7. Nếu bạn có 10 USD trong ví và không có một khoản nợ nào thì bạn đang giàu hơn 25% người Mỹ.

8. Chính phủ Mỹ phải chi 2,4 xu để chế tạo đồng 1 xu.


9. Máu của nhiều người hiến tặng bị đem bán trên những kênh giao dịch mở và nó tạo nên ngành công nghiệp đáng giá 4,5 tỷ USD mỗi năm.

10. Thứ từng được chế tạo có giá trị đắt tiền nhất thế giới là trạm vũ trụ quốc tế, với mức giá 150 tỷ USD.

11. Những lời cuối cùng của huyền thoại R&R Bob Marley là "Tiền không mua được cuộc sống".

12. Doanh thu của McDonald's khoảng 75 triệu USD mỗi ngày, trong khi Apple kiếm được 300.000 USD mỗi phút.

13. 19 trong số 20 người phụ nữ giàu nhất thế giới thừa kế tiền từ chồng hoặc cha của họ.


 14. Năm 2005, số tiền mà người Mỹ tiêu tốn để mua đồ jeans là khoảng 15 tỷ USD và họ chi khoảng 61,4 tỷ USD cho vật nuôi vào năm 2011.

15. Trùm ma túy Columbia Pablo Escobar giàu đến nỗi mỗi năm bị chuột cắn tới 1 tỷ USD trong kho. Khi trốn chạy cuộc truy bắt của Chính phủ, ông trùm này từng đốt 1,6 triệu USD để sưởi ấm cho con gái và 2 triệu USD để nấu ăn.

16. Số seri trên đồng tiền của Mỹ không chỉ bao gồm các con số mà còn cả các chữ cái. Đây là mã chữ của 12 ngân hàng dự trữ liên bang.

17. Mực trên đồng USD là loại mực công nghệ cao, với khả năng truy vết, từ tính và khúc xạ kép.

18. Cơ quan đúc tiền của Mỹ thường cắt nhỏ các đồng xu bị lỗi trước khi đem đi tái chế. Điều này nhằm loại bỏ sự cần thiết của đội vũ trang hộ tống.

19. Dải ruy băng màu xanh trên đồng USD mới chứa hàng ngàn thấu kính siêu nhỏ. Chính điều này khiến biểu tượng chiếc chuông Liberty trông như đang chuyển động.

20. Tiền xu đầu tiên của Mỹ được làm hoàn toàn từ đồng. Trong khi hiện nay, 95% thành phần chế tạo chúng là kẽm.


21. Cần tới áp lực 60 tấn để in mực lên vải trên đồng USD. Chính điều này khiến chất lượng của đôla Mỹ vượt trội so với các đồng tiền khác trên thế giới.

22 Mỗi màu sắc đều có đặc tính riêng  Theo đó đồng USD được chọn màu xanh lá vì nó có khả năng chống đổi màu, bong tróc hay bị mờ

23. Chất lượng của những đồng đô la giả đôi khi rất tốt. Nhiều trường hợp tiền giả bị phát hiện là do chúng hoàn hảo hơn cả tiền thật.

24. Trước đây, các thủy thủ trên tàu viễn dương thường giết thời gian bằng cách lấy thìa đập mạnh vào thành của đồng xu, sau đó khoét bỏ phần giữa để tạo thành những chiếc nhẫn cho người thân của họ.

25. Đồng đô la không được làm từ giấy mà là từ vải. Ở thời Ben Franklin, người ta đã sửa hàng tấn tiền mặt bị rách với kim và chỉ.

 

 Theo Zing/vietnamnet

Cổ Thụ Lùn - Quý Thể


Nhát cuốc cuối cùng làm bật lên tảng đất màu vàng mỡ màng, mình đất phô ra những hạt cát thạch anh lấp lánh trong vắt. Làn hơi đất 

Sau biến cố tang thương, đất nước đổi chủ cả hai chúng tôi bị đày vào chốn hoang sơ cùng cực này, tôi tìm được ông và ông bắt được tôi. Tôi cho rằng trong cuộc hội ngộ này có bàn tay sắp đặt của vị ác thần. Một cơ hội tàn nhẫn cho cả hai phải chứng kiến số phận của nhau. Tôi bỗng dưng hoá thành nhân chứng và là người tham dự một phần trong cuộc đời đầy thử thách gian nan, long đong kì dị, tối tăm cùng cực của một nhân cách sáng trưng tuyệt vời. Chúng tôi nương tựa vào nhau để tồn tại, tìm chút hơi ấm tình người để không mất niềm tin vào con người. 

Cuối năm 74 ông trở về Việt Nam để chịu tang mẹ và bị kẹt lại. Ở nước ngoài ông được biết như một nhà bác học với tất cả cái nghĩa đích thực. Năm 60 ông đỗ tú tài và nhận học bỗng Colombo du học ngành y ở Pháp. Ra trường, ông là bác sĩ nội trú tại bệnh viện Saint-Louis ở Paris. Sau ông dạy tại trường Y khoa Paris. Ông là một giáo sư danh tiếng chuyên ngành cấy ghép. Rồi ông không đi dạy nữa mà nghiên cứu ngành ghép tuỷ chữa ung thư máu thuộc viện Pasteur. Ông có quốc tịch Pháp, vợ Pháp và hai con. Cả đời ông làm khoa học và phục vụ loài người. Ông không quan tâm đến chính trị.

Thế mà ông lại tình cờ rơi đúng vào tâm cơn bão tồi tệ mùa xuân 75. Ông bị cuốn phăng đi như chiếc lá khô. Tai hại thay, cái tính ngây thơ chuyện đời kiểu bác học khiến ông hành động như trẻ con. Ông kể lại cho tôi nghe về những ngày đầu tiên: Mẹ tôi bị ung thư đến giai đoạn cuối, theo y học thì khó lòng chờ đợi đứa con thân yêu từ phương trời tây trở về để vuốt mắt. Thế mà bà vẫn sống ngoài qui luật sinh học và sự tiên liệu của tất cả bác sĩ, chờ gặp tôi rồi mới ra đi.  

Làm khoa học cả đời tôi không tin vào điều huyền hoặc. Song lần này hiển nhiên quá mà tôi lại là người trong cuộc, làm sao không tin ngoài cái thế giới vật chất này còn có thế giới của tâm linh? Bà ra đi nét mặt thần thái toát lên vẻ thanh thản nhẹ nhàng. Chôn cất mẹ xong tôi rã rời cả thân xác lẫn tâm hồn. Lúc đó tình hình chiến sự ở Huế đã nghiêm trọng. Tôi vô Đà Nẵng, nơi đây còn hỗn độn hơn, ngoài đường đủ mọi sắc lính, dân chúng người chạy ra bắc kẻ kéo vào nam. Tôi đi lùng một chiếc vé máy bay đi Saigon, nhưng mọi chuyện đã trễ. Bằng đủ mọi phương tiện di chuyển tôi chạy vào Nam với hy vọng mong manh sẽ kiếm được máy bay qua Pháp. Nhưng đoàn người hàng vạn kéo nhau đến Nha Trang thì quân giải phóng tràn vào, chận lại. Như thế là hết. Tôi phải làm gì ? Tôi làm khoa học, không theo phe phái nào.


Tôi nghĩ chẳng ai làm gì mình. Song nhiều người quen biết tôi họ nói: Trong cao trào này, một con người như ông, được đào tạo ở nước ngoài, cả đời sống ở nước ngoài, mới ở nước ngoài trở về, quốc tịch Pháp, da dẻ trắng trẻo hồng hào, nội cái đó cũng đủ cho đi tù rục xương. Tôi nghe có lý. Làm sao để được yên thân? Tôi hành động theo kiểu tôi nghĩ và cho là đúng. Trước tiên tôi đốt mọi thứ giấy tờ có liên hệ xa hoặc gần với tôi. Đốt một cách bí mật hồi hộp. Đêm lại , tôi lấy cớ đun nước, tôi mò xuống bếp khơi lửa cho vào đó cái passport, cái căn cước, nhiều giấy tờ, hàng trăm tấm danh thiếp. Số giấy tờ cần thiết cho cả một đời người chỉ vừa đủ đun sôi ấm nước nhỏ. Tôi còn lén mang ra khỏi nhà một quãng thực xa vất chiếc va li áo quần và bao nhiêu vật dụng cần thiết, làm như tất cả chúng mang mầm bệnh dịch hạch. Sau đó tôi chẳng còn gì thuộc về dĩ vãng nữa.


Tôi suy nghĩ, hãy làm như mọi người và tuân theo mệnh lệnh của người cầm quyền thì sẽ được yên thân. Lúc này người ta kêu gọi bỏ thành phố về nông thôn tăng gia sản xuất. Ai không có đất thì xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới. Tôi nhờ cô em bán giùm tôi một cái biệt thự sang trọng được hai ngàn tiền cụ Hồ. Gồm toàn những tờ giấy bạc màu đỏ mệnh giá mười đồng mà thời đó ai cũng thèm thuồng và ngưỡng mộ. Số tiền này cũng chỉ vừa đủ mua một cái chòi tranh, với mảnh rừng phát nham nhở làm cái rẫy. Nghĩ lại thật buồn cười vi la đi đổi chòi tranh, đất thành phố đem đổi đất rừng. Tôi thì rất mãn nguyện, hăm hở tăng gia sản xuất. 

“Mơ-xơ Bec-trăng” cầm rựa phát rẫy thực. Mới có nửa buổi tay ông đã phồng. Ba ngày sau lên thăm ông anh, cô em thấy thân thể ông anh mình đỏ như con tôm luộc. Và cái cảnh cười ra nước mắt: Một vị bác sĩ danh tiếng nằm sấp cho một lão nhà quê cạo gió chữa bệnh. Lão già tên là Mười Cuốc, lão là người bán chòi bán rẫy cho ông. Lão lấy cái muỗng nhôm cũ mèm đen sì, cạo dọc sống lưng, luôn miệng than:

-" Gió” nhiều chi lạ. Chỗ mô cũng có “gió”. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ tui chưa thấy người đàn ông nào da trắng mỏng còn hơn da con gái như anh Hai Sâm này… 

Lão bắt ông há miệng lè lưỡi ra cho lão bôi dầu cao sao vàng, thứ thuốc chữa bá bệnh trong thời kì ấy. Dầu cay, nước mắt ông trào ra. Lão còn hối mụ vợ nấu nồi nước lá xông. Bây giờ người ta thấy ông giáo sư danh tiếng, ngồi trên chõng tre trùm mền rách run lập cập. Mấy ngày sau ông cũng qua khỏi, và mấy tháng sau làn da hồng hào miền ôn đới cũng từ giả ông nốt. Anh chàng hớt tóc dạo cắt đi mái tóc bềnh bồng bác học. Lúc đó có ai thấy ông, đầu đội nón cời, mặc cái áo bà ba mốc thếch ngồi chồm hỗm cạo nồi cơm cháy không thể nhận ra ông được. Cách mạng đã đổi thay hình dạng gốc rễ của ông rồi. 

Lần đầu tiên tiếp xúc với chính quyền cách mạng là một kinh nghiệm, thú vị, nhớ đời. Ông cầm lá đơn tới miếu thổ thần, phía trước có treo lá cờ nửa xanh nửa đỏ, trụ sở uỷ ban quân quản hành chính lâm thời. Cùng với ông còn có nhiều người dân chờ đợi. Nửa tiếng đồng hồ sau có một thanh niên gầy gò, thấp bé chỉ đứng đến vai ông.  

Anh thanh niên có làn da màu chì, ửng vàng, dấu hiệu rõ ràng của bệnh sốt rét ngã nước kinh niên. Anh ta mang trên vai cây súng dài lượt bượt, lọai súng tên là Gă-Răng ( Grant ) súng Mỹ, dùng từ thời chiến tranh Pháp Đức. Hình như khẩu súng này đã bị chôn nhiều năm trong đất. Cái báng súng mối ăn như củ khoai sùng, nòng súng và nhiều bộ phận khác han gỉ cả. Khẩu súng như thế chưa chắc bắn đã được.  

Thế nhưng hình như nó là món trang sức không thể thiếu được của bọn thanh niên ham súng ống. Con người này, và vũ khí kia, khiến cho ông thêm băn khoăn. Cái gì làm cho họ chiến thắng nước Mỹ giàu có hùng mạnh ? Cái vóc dáng của anh chủ tịch uỷ ban quân quản là thế song cách làm việc của anh thực nhanh chóng giản dị. Anh cầm lá đơn ông, hình như không đọc, thấy anh ta lật qua lật lại rồi ghi bên lề hai chữ ”nhất trí“, chữ rất xấu, giống như người mới biết viết. 

Ông hoang mang chưa hiểu nhất trí là sao, có người giảng, là điều gì ông ghi trong đơn đều được chính quyền cách mạng chấp thuận. Trời ơi, những công việc hệ trọng kiểu này, ở nước khác, người ta phải mở cả phiên toà, hoặc hàng bộ trưởng nội vụ mới có quyền ký tên thay đổi. Thời gian cũng phải mất ít nhất mấy năm. Từ giờ phút đó ông mang tên mới, Nguyễn Văn Sâm, với ngày sinh nơi sinh do ông tự nghĩ ra, quốc tịch mới là người Việt Nam, nghề nghiệp làm nông, chỗ ở làng Cận Sơn…Nghĩa là tất cả những gì cần thiết cho một con người chỉ được giải quyết chóng vánh trong một phút. Ông bắt đầu có cảm tình với nền hành chính cách mạng, quân quản. 


Đã là công dân, phải có nghĩa vụ. Nghĩa vụ đầu tiên của ông là đi làm thuỷ lợi mười ngày. Ông chẳng hiểu thuỷ lợi là gì. Sau mới biết là đi đào mương. Riêng đối với ông, thuỷ lợi còn đơn giản hơn nhiều. Ông chỉ việc nhận tảng đất người bên phải đưa, trao lại cho người bên trái. Việc này có khi lại vui vui. Nhờ người ta xếp ông đứng gần cuối cái gọi là một “ dây chuyền sản xuất” Tức là một dãy mười mấy con người, nên khi tảng đất đến tay ông, nó đã rơi rụng dọc đường gần hết, còn lại nhỏ như cái bánh bao, chỉ cần nắm một tay ném lên bờ mương.  

Đi làm thuỷ lợi về ông nhận được tờ giấy khen. Ông nghĩ họ thực là hào phóng. Ở các nước tư bản, làm việc cả đời như ông chẳng được tờ giấy khen nào. Về sau ông mới hiểu đây là cách tốt nhất, ít tốn tiền nhất để khuyến khích người dân, còn hòng điều động nhiều lần nữa. Cũng có một điều lạ, rất nhiều người, nhất là thanh niên, thấy ông đi nghĩa vụ lao động mười ngày lại tỏ ra thèm thuồng, ước muốn được như ông. Sau này ông mới hiểu, đi lao động dù sao cũng được cơm no ngày ba bữa, ở nhà chỉ có cơm độn, một phần gạo, chín mười phần độn, nói như mọi người củ khoai củ sắn cõng vài hạt cơm. Về sau ông mới thấy chính quyền cách mạng chơi sang hơn tư bản nhiều. Người ta động viên hàng ngàn hàng vạn con người trong nhiều tháng trời để làm một công trình hoàn toàn vô ích. Đào một con mương dài hàng cây số, lồi lõm quanh co, chỗ cạn chỗ sâu và cuối cùng con mương thuỷ lợi đó chưa một lần có nước chảy qua, mấy năm sau trở thành bình địa. Hỏi thì người ta biện bạch, không cần kết quả, cái chủ yếu là giáo dục dân chúng miền nam biết thế nào là ý thức lao động. Ôi hoá ra đây cũng là một trò chơi. 


Thời gian đó nhiều sự trớ trêu của số phận đùn đẫy ông trở về với cái nghiệp y. Ông cũng được nhiều lần ra vào “trung tâm y tế” và trong một thời gian dài được cầm con dao mổ. Có lần tôi nhìn thấy bàn tay vàng của nhà phẩu thuật tài hoa Âu châu cầm dao mổ nhưng không phải trong phòng mổ ở một bệnh viện danh tiếng nào mà ở phía sau nhà lão Cuốc.

Ông đang thiến cho con bò tơ, cột đứng giữa hai gốc cau. Chỉ một vết rạch và vài mũi khâu, trong chốc lát chú bò non, chưa nếm mùi đời đã trở thành vị hoạn quan, thái giám. Về sau nơi nào cần thiến heo, trâu bò gà chó đều kêu ông. Đừng tưởng những cuộc phẫu thuật kiểu này là không quan trọng, ai cũng làm được. Thời kì này sinh mệnh con vật có khi còn lớn hơn con người. Có nhà con cái đau ốm chỉ ra vườn hái lá làm thuốc, mà con heo nái bỏ ăn lại lên tỉnh mua thuốc trụ sinh ngoại về chữa. Họ hành động thế cũng chỉ vì con heo nái là tài sản quý giá duy nhất và nó nuôi sống cả gia đình. Vì thế mỗi khi dù cầm dao thiến heo ông cũng hồi hộp vô cùng.


Lần khác giữa mùa lụt, vợ Tám Hoà chuyển bụng đẻ. Mụ này sinh khó vì đã bốn mươi bốn tuổi rồi con sinh thêm đứa con thứ chín. Suốt thời kì mang thai mụ thiếu ăn, còn bị sốt rét rừng hành hạ. Mụ bị phù thủng nặng, bàn chân húp không còn thấy mắt cá, thiếu máu nặng màu da vàng như con tằm bủng và vạch mi mắt ra thấy trắng nhợt. Nước lụt dâng ngập con đường về huyện về tỉnh. Không có cách nào di chuyển sản phụ.  

Mụ ta chuyển bụng một ngày một đêm rồi mà đứa con không chịu sổ ra. Tám Hoà nài nĩ ông cứu. Ông liều ra tay. Mụ ta vừa đau đẻ vừa mắc cỡ, chửi chồng:" Bộ ông muốn giết tui hay răng mà kêu cái thằng cha thiến heo về đỡ đẻ !...” Trong cơn vật vã, mụ này níu cái thanh giường gần gãy, ông cầm tay mụ giữ lại, mụ cắn cánh tay ông. Ông gồng mình cho mụ đàn bà hung giữ đau đẻ cắn. Cuộc sinh nở mẹ tròn con vuông. Sau này có lần kể lại cho tôi nghe ông nói, bên Tây mấy con đầm đau đẻ hung dữ lắm, họ la thét chửi chồng, có khi còn đánh cả chồng. Nhìn vết răng mụ Tám trên cánh tay ông nhiều ngày chưa lặn tôi mới hiểu thế nào là lương tâm ngừơi thầy thuốc. 


Cuộc quay về ngành y của ông còn nhiều chuyện cười ra nước mắt. Xã cất cái chòi làm trạm y tế, ông được triệu đến không phải để làm việc gì liên quan ngành y tế mà để dọn dẹp vệ sinh, phát cỏ, hốt rác. Trạm này giao cho một anh binh nhì trước ở ngành quân y quân đội cọng hoà cũ. Đoàn tiêm phòng về ông cũng được kêu tới nấu nước luộc kim tiêm, còn nước sôi làm thịt gà, đãi đoàn. Ông còn phải đứng hầu bia rượu cho mấy thằng y tá nhóc con trên tỉnh về. 

Sau này người ta nói ông là tiên bị đoạ. Có điều dù làm việc gì ông cũng hết lòng, cần mẫn, không oán than bất mãn với bất cứ người nào, công việc gì. Tôi còn nhớ vào giai đoạn ấy thường có cái kiểu, trước khi động viên dân chúng vào công việc gì, luôn luôn phải họp dân năm lần bảy lượt, dân chúng đi làm rẫy về mệt mỏi, tối lại chỉ muốn đi ngủ sớm, chiều nào cũng có tiếng loa đầu xóm cuối xóm : “Ngay từ bây giờ đồng bào tập trung tại trụ sở để quán triệt mục đích yêu cầu…ai không đi họp mất quyền lợi…” Không ai biết quyền lợi là quyền lợi gì. Họ chỉ sợ không đi họp sẽ không yên thân. Mục đích yêu cầu cần quán triệt có khi là những chuyện rất vớ vẫn như đào hố xí hai ngăn hay trồng bèo hoa dâu, được thổi phồng như hai phát kiến vĩ đại của những nhà khoa học tài ba của nước ta cho nhân loại…

Ông ăn ở gần như được lòng mọi người. Mấy thằng cha sồn sồn cán bộ hợp tác xã có lần xúc lúa trộm đem bán lấy tiền kéo nhau về thành phố ăn chơi. Bọn họ rủ ông đi gọi là “nếm mùi đời” cho biết. Ông từ chối, nói mình quê mùa không biết ăn chơi kiểu đó. Mấy chị, thấy ông sống cô độc ai cũng dành làm mối kiếm vợ cho ông, ông nói không dám đèo bòng, một mình nuôi không nổi thân. 

Có lần tôi xúi ông về tỉnh khai hết sự thật về mình và liên lạc với toà Đại sứ Pháp để được phục hồi. Ông nói, họ không tin đâu, giấy tờ đốt cả rồi. Với lại cần thêm một thời gian nữa cho lòng người tỉnh lại, mọi giá trị sẽ được khôi phục. Bây giờ thì chưa. Nghe thế tôi không dám xúi nữa. Tôi thấy cả đời ông chưa một lần dối trá. Đây là lần dối trá đầu tiên về thân phận của mình và ông phải trả giá. Cái giá thực là tàn nhẫn. Ông nói cần chờ một thời gian nữa. Nhưng số phận lại có cách giải quyết của nó. Vở bi hài kịch đã tới hồi kết thúc. 


Cuối hạ, buổi chiều thường bắt đầu bằng những cơn mưa giông. Đây cũng là thời kì dậy lên bệnh sốt rét. Cỏ cây bờ bụi lớn cao lên vùn vụt. Mỗi khi phát rựa vào muỗi túa ra cắn rát mặt. Một cơn sốt rét ác tính quật ngã ông chỉ vài giờ. Tôi dìu ông tới trạm y tế xã, không một viên thuốc. Họ bảo tôi đưa ông về bệnh viện tỉnh. Tôi dẫn ông đi được một đoạn thì ông đã hôn mê. Không có cách gì đưa ông về tỉnh. Ông không ngồi lên xe đạp cho tôi đạp chở ông ra tới đường cái nhờ xe đò đưa về phố. Giờ đó bọn trai tráng còn đang ở trong rẫy cả. Cuối cùng tôi phải cõng ông ra đường cái, con đường dài hơn hai cây số.

 

Suốt đời tôi không thể nào quên được buổi chiều thê thảm đó. Gió giông gào thét không ngừng trong khu rừng mọc toàn cây chà rang cao chưa quá đầu người. Cả khu rừng bị đè bẹp run rẩy dưới cơn thịnh nộ của đất trời. Mưa lất phất lẫn trong gió. Tôi cõng ông như cõng khối lửa trên lưng. Ông sốt rất cao, gió mưa thế vẫn không làm giảm nhiệt độ cơ thể. Tôi nhớ lần đầu tiên gặp ông, lúc ấy ông như một người ngoại quốc, to cao hồng hào khoẻ mạnh.

 

Nay chỉ sau mấy năm bị lưu đày khắc nghiệt ông gầy gò, quắt queo, đen điu, một ông già nhà quê với hàm râu lưa thưa. Bây giờ ông nhẹ hõng, cõng ông tôi không thấy nặng nề mệt nhọc gì cả. Lên tới đỉnh đồi, nhìn thấy chân trời mây đen đùn lên ngồn ngộn. Từ trên tầng mây thấp, rất thấp, cảm như có thể đưa tay lên chạm tới mây được, một tia chớp với cái bộ rễ cây ánh sáng, đánh ầm thẳng xuống khu rừng, rất gần chỗ tôi. Có mùi khét giống như mùi điện chập, bên cạnh tôi ngọn lửa lập loè cháy lên trong mưa.

 

Chưa bao giờ tôi chứng kiến hiện tượng tự nhiên nào kinh khủng đến thế. Tôi vẫn chạy lúp xúp, cố sao cho kip, chuyến xe về tỉnh cuối cùng. Một lúc sau ông tỉnh lại, bảo tôi đặt xuống, cho ông đi, ông kêu khát nước. Tôi dừng lại, mới nghiêng người xuống thì ông lại quị ngã, không đứng lên được nữa. Ông lại rơi vào cơn hôn mê. Ra đến đường cái, may sao có chiếc xe lam dừng lại cho chúng tôi lên xe. Đây không phải chiếc xe chở khách mà là xe chuyên chở súc vật. Sàn xe đầy phân heo. Tôi ngồi xổm bế ông như một đứa bé. Gã tài xế say rượu, hắn điều khiển chiếc xe chạy điên đảo như người say. Khổ quá, tôi thầm mong cho xe rơi xuống vực cho cả ba chết quách đi cho rồi.

 

Tới nơi tôi chạy thẳng vào khoa cấp cứu. Họ chận tôi lại, nói là để làm thủ tục nhập viện, nhưng kỳ thực hỏi han đủ thứ làm như công an hỏi cung tội phạm, và cuối cùng đòi tiền. Tôi nói láo cấp bách quá quên mang theo tiền. Cứu giùm đi rồi tiền nong tính sau. Cả một giờ sau ông mới được truyền dịch. Mấy cô y tá trẻ cùng với mấy cậu y sĩ hay bác sĩ gì đó vừa làm việc vừa cười đùa bỡn cợt nhau. Họ chăm sóc bệnh nhân còn thua cả ông chăm sóc con vật. Tôi đứng một bên, cầm cánh tay ông, mạch ông mong manh như tơ nhện. Cái lối mạch mà mấy ông lang sợ nhất gọi là mạch chim sẻ mổ thóc. Mạch nhảy vài cái rồi ngưng, đập vài cái rồi ngưng. Giống như tiếng gõ cửa của tử thần.

 

Mấy người thầy thuốc kéo nhau đi chơi, tôi nghe họ hẹn nhau ra biển. Tôi ngồi cạnh ông. Tôi đưa tay sờ trán, thấy ông không còn sốt cao nữa. Trán ông đầy một thứ mồ hôi lạnh, nhớp nháp và trơn như mỡ. Tôi mừng quá tưởng ông qua khỏi. Sau này tôi mới nghe người ta nói đó là”Xuất hạn”. Nghĩa là chỉ còn chốc lát nữa thôi. Tôi thấy mấy ngón chân ông cứng đờ như được đẽo ra từ gỗ mít lò ra khỏi tấm ra trắng, sờ thử, thấy lạnh ngắt. Bình sérum không chịu nhỏ giọt nữa. Tôi mở khoá lớn hơn nhưng nó vẫn không chịu nhỏ giọt. Hoá ra máu trong người ông đã đông cả lại rồi. Ông chợt mở mắt nhìn tôi, cặp mắt lờ đờ, tròng con mắt như được tráng qua một lớp nước vôi, song cái nhìn vẫn còn đằm thắm dịu dàng. Rồi bỗng nhiên hai mí mắt cứng đờ, không khép lại, nhanh chóng hoá đá, đôi mắt người chết.

Lúc này tôi mới có dịp nhìn kỷ khuôn mặt ông. Ông chết yên như ngủ. Trước đây tôi có nghe chuyện về khuôn mặt người chết. Tôi không tin vào những chuyền huyền hoặc, bây giờ thì tôi tin. Sau khi ông ngừng thở, có một quãng thời gian ngắn, hiện ra một khuôn mặt đẹp, vẻ đẹp thánh thiện của cả cuộc đời sống lương thiện sáng ngời hào quang nhân ái, vẻ đẹp tuyệt vời… Nhưng chỉ vài phút sau vẻ đẹp ấy phai mờ dần, tắt hẳn, còn lại lạnh lẽo khuôn mặt người chết . 

Giường bên, thêm một người nữa ra đi. Đó là một người Thượng. Không biết khi sống trông hắn thế nào, lúc này trông thấy hắn gầy gò, đen thui, rướn người cong lên như thân cây cháy nám trong mùa đốt rẫy. Vợ hắn ngồi cạnh chốc chốc vén cái váy lên chùi mắt, tay quạt muỗi cho chồng. Chị ta tưởng mẫy con muỗi đói bệnh viện vẫn còn bu vào đốt cái thân thể lạnh giá. Bọn muỗi có con lầm tưởng bay đến sà xuống đốt cái thân xác lạnh giá, vụt bay lên. Đôi mắt người phụ nữ Thượng ánh lên một niềm yêu thương hoang dã giống như cặp mắt con thú trong bẫy. Nửa đêm trong căn phòng nhỏ, hai người chết và hai người sống nhưng tâm hồn cũng đã chết. Có tiếng thét lơ lớ rợn người:

- Thôi bỏ con ma đó chạy đi!

Chị này đứng lên dáo dát, cầm cái gùi toan chạy. Tôi chưa kịp hỏi bỗng lại có tiếng chân người và tiếng thét hách dịch:

- Con mọi kia chạy đi đâu ? Tiền giường tiền thuốc chưa thanh toán.


Tôi biết chị ta phải khó khăn khổ nhọc lắm mới mang được người chồng bệnh hoạn từ trong rừng thẳm về tới chốn phồn hoa đô hội này với niềm tin, khỏi bệnh, cùng chồng đi bộ về buôn, qua khu rừng hướng dương vàng rực bạt ngàn. Nhưng nay thì hết rồi, phải bỏ anh ta lại trốn về thôi, nhưng cũng không xong. Còn tôi khổ sở chẳng thua người kia. Sáng sớm hôm sau tôi trốn ra khỏi bệnh viện. Tôi không có lấy một xu trong túi làm sao đưa ông về? Chỉ còn cách đi xin kêu gọi tình thương đồng loại. Nhưng hình như vào thời kì khốn khó chung cho cả nước, con người để cho thú tính lấn áp, tình người hiếm hoi làm sao. 

Ở vào cái thời mà sự dối trá tràn lan, một mình tôi nói thật, ai tin. Có một con mụ vàng đeo đầy tay đang ngồi trong quán chỉ mặt tôi nói:" Bà con đừng có tin mấy cái thằng xạo lưu manh này. Xin tiền chở bà con chết ở bệnh viện về quê. Ngày nào tôi cũng thấy cái mặt hắn lảng vảng ở bến xe với mấy cái quán nhậu…” Cuối cùng tôi phải đi bán bộ quần áo mặc trong người để thuê xe chở ông về. Còn tiền viện phí tôi phải làm tờ cam đoan kí tên điểm chỉ, khai rõ ngọn nguồn quê quán địa chỉ, mới được đem xác ông về.

Người ta đóng cho ông cái quan tài bằng gỗ thùng đạn, chôn ở chân đồi, lấy cái lon sữa bò rỗng làm bát nhang. 


Năm sau, vào một buổi trưa có đoàn xe du lịch sang trọng tiến vào xã. Dân chúng chạy theo coi. Trong xe có cả người nước ngoài. Bọn trẻ con chạy theo xe hô to :“Liên Xô ! Liên Xô !”

Xã tiếp đón rất niềm nở, họ hy vọng sẽ được ngọai quốc cho tiền, hay liên doanh với địa phương. Khi hiểu ra chuyện đó là gia đình của Hai Sâm, họ giao đoàn cho tôi hướng dẫn.

Buổi trưa nắng chang chang cả đoàn kéo lên đồi. Có một điều rất lạ, không thể giải thích nổi. Hai đứa con ông, một trai một gái cỡ chín mười tuổi, chúng rất xinh đẹp và giống ông như tạc, và như có điều gì mách bảo, chúng thân thiện với tôi, một người hoàn toàn xa lạ, ngay lúc đầu gặp gỡ. Hai đứa nắm chặc tay tôi. Ngang quán chị Liễu tôi ghé mua đôi nến trắng, bó nhang, tấm vải trắng lớn xé làm nhiều mảnh khăn tang quấn cho vợ con ông, một vài người trong đoàn và cả tôi. Tôi để giành một chiếc khăn tang dài và lớn , chẳng ai biết để làm gì.


Tôi đứng trong bóng mát cây Lim mà giờ đây sau mười mấy năm thoát khỏi ngục tù chật chội đã trở thành tráng sĩ cổ thụ đại ngàn hùng vĩ. Tôi nhìn vợ con ông sang trọng, xinh đẹp, dễ thuơng quì mọp sát đất theo đúng lễ nghi đông phương bên nấm mộ thấp lè tè tồi tàn mà cỏ xanh đã úa màu. Tôi không khỏi chạnh lòng rơi nước mắt. Cúng xong. Tất cả mọi người kéo nhau đến đứng trong bóng mát cây Lim. Tôi cẩn thận quấn mảnh khăn sô cho cây, Mọi người lấy làm ngạc nhiên. Tôi khấn :“Ông ơi, không ai biết chuyện đời ông, xin phép ông cho tôi được làm nhân chứng lịch sử, kể lại câu chuyện đau thương không riêng cho ông, cho tôi mà cho tất cả những kiếp người bị đày đoạ trên mảnh đất này trong thời kỳ tối tăm nhất của lịch sử đau thương”./.

Chuyện Tình ...Hải Tặc - Nguyễn Cát Thịnh

       

        Hình minh họa

Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau,  2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.”  Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. 


******

- Giới thiệu với chú, đây là bạn gái của cháu. Cô đã cùng với thám tử tư giúp tìm ra người cha hải tặc của cháu như trong bài viết “Đứa Con Lai... Hải Tặc” của chú.

Còn đây là ông chú mà anh vẫn thường nói với em.

- Chào chú! Chú ngạc nhiên lắm phải không? Con đã được nghe rất nhiều về chú. Con muốn gặp chú từ lâu nên đã nhờ bạn thu xếp giúp. Con từ Thái Lan qua, đang theo học tại Michigan State University. Con chọn trường này vì biết bạn cũng ở thành phố Detroit, Michigan.

- Chú không ngờ hai đứa lại hội ngộ ở Mỹ. Vui quá! Nhất là cả hai đều nói tiếng Việt rất giỏi.

- Chú quá khen đấy thôi. Cháu sinh ở Mỹ, chỉ nói đựợc tiếng Việt, giọng Bắc, nhưng đọc và viết thì chịu thua. Bạn gái cháu sinh ở Thái, nói giọng Nam ngọt như mía lùi. Viết thì hết sảy, vì được học với mẹ và học gần hai năm ở Khoa Việt Nam học – Đại học Sư Phạm Hà Nội.

- Chú bái phục cả hai cô cậu. Thôi bây giờ chúng ta tìm tiệm cà phê Starbucks gần đây. Tha hồ chúng ta nói chuyện cũ chuyện mới.

Cuộc trò chuyện thân tình, cởi mở cùng hai người trẻ với tư duy mới để lại thật nhiều ấn tượng. Họ khiến tôi phải xét lại một vài quan niệm lỗi thời.

Phong thái tự tin qua cách nói chuyện của họ cuốn hút đến nỗi tôi quên cả không gian lẫn thời gian. Quên mất cả tuổi già (một chút luyến tiếc tuổi trẻ đã qua). May còn nhớ đường về!

Sau buổi chiều thú vị này, tôi vội ghi lại hai “Chuyện Tình...Hải Tặc” độc đáo:

- Chuyện tình cũ, tiền hung hậu kiết, của một hải tặc hoàn lương với một nạn nhân hụt của hải tặc.

- Chuyện tình mới, trong sáng, của cô gái kết tinh từ duyên kỳ ngộ của đôi uyên ương trên và “Đứa Con Lai... Hải Tặc”.

 

Lời cô gái:

Chú đã bao giờ đến Sóc Trăng chưa? Đó là quê ngoại của con.

Trước 75 ông bà ngoại con có tiệm vàng ở trên đường Hai Bà Trưng. Ông ngoại đã mất ít lâu sau ngày đổi đời. Bà ngoại vẫn sống với các dì dượng từ đó đến nay. Má là con út trong gia đình có năm anh chị em.

Nghe má kể, gần ba mươi năm trước, Dượng Hai hùn với mấy người bạn mua ghe tổ chức vượt biên. Khi đó má đang là giáo viên, buồn chuyện tình ngang trái với một đồng nghiệp, muốn bỏ xứ đi xa nên xin một chỗ trên tàu.

Bà ngoại can ngăn nhưng má nhất quyết, bà đành để má ra đi mà trong lòng thấp thỏm. Cho đến bây giờ, mỗi khi nghe thuật lại chuyến đi kinh hoàng ngoại vẫn còn run rẩy, vẫn chảy nước mắt.

Khách trên ghe đa số là bà con quen biết. Khởi hành từ Vĩnh Châu. Qua được hải phận quốc tế thì máy chính trục trặc không sửa được, phải chạy bằng máy phụ.

Đám đàn bà con gái xôn xao bàn tán, lo ngại vì tàu chỉ chạy quanh quẩn trong vịnh Thái Lan, e có nguy cơ gặp hải tặc. Nhiều người bàn chuyện quay lại. Thà trở về ở tù còn hơn phải đương đầu với nguy hiểm rình rập.

Trong lúc còn đang phân vân chưa quyết định có nên đi tiếp hay không thì điều lo sợ đã xảy ra, không kịp trở tay.

Hai chiếc tàu hải tặc chạy vòng quanh tàu, quan sát vài phút rồi hùng hổ tiến đến kẹp sát hai bên hông, đâm thủng một lỗ lớn. Chúng hươ hươ vũ khí. Dao dài, dao ngắn, súng, búa, rìu, đe dọa, đàn áp tinh thần mọi người.

Khi nước biển bắt đầu tràn vào phòng máy thì sự hoảng hốt lên đến cực độ.

Phần sợ ghe chìm chết đuối, phần lo hải tặc chém giết, hãm hiếp. Không ai dám lên tiếng. Đa số chấp nhận đầu hàng để mong được bảo toàn tính mệnh.

Có người vật vã than khóc, có người lâm râm cầu trời khấn Phật, có người ngơ ngác như mất trí.

Rất nhanh chóng, những tên hải tặc vạm vỡ, đứa mình trần, đứa quấn khăn rằn, nhảy lên tàu uy hiếp các thanh niên, trói lại, dồn vào một góc hoặc ném xuống hầm.

Họ bắt đầu lục soát từng người, từng vật dụng, từng chỗ nghi ngờ nơi dấu vàng bạc châu báu.

Dì Hai, vợ của Dượng, dấu đầy vàng lá khâu kỹ trong áo lót, bị chúng lột trần truồng, đạp xuống biển. Má con sợ quá, lôi trong cạp quần tất cả số vàng mang theo đưa cho chúng trước khi bị khám xét.

Sau khi biết chắc chắn đã vơ vét cạn kiệt những gì muốn tìm, chúng bắt đầu chiếu cố đến chiến lợi phẩm kế tiếp: phụ nữ!

Mặc sự giãy giụa phản kháng, các cô gái trẻ đều bị chúng kiểm soát hàng họ. Xong, tuyển chọn một số vừa mắt chuyển xuống ghe của chúng.

Má cũng không thoát khỏi.

Những người còn lại trên ghe cởi trói cho nhau, gấp rút tát nước, lấp lỗ thủng, tìm sự sống trong cõi chết.

Nhiều ngày sau tàu may mắn trôi dạt vào Côn Sơn và tất cả đều bị bắt.

Hai tàu của hải tặc chạy mất hút. Các trò khả ố đã diễn ra. Các cô gái mềm nhũn nhắm mắt chịu nhục để những con thú thỏa thuê trên các thân xác bất động.

Một tên xáp lại gần má, mắt hau háu. Má co cụm, cúi mặt, hai bàn tay nắm chặt, ngồi ôm đầu gối. Hắn giơ chân đạp, đẩy má ngã ngửa. Phản ứng tự vệ khiến má giơ tay chống đỡ. Chiếc tượng Phật bằng vàng, vật hộ mệnh ngoại trao, rớt xuống sàn. Hắn sáng mắt, cúi xuống định lượm thì nhanh như chớp, một cánh tay khỏe mạnh từ đằng sau chận lại. Người hùng đó chính là ba tương lai của con.

Sau này nhắc lại, ba nói rằng khi chiếc tượng Phật rơi ra khỏi lòng bàn tay của má, một tia sáng với hào quang vụt loé làm ba choá mắt. Cho rằng bị phép lạ của Phật bà cảnh tỉnh, ba bỗng thấy hổ thẹn trước người con gái yếu đuối, có gương mặt thơ ngây, thánh thiện. Tuởng như hiện thân của cô bé láng giềng mất tích từ thuở nhỏ mà hình ảnh chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí. Ba nâng má dậy, bồng vào vào cabin, săn sóc tựa người thân.

Hình như có tiếng nói của một người vô hình ra lệnh cho ba phải bảo vệ má. Dù bị đồng bọn nói xiên xỏ nhưng ba phớt lờ. Họ nể ba vì ba là thợ máy, có chút chữ nghĩa, nên để má yên.

Qua gần một tuần bị hành hạ, cuối cùng các nạn nhân khốn khổ và má được họ thả vào bãi đất hoang của làng chài Budi thuộc vùng bờ biển phía Nam, ráp ranh giới Mã Lai.

Ba trốn tàu, lên bờ, bí mật theo dõi má từng đường đi nước bước.

Cảnh sát tạm giữ tất cả, đồng thời báo cáo lên cấp trên chờ lệnh.

Cơ quan thiện nguyện được yêu cầu đem xe bus đến đón, bảo lãnh, đưa về Songkhla làm thủ tục nhập trại dù khi đó có tin đồn trại sắp bị đóng cửa vĩnh viễn.

Má được xếp ở chung chòi lá với những cô gái đơn thân.

Sống ở ngoài không lâu, ba xin được công việc bảo trì điện nước ngay trong trại tỵ nạn một cách dễ dàng vì nói được chút ít tiếng Việt căn bản.

Hàng ngày nhìn thấy má nhưng mỗi lần ba lại gần liền bị má giận dữ xua đuổi.

Một hôm đi xách nước, má trượt chân té xuống ao kêu cứu, ba ở xa trông thấy vội phóng đến, nhảy xuống kéo lên, trong khi mọi người khác chỉ đứng nhìn.

Ba làm sơ cứu, xong bồng má phi thân đến bệnh viện cách khá xa.

Khi hơi hồi tỉnh, mở mắt thấy ba đứng khép nép cuối giường với vẻ mặt ủ rũ, má chợt hiểu, chút áy náy trong lòng.

Từ đó tuy má không còn nhìn ba với con mắt thiếu thiện cảm nhưng vẫn lẩn tránh tiếp xúc. Ba chỉ còn cách âm thầm dõi theo cuộc sống của má.

Thực phẩm trong trại phân phát hầu như không thay đổi, ăn mãi một thứ cũng ngán, ba muốn tiếp tế đồ ăn mua bên ngoài nhưng má luôn luôn từ chối.

Ba nhờ người quen gởi cho má quần áo và những vật dụng hàng ngày của phụ nữ, nói dối là tặng phẩm của hội đoàn từ thiện. Má tưởng thiệt nên nhận nhưng khi biết là của ba thì má trả lại hoặc mang cho người khác.

Ba không nản chí, tìm đủ mọi cách giúp má bớt khó khăn trong điều kiện sinh hoạt rất giới hạn trong trại.

Sau 14 Tháng Ba, 1989,  Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) quyết định đóng cửa các trại tị nạn, mọi thuyền nhân phải qua thanh lọc để hoặc được tiếp tục đi định cư nước thứ ba, hoặc phải hồi hương, trở lại nơi đã ra đi.

Không may, má nằm trong diện đó.

Buồn hơn nữa, má rớt thanh lọc.

Má và những người cùng số phận được chuyển sang trại Sikiew, nơi giống như nhà tù, có canh gác nghiêm ngặt.

Nếu không được đề nghị tái xét thì chỉ còn đường xin tự nguyện hồi hương hoặc chờ bị cưỡng bách hồi hương.

Ba kiên nhẫn theo má đến tận chỗ mới. Lần này ba chỉ sống quanh quẩn bên ngoài trại.

Thỉnh thoảng mua chuộc lính canh, lọt vào bên trong, liên lạc với má.

Sự lạnh lùng thường nhật của má vẫn không làm nản lòng người tình si. Chỉ đến khi một chuyện bất ngờ xảy ra khiến quan hệ giữa hai người bước sang ngã rẽ mới.

Trong một đêm, đám lính nhậu nhẹt say sưa gây náo loạn, bắt cóc má và hai cô gái khác, lôi ra ngoài trại.

Tiếng la hét của các cô gái cầu cứu báo động vài thanh niên cảm tử đuổi theo, bất chấp lệnh giới nghiêm sau 10 giờ đêm. Lính canh nổ súng buộc các thanh niên phải trở vào.

Biết có biến vì nghe tiếng súng nổ, ba vội vàng tìm đến. Kịp nhận ra một trong ba cô gái bị lôi kéo là má. Lấy hết sức bình sinh, ba liều mạng xông pha, vùng lên như cọp dữ, đá bay tên này, đấm gục tên kia, các tên còn lại sợ quá, trốn chạy.

Má chưa hết hoàn hồn, chân tay bủn rủn không đi đứng nổi. Một lần nữa ba lại có dịp bồng má, đưa vào chỗ nghỉ.

Phải mất một ngày má mới tạm hồi phục.

Ánh mắt của má nhìn ba bây giờ đã có chiều trìu mến. Má không còn từ chối sự săn sóc của ba nữa.

Má e thẹn nhớ đến những lần “bị ba bồng”, cảm giác lâng lâng dễ chịu. Tình cảm đã bắt đầu nhen nhúm.

Viễn ảnh cưỡng bách hồi hương trước mắt. Tình trạng mất an ninh trong trại. Tình yêu vừa chợt đến. Tất cả các nguyên do đó đã khiến má không có sự chọn lựa nào khác khi ba ngỏ lời đưa má ra khỏi trại, bằng cách hối lộ các quan chức có thẩm quyền.

“Ba đưa nàng về dinh” ở thành phố Bangkok.

Khi tình yêu đã chín mùi, họ đồng lòng làm lễ cưới theo Phật giáo, ước mong có sự kết hợp thiêng liêng.

Các Tỳ kheo được cung thỉnh đến tụng kinh cầu an trong căn nhà của đôi tân hôn. Theo phong tục, sáng hôm sau ba má đem thức ăn cúng dường cho chư Tăng trước khi họ tiến hành hôn lễ. Chư Tăng tiếp đó đọc kinh cầu phúc và rải nước thánh chính thức công nhận cuộc hôn nhân.

Ba má mở tiệm ăn đặt tên “Thai-VVietchọn nghề chân chính, làm ăn lương thiện. Khách ủng hộ mỗi ngày mỗi đông. Không giàu có nhưng sống sung túc. Gia đình ổn định theo giáo lý nhà Phật.

Hai người anh trai song sinh và con đã lần lượt ra đời và trưởng thành từ căn nhà bình yên, lúc nào cũng vang vang tiếng cười hạnh phúc.

Ba tin ở thần Ganesha, vị thần đầu voi tượng trưng cho sự hợp nhất giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ, được xem là vị phúc thần đáp ứng những điều may mắn, cát tường mà ba thường cầu nguyện.

Chú ạ! Con không có ý thuyết pháp đâu nhưng chú cho phép con nói một chút về quốc giáo của Thái Lan nhé.

Phật giáo có một vị trí vô cùng quan trọng, đã đóng góp tích cực vào đời sống của người dân Thái, không những về mặt vật chất, kinh tế mà còn đi sâu vào đời sống tinh thần của họ.

Xứ sở được biết đến như quê hương của nụ cười, đất nước của những chiếc áo cà sa. Nó nói lên một cách sâu sắc về một đạo giáo lớn mà dân tộc Thái tôn thờ.

Trong mỗi con người, ngoại trừ hải tặc và kẻ gian ác, đều có niềm tin và tín ngưỡng, đều tin tưởng và cầu nguyện cho mọi điều tốt đẹp đến với tha nhân, đến với bản thân cùng gia đình. Có tin tất có linh!

Ấy thế, từ các dân đánh cá hiền lành, một số ngư dân Thái đã bị vật chất và dục vọng cám dỗ, trở thành những tên hải tặc điên cuồng gây ra thảm kịch kinh hoàng trên biển đông suốt hai thập niên. Cả thế giới lên án. Tên và hình ảnh đất nước Thái Lan bị hoen ố. Người Việt căm hờn, thù ghét.

Con rất xấu hổ về những tội ác dã man, ghê tởm của họ. Sự thiếu hiểu biết giáo lý nhân quả nghiệp báo đã làm cho họ xa cách khuôn khổ của chánh pháp.

Con tin, đời này và đời sau họ sẽ phải trả giá, ác giả ác báo.

Với một đất nước có gần 95% người dân theo đạo Phật Nam Truyền, 4.6% đạo Hồi, 0.7% Thiên Chúa giáo, con tin các hải tặc hoặc vô thần hoặc là tín đồ hoang đạo của một trong các đạo giáo đó. Họ cũng có thể thuộc về tà giáo, tín đồ của quỷ Sa Tăng.

Con rất mừng và hãnh diện vì ba đã sớm tỉnh ngộ, đã trở lại với bản chất hiền hòa, từ ái, khiêm cung và nhã nhặn của một người dân Thái tiêu biểu. Đã thể hiện một phần nào cốt lõi Phật pháp qua cách thực hành đạo lý.

Hồi cuối năm ngoái, con đã đến Ogden thuộc tiểu bang Utah dự lễ khai trương của chùa Chaimongkolvararam.

Quỳ lạy trước Phật A Di Đà, con xin Ngài chứng giám cho ba, người mà một thời là hải tặc, đã nguyện sống một đời ăn năn sám hối. Con xin Ngài ban sức mạnh để ba giữ mãi sự quân bình trong tâm khảm. Con cầu chư Phật độ trì cho ba má giữ hương lửa tình yêu nồng ấm đến trọn đời.

Con cầu Ngài soi ánh đạo vàng, giải thoát những hải tặc già cũng như trẻ, ra khỏi vòng u mê, tìm thấy chánh đạo.

Con cũng không quên cầu nguyện cho những nạn nhân của hải tặc, đồng bào Việt Nam ruột thịt của má con. Cầu cho người chết được siêu thoát. Cầu cho những người sống sót tìm lại được bình an.

 

Lời chàng trai:

Như chú biết, cháu đã trải qua một thời gian dài ở Thái Lan, quyết tìm gã hải tặc gieo rắc hậu chứng bi thương cho gia đình cháu.

Những ngày tháng vô vọng, cháu len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm của các thành phố Thái, chỉ cầu may gặp sự mầu nhiệm.

Có hôm anh tài xế xe Tuk-Tuk đưa cháu vào tiệm ăn Thai-Viet ở Bangkok. Ở đấy cháu gặp và quen cô sinh viên con ông bà chủ (chồng Thái vợ Việt).

Với nụ cười tươi, tiếp đãi lịch sự ân cần, nói năng ngọt ngào, cô đã chinh phục đựợc người khách phương xa, gây cảm tưởng tốt đẹp.

Cô có dáng dấp rất Việt Nam, tiếng Việt chuẩn mực, cách nói thu hút người nghe. Chả thế mà cháu đã trở thành thực khách trung thành suốt thời gian ở Thái.

Trong khi chờ thám tử cung cấp tin tức về người cha hải tặc, mỗi tuần ít nhất ba ngày cháu phải đến tiệm, vừa để ăn uống vừa để có dịp gặp gỡ cô gái.

Chúng cháu có thể ngồi bàn luận hàng giờ không chán, đủ mọi lãnh vực, rất tương đồng tương đắc.

Hôm nào không đến, thấy nhớ kỳ lạ.

Cháu để ý thấy cô tiếp cháu có vẻ vồn vã đặc biệt hơn các thực khách khác.

Cháu tự hỏi có phải đó là khởi đầu của tình yêu? Chú có tin tiếng sét ái tình không? Thú thật, ngay lần gặp đầu tiên cháu đã liêu xiêu, có phải cháu “bị” rồi không chú?

Khi đề cập đến đời tư, chúng cháu nhận ra gia cảnh của cả hai khá giống nhau.

Ba của cô và cha của cháu đều có gốc hải tặc Thái Lan. Hai bà mẹ đều xuất thân từ những gia đình Việt Nam nền nếp.

Cô là sản phẩm của tình yêu chân chính, cháu là sản phẩm của hành vi hiếp dâm dã man.

Cha hải tặc của cô đã trở thành một Phật tử thuần thành, sống đời đạo hạnh. Cha hải tặc của cháu không tông tích.

Tình thương cao thượng của người cha nuôi vô sinh hữu dưỡng và sự hy sinh cao cả của người mẹ chưa được đền đáp thì đã qua đời làm cháu mãi ân hận.

Cháu mang điều đó tâm sự.

Cô cho biết ở Thái mọi người con trai trưởng thành đều thọ giới, phải qua một khoá tu ngắn hạn gọi là Buatphra, có nghĩa là tu để trả ơn cho cha mẹ, đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục.

Ngay khi khoác lên người chiếc y vàng, người con đã phần nào tạo được phúc báo hồi hướng, tích phúc cho cha mẹ, còn sống hay đã mất.

Với người đã khuất núi, đi tu còn mang ý nghĩa báo hiếu để người chết được siêu độ, ra đi thanh thản.

Không bao giờ trễ nếu người con muốn mang lại vinh hạnh cho cha mẹ, cho dù ở bên kia thế giới, bằng đường tu tập gieo duyên với tam bảo.

Chú ơi! Chưa bao giờ cháu tiếp nhận một lời khuyên chân thành hơn. Cháu sẽ chọn thời gian thuận tiện vào dịp lễ Khao Phansa là mùa an cư của Phật tử, ghi danh một khoá tu ở chùa Đại Già Lam Wat Nawamintararachutis tại Raynham, Massachusetts, để vừa ổn định tinh thần, vừa tu tâm dưỡng tính.

Ngày qua ngày, hai đứa trở nên gần gủi hơn. Cô khóc cho phận đời oan nghiệt của cháu.

Chúng cháu định ôm nhau an ủi, theo thói quen, nhưng mặc cảm thất lễ của đứa con hải tặc ngăn lại.

Cháu tự nhắc nhở phải tôn trọng phái nữ, bất kể là ai. Không cho phép gien hải tặc có cơ hội trổi dậy.

Cô thật lòng chia sẻ về nỗi uất hận mang nửa giòng máu hải tặc của cháu.

Cháu nói rõ mục đích đến Thái Lan chỉ để đưa người cha hải tặc ấy đối đầu công lý, cô tình nguyện trợ giúp.

Hơn sáu tháng sống ở Thái Lan đủ để chúng cháu hiểu nhau. Chưa ai mạnh miệng nói tiếng lòng nhưng cả hai cảm nhận được mối quan hệ thân thiết đã vượt qua giới hạn bạn bè.

Mỗi khi có thời gian rảnh rỗi cô hân hoan rủ cháu đi thăm viếng các danh lam thắng cảnh hoặc giới thiệu các ngôi chùa nổi tiếng như chùa Wat Arun nằm trên bờ phía tây của sông Chao Phraya, Thonburi, với lối kiến trúc đậm nét Thái và nhiều chùa khác nữa, Wat Phra Kaeo, Wat Pho, Wat Benchamabophit Dusitvanaram, Wat Mahathat, Wat Saket, Wat Traimit...

Có lần cô đưa cháu đến trung tâm thương mại Central World, vào ngôi đền Trimurti. Chúng cháu cùng nhau chắp tay quỳ trước tượng thần. Ra về, hỏi cô đã cầu nguyện gì? Cô chỉ mỉm cười, má ửng hồng, thẹn thùng không nói.

Sau này cháu được biết đền thờ ấy là ngôi đền cầu tình duyên linh thiêng bậc nhất Bangkok.

Một ngày chủ nhật đẹp trời chúng cháu dắt nhau về miền quê có phong cảnh hữu tình. Cháu đã ngỏ lời yêu và thật sung sướng, cô đã chấp nhận.

Cuối cùng, thám tử đã tìm thấy người cha sinh học của cháu. Đó là một nhà sư già khắc khổ, trụ trì ngôi chùa nhỏ trong một làng chài hẻo lánh.

Thoạt tiên dân làng không biết nhà sư này từ đâu tới nhưng khi ông trút bỏ tất cả khối tài sản khổng lồ mang theo, phân phát cho mọi người trong và ngoài làng thì họ đã hiểu.

Rất ít người nhận quà tặng nên ông đã dùng vào những việc công ích như xây cất cầu đường, trường học, trạm y tế, nhà máy điện nước.v.v... Cuộc sống của dân làng nhờ thế đã được cải tiến.

Họ để yên cho ông tu hành cùng vị sư thầy cho đến lúc thầy viên tịch, ông lên thay, trụ trì ngôi chùa.

Thật ra ông chưa phải là một nhà sư chính thống vì chưa được thọ giới theo luật đạo. Gọi ông là cư sĩ thì đúng hơn.

Chúng cháu nhờ luật sư thiết lập hồ sơ sẵn sàng đưa ông ra tòa hình sự. Cháu cũng đã thỉnh ý chú và nhận được lời tư vấn đầy nghĩa tình.

Trở về Mỹ, cháu vẫn còn lưỡng lự.

Tuần lễ trước, cháu đến đón cô sau buổi học, thấy cháu trầm mặc ưu tư, cô đưa cháu vào thư viện của trường đọc sách.

Chúng cháu cùng đọc, cùng nhau nghiền ngẫm và thảo luận một vài đoạn trong cuốn sách của bà Ashley Lawton (Nhà văn, nhiếp ảnh gia và diễn giả Kitô giáo). Người dịch Hà Anh:

. . .

Thiên Chúa biến sự dữ thành sự lành. Vụ hiếp dâm đã mang tôi vào thế giới này. Tôi là con của Thiên Chúa! Ngài đã làm cho tôi được nhận nuôi, và công trình huy hoàng của Ngài thật tốt đẹp, vững chắc và kỳ diệu. Tôi ở đây để chia sẻ tin mừng, và kế hoạch Thiên Chúa dành cho cuộc đời tôi. Tôi sống sót – không phải vì một sai lầm, mà nhờ hồng ân Thiên Chúa.

. . .

“Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo; dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.

Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách của Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự.” (Thánh Vịnh 139, 13-16)

. . .

 Sách Ngôn sứ Jeremiah chương l, câu 5: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi; Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”

. . .

Ngài biết tôi, Ngài đã dựng nên tôi, Ngài yêu tôi. Bạn thấy đấy, tôi không phải là một sản phẩm lỗi. Thiên Chúa biết điều gì sẽ xảy ra, ngài biết ngày được thành hình, và có một kế hoạch lớn lao hơn cho tôi mà không ai có thể hiểu hết được. Thậm chí cha mẹ nuôi của tôi cũng không thể hiểu được. Cha trên trời của tôi đã mặc khải cho tôi ý nghĩa của mục đích mà Ngài đã ghi khắc vào cuộc đời tôi.

. . .

Những gì Ngài đã làm cho tôi và thông qua tôi. Xin ngợi khen Thiên Chúa bởi sự mặc khải của Ngài trong sách ngôn sứ Jeremiah: “Vì chính Ta đã biết các kế hoạch Ta định làm cho ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa – kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.” (Gr 29, 11).

. . .

Và sau cùng, thêm một nhận thức từ  bài viết của Betty Michael Esene, một nghệ nhân trang điểm người Nigeria, trích từ bài  Lord is my Shepherd / Chúa Trời là Người Chăn Dắt Tôi:

“Mọi trẻ em đều có một cuộc đời để sống, cách riêng, là những trẻ em được sinh ra do hậu quả của hiếp dâm. Chúng có một tương lai tươi sáng và người kiến tạo là Đức Chúa Trời – Người đã không đem chúng đến với thế giới này nếu không có mục đích. Các em không phải là “sản phẩm” của những kẻ hiếp dâm phụ nữ, mà là một công trình sáng tạo của Thượng Đế. Người đem các em đến vì một mục đích và để hoàn tất định mệnh.”

. . .

Ra khỏi thư viện, hai đứa nắm tay rảo bước trong sân trường đại học, mỗi người theo đuổi những ý nghĩ riêng tư.

 

Lời cô gái nói với chàng trai:

Thật sự tự đáy lòng, bây giờ, em không xem anh như là “sản phẩm” của lão hải tặc hiếp dâm mẹ anh. Em là Phật tử nhưng trong vấn đề này, giáo lý Ki Tô đã khiến em phải suy nghĩ.

Sự thụ thai do hiếp dâm theo giáo lý đạo Phật sẽ là một đề tài lớn thách thức em tìm hiểu.

Em nhớ, năm 2015 Miss Grand International tổ chức tại Thái Lan,  Hoa hậu Anea Garcia trả lời trong phần ứng xử rất chân thành làm khán giả và ban giám khảo xúc động:

“Mẹ tôi là một nạn nhân của một vụ hiếp dâm và tôi ra đời như một việc ngoài ý muốn. Đó có thể là một cú sốc với nhiều người, nhưng nếu như không có ông ấy thì tôi đã không thể có mặt ngày hôm nay. Nếu được gặp người đàn ông ấy, tôi sẽ bước đến, ôm chặt ông và nói rằng tôi tha thứ cho ông ấy. Vì đó là cách duy nhất mà tôi có thể sống cuộc sống của mình trong sự thanh thản”.

Không phải ai cũng rộng lượng như cô hoa hậu.

Em chỉ nghĩ rằng anh là đứa con của định mệnh. Anh không có trách nhiệm phải chịu liên đới về những gì đã xảy ra và có quyền được sống như mọi người lương thiện khác.

Giòng máu Việt anh hùng luân lưu trong huyết quản sẽ cho anh sức mạnh triệt tiêu giòng máu nhiễm độc hải tặc Thái.

Em mong anh có sức khỏe, nghĩa là luôn luôn có được trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất và tâm thần.

Chúng ta cùng có nửa xác phàm Thái nhưng chúng ta có cả một bầu trời Việt Nam trong tâm tưởng để có thể hãnh diện tuyên xưng “chúng tôi là người Việt Nam”.

Chúng ta đã khẳng định tình yêu. Em yêu anh và mãi mãi yêu anh.

Đến ngày lễ hội hoa đăng Loy Krathongy, rằm tháng chạp Thái lịch, em sẽ rủ anh về thăm quê. Suốt đêm trăng tròn, chúng ta sẽ cùng nhau đi thả đèn krathong xuống sông, để cầu cho tình nghĩa vợ chồng và tình yêu bền chặt.

*

Trên đây là chuyện tình của đôi trẻ được sinh ra từ hoàn cảnh bi đát của một thời bất hạnh. Câu chuyện được ghi lại, bằng lòng yêu thương và niềm tin vào tình nghĩa và phẩm giá con người.

Cầu nguyện cho lứa đôi hạnh phúc và chúc lành tương lai.

 

Nguyễn Cát Thịnh

Nguồnhttps://vvnm.vietbao.com/a246887/chuyen-tinh-hai-tac

 

Mời đọc lại

Đứa con lai...hải tặc – Nguyễn Cát Thịnh