Pages

Monday, September 30, 2024

Chỉ Một Chữ "Ăn" - Lâm Bích Thủy

Mọi sinh vật sống trên trái đất có ăn mới tồn tại. Nhưng có thể khẳng định rằng chi có Việt Nam ta, mới dùng từ Ăn để diễn đat mọi nhẽ đời trong cuộc sống. Ở Việt Nam chữ Ăn đã giúp cho mọi người hiểu được đạo đức, nhân cách của một con người…

Theo tôi, có lẽ xuất phát từ một nước dựa vào cây lúa là chính; lúc được mùa thì no, lúc giáp hạt thì đói. Có ăn mới tồn tại và phát triển được...Vì vậy, từ Ăn nó hằn sâu vào tâm trí con người từ ngàn xưa và càng ngày nó càng biến thể phong phú theo nhiều cách; tùy theo từng giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội mà thành những câu, những thành ngữ, ca dao đề nói lên cốt cách, tình cảm, cái tâm, hình dáng con người; giúp chúng ta phân biệt tốt xấu, dạy chúng ta nhìn rõ bản chất của nhân vật, người nào đó trong xã hội.

Điều này, chứng minh dân tộc Việt Nam là một dân tộc rất thông minh, biết khai thác và biết sử dụng uyển chuyển ngôn ngữ đến từ gốc đến ngọn.

Các bạn xem nhé, có đến hàng “1.001” cách diễn đạt từ chữ Ăn cơ đấy:

- Để chỉ về thời kỳ Cổ đại, ta dùng cụm từ “Ăn lông ở lổ” “Ăn bờ ở bụi”

- Sang năm mới, dù nhà nghèo hay nhà giàu ai cũng lo sắm sửa để “Ăn Tết”. – Các ngày lễ lớn, nhỏ dân ta hay tổ chức ăn mừng, ăn tiệc, ăn sinh nhật, ăn thôi nôi, ăn cỗ; “Bực mình mà chảng nói ra/Muốn đi “ăn cỗ” chả mà nào mời/ Không mời thì mặc không mời/ Đã trót mặc áo không mời cũng đi”

- Để chỉ những người thích hưởng thụ mà lười biếng, muốn ăn ngon mà không muốn làm thì ta nói: “Ăn thì đi trước, lội nước đi sau; ngồi mát Ăn bát vàng”, “Ăn trắng mặc trơn, ăn trên ngồi tróc, suốt ngày chỉ biết tiêu khiển bằng các cuộc ‘chỉ biết “Ăn chơi” “Ăn tục, nói phét”

- Chỉ những kẻ bất lương là đồ “Ăn cướp, ăn trộm, ăn cắp,

- Chưa có tiền trả thì tạm “Ăn chịu” ghi sổ trả sau,

- Giải pháp cho những người sống tạm bợ, chầu chực “Ăn chực nằm chờ”

- Kẻ cơ hàn, sống bệ rạc, ăn không có mâm bát, bàn ghế, : Ăn xó mó niêu

- Kẻ liều, không cần giữ phẩm giá: Đói ăn vụng, túng làm càn

- Khi cùng cảnh ngộ mới thấu hiểu: “Dốc bồ thương kẻ ăn đong/vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.”

Không môn đăng hộ đối, hợm mình đến mức khó tin:

“Bao giờ rau diếp làm cột đình

Gỗ liêm ăn ghém thì mình lấy ta”

- Người biết lo xa, biết dàn xếp, khó khăn đâu sợ nếu “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, liệu cơm gắp mắm, ít thức ăn phải “Ăn dè” cho đủ.

- Người không biết lo, không để tâm đến thứ gì “Ăn xổi ở thì”

Sống biếng nhác chỉ dựa vào người khác:

“Ăn không rồi lại nằm không/ Mấy non cũng lở, mấy công em cũng hoài”

- Kẻ xấu, cố chấp, luôn nghĩ cách đối phó, trả thù: “ăn miếng trả miếng”

- Kẻ tiểu nhân, giấu giếm để hưởng lợi riêng : “Ăn mảnh”

- Đã nghèo lại còn đòi hỏi quá đáng: “Ăn mày mà đòi xôi gấc”

- Chi tiêu phung phí : “Ăn xài ” không suy nghĩ

- Trong cơ quan, công sở lãnh đạo thường tìm người cùng ê kíp “ăn cánh, ăn ý ” để bảo vệ chiếc ghế của mình.

- Coi khinh, dè biểu người coi trong cái ăn: “Miếng ăn quá khẩu thành tàn / Mất ăn một miếng lộn gan trong đầu”, “Miếng ăn là miếng nhục”.

- Coi trong Khí phách “Chết vì ăn là cái chết ươn hèn”

- Ăn uống đầy đủ người mới có sức khỏe học những điều hay, trí tuệ mới được mở mang. “Ăn vóc học hay”

- Chỉ gái làm tiền “bán trôn nuôi miêng”, “ăn sương”, “ăn đêm”,

- Quan hệ không lành mạnh “Ăn nằm” với kẻ không phải vợ, chồng mình

- Lợi dụng làm trung gian để lấy bớt phần người khác: “Ăn chặn” ăn chẹt, ăn giựt, “ăn quỵt”, “Ăn gian” “Ăn lận”.

-Trong kinh doanh cần phải liều “Được ăn cả, ngã về không”

- Người không thể vượt lên chính mình, đành “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm/ cầm bằng làm mướn mướn không công”

- Bọn côn đồ, mặt dữ dằn, thấy chúng như sắp “Ăn sống, nuốt tươi”, “nuốt chửng, nuốt trộng” người ta.

- Người làm ăn dối trá, cốt hưởng lợi: Ăn thật làm giả

- Người biết lỗi hối cải: “Ăn năn, sám hối”

- Chụp hình đẹp hơn ở ngoài đời gọi là “Ăn ảnh”

- Mua bán ngày một khá hơn “Ăn nên làm ra”

- Nếu khôn thì biết “Khôn ăn cái, dại ăn nước” vì chất bổ tan hết vào nước,

Đôi lúc chúng ta sử dụng từ ăn bằng tiếng Hán Việt để dễ dàng biểu thị sự việc cho văn minh hơn như “Có thực mới vực được đạo”, nam “thực như hổ”, nữ “thực như miêu”

- Sự tri ân với người có công “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”

- Trung thành với sếp “Ăn cây nào, rào cây ấy”

- Vô ơn bội nghĩa: “Ăn cháo đái bát”

- Ông cha ta thường đúc kết kinh nghiệm cho con cháu bằng ca dao:

Cấy thưa thì thừa thóc/ cấy dày “Cóc được ăn”. (Cóc = không)

- Phải quí trọng sức lao động của người nông dân, uống nước nhớ nguồn

“Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

- Làm công tác xã hội không lương: “Ăn cơm nhà, vác tù và hàng Tổng”

- Tính sòng phẳng “Tiền trao, cháo múc”

- Hoạt động bí mật phải “Nếm mật, nằm gai”

- Học hành mới có tương lai, nếu không sau này đi “Ăn mày”, “Ăn xin” mà sống “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta/ Đói cơm rách áo mới ra ăn mày

- Phải lao động mới có ăn “ Tay làm hàm nhai tay quai miệng trễ”

- Có những thử “Ăn bốc” mới thấy ngon hơn

- Đồ vật lâu ngày hư hỏng là do bị “ăn mòn”, “Ăn luồng, “Ăn rỗng”

- Chỉ sự thông thoáng “Ăn thông”

- Chỉ người nói leo “Đồ ăn hớt”

- Nhà nghèo ta phải lựa chọn “Ăn chắc mặc bền”

- Con gái thường “ăn vặc” hơn con trai

- Bảo vệ dạ dày “Ăn chậm nhai kỹ”; để giữ vệ sinh “khi ăn không nói”

- Tương quan lẫn nhau “Cá ăn kiến, kiến ăn cá”, “ăn nhịp”

- Không có kế hoạch trước thì kết quả “Có mà ăn cám”,

- Trong chăn nuôi, trồng trọt bị trộm hoài ta nên giải quyết: Thà ăn non còn hơn mất già

- Công dụng tuyệt vời: “Ăn ráo củ kiệu” Cây kiệu: củ làm dưa món, rể, lá muối dưa chua không bỏ gì cả

- Đạo lý nhà Phật “Ăn, Ở có đức mặc sức mà ăn” Ăn chay niệm Phật

- Người cố chấp, cay cú không muốn ai hơn mình “Trâu buộc ghét trâu ăn”;

- Sống phải biết nhường nhịn, đừng cậy mạnh “Ăn hiếp” kẻ yếu, biết chia sẻ không thì “Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân,

- Hậu quả: “Cha ăn mặn, con khát nước”,

- Không thỏa mãn thì “Ăn vạ”

- Người thâm nho “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng, nửa lo”,

- Người dối trá thì “Ăn có nói không”

Chỉ sự liên quan phù hợp cùng nội dung: “Ăn nhập”

Để chỉ bọn quan lại tham nhũng: “Ăn hối lô”, “ăn bẩn” “Ăn đậm”

- Chê bai: “Ăn nhằm” gì thứ đó


Đề cập đến vấn đề gia đình

– Vợ chồng chung thủy “Ăn đời ở kiếp”

Tuy không nói rõ ra từ ăn, mà vẫn hiểu nguồn gốc là ăn

“Chàng ơi phụ thiếp làm chi/Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng”,

“Ai ơi chua ngọt đã từng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Vợ chồng thuận “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon”

Con cái quanh quẩn trong nhà, mẹ mắng: – Mày như gà “ăn quẫn cối xay”

– Người lịch sự “ăn mặc tử tế”

-Thời phong kiến “miếng trầu là đầu câu chuyện, mời bác xơi thuốc, xơi trầu”     (Xơi đồng nghĩa với ăn)

– Thủ tục lập gia đình “Ăn hỏi” trước, “Ăn cưới” sau

– Trả đủa nhau cho biết mặt, dại gì chịu thiệt “Ông ăn chả, bà ăn nem”

– Vợ, hoặc chồng say mê kẻ khác một cách mê muội, mất cả lý trí “ông ấy hoặc bà ấy “Ăn phải bùa mê, ăn phải ngải” con nào, thằng nào rồi.

– Nếu vợ hoặc chồng có bồ mà người thân không biết “Ăn vụng mà khéo chùi miệng” hoặc “Ma ăn cổ”

– Để chọn vợ “Những người thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chìu chồng lại khéo nuôi con/ Những người béo trục béo tròn/ Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày”

– Tình cảm người và vật “Bóng bóng bang bang lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta/chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”

– Trong XHCN “Có làm mới có ăn”

–  khi giận dỗi, thách thức “Ăn có mời làm có khiến”

– Công việc khó khăn “Đâu có dễ ăn”

– Người có ý thức khi  “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”,

– Gia đình là nơi hình thành nhân cách con người: Trồng cây chua ăn quả chua/ Trồng cây ngọt ăn quả ngọt;

Thời nay: – Công việc nhiều, ít thời gian đã có “Đồ ăn liền”, “Ăn nhanh” …

Mình nghĩ được có thế thôi, ai biết nữa thì góp vào cho phong phú nhé.

 

Lâm Bích Thủy  

Chỉ 1 chữ ăn | Văn Học Nguồn Cội (wordpress.com)

Con Gái Ông Đại Úy - Trang Y Hạ

Ảnh minh hoạ

Sống ở trên vùng Dakto, Kontum – ngày ngày mở mắt ra là thấy núi cao chắn ngang tầm mắt. Khói rừng, sương mù, với hai mùa mưa nắng theo suốt quãng đời tuổi thơ. Nghe nói biển nước mặn, nhưng tôi chưa một lần thấy biển – biển rộng hẹp ra sao cũng chỉ tưởng tượng trong đầu, qua sách vở, người lớn kể cho nghe. Cứ như là một câu chuyện cổ tích…

Khi đủ trí khôn mẹ kể cho biết – “Ông bà ngoại của tôi có mười người con, ba trai bảy gái. Mẹ thứ mười – út gái. Trong số bảy người con gái cũng còn có ba người, mấy người kia chết lúc nhỏ. Lớn lên, ba ông anh rủ nhau theo người ta vô Bình Thuận làm thuê cho những chủ ghe đi đánh bắt cá ngoài biển. Dần dà các ông định cư luôn. Các ông tích lũy vốn liếng: Mua đất cất nhà, rồi tiếp đến mua thuyền, mua lưới… ra biển đánh bắt cá. Tự làm chủ lấy mình. Ông cậu cả có nhà ở đường Phan Bội Châu, gần chùa Ông. Hai cậu em có nhà ở gần biển. Các ông lập gia đình sớm nên con cháu đông đúc…”.

Khi được biết có bà con ở miền biển, trong lòng tôi khấp khởi mừng thầm, sẽ có ngày xuống biển, tắm biển cho biết với người ta. Nhưng cũng phải đợi đến ngày… đi vào Lính, ước mơ gặp biển mới trở thành hiện thực. Đó là – biển Vũng tàu ! Do những khóa học, khóa hội thảo chính trị… Nên đã nhiều lần tôi đến Trung Tâm Huấn Luyện: Chí Linh, Lam Sơn.
Sau ngày ký Hiệp Định Paris 1973. Trong một chuyến công tác vô Saigon, sau khi hoàn thành công việc, tôi vội vàng lên xe đò chạy thẳng ra Bình Thuận thăm các ông Cậu Mợ và mấy anh, mấy chị. Lần đầu tiên tôi mới biết Bãi biển “Đá Ông Địa” . Nơi đây còn hoang sơ, con đường đất nhỏ hẹp quanh co đi ra Mũi Né đầy bui bặm, nhà cửa lưa thưa chẳng có hàng quán. Chạy xe honda nếu lỡ hết xăng hay thủng lốp dọc đường thì đành chịu chết… Tôi cùng các anh chị tắm biển, vui chơi ăn uống… Chưa bao giờ tôi được tắm biển thoải mái như thế này. Tôi mò quanh những cụm đá ong đen thui để bắt: ốc, sò, hến… Đùa giỡn cùng sóng biển thỏa thích… Ông anh họ thứ sáu là lính TQLC, lần đầu gặp nhau anh em mừng vui – nhậu tới bến ! Cũng trong thời gian nầy bà chị họ cùng tuổi với tôi giới thiệu một người bạn gái học cùng chung trường với chị. Chúng tôi hạp nhau và rất là thân nhau. Mỗi lần về Bình Thuận tôi và cô ấy chở nhau đi thăm lầu Ông Hoàng, đi ăn bánh hỏi lòng heo ở Phú Long…

Về chuyện không biết biển, đâu chỉ có mỗi một mình tôi. Thằng bạn của tôi cũng khao khát thấy biển như tôi vậy. Nhưng chuyện của hắn còn ly kỳ hấp dẫn hơn tôi nhiều !
Hắn kể như vầy:
– “Năm mười tám tuổi tao ghi danh đi vô ngành Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn. Ba tháng học Sơ cấp ở Chí Linh, Vũng Tàu. Mơ ước được thấy, và tắm biển… sắp thành hiện thực ! Nhưng suốt ba tháng Trung Tâm Huấn Luyện không cho ra Vũng Tàu, chỉ cho đi vào mấy ngày cuối khóa. Riêng những ai có đạo Công giáo đến ngày Chúa nhật – Trung Tâm cho đi lễ, chỉ được đi nội trong buổi sáng và phải về đúng giờ. Ngày Chúa nhật người có đạo, cứ việc ra cổng chính nói đúng tên Thánh của mình với Cán bộ trực là được tự do đi lễ.

Khi biết được điều kiện quá dễ dàng như vậy; hơn nữa vì háo hức thấy biển nên trong lúc đi tập “Thao diễn cơ bản”, tao hỏi xin tên Thánh ở một người… Xin được tên Thánh tao mừng lắm, lẩm nhẩm… ghi nhớ trong đầu. Sáng Chúa nhật tao ăn mặc chỉnh tề đi ra cổng, tao thấy chừng hơn hai chục người đứng chờ để tới phiên xưng tên Thánh… Từ chỗ đứng đợi cách cổng chừng hai chục thước. Tao thấy có hai người đi ngược trở vô với vẻ mặt trông ảm đạm, lẫn lo âu, sợ sệt… Tao lần mò đến hỏi lý do tại sao phải quay trở lại? – Họ nói: Tên Thánh ” Giu-Đa”… rồi họ lắc đầu đi thẳng vô Văn Phòng Cán bộ gần đấy.
Mầy biết không? Tên “Thánh” của tao cũng… Giu-Đa ! Linh tính mách bảo có cái gì đó trắc trở…? Tao vụt chạy về lại hướng Trung Tâm. Chạy được khoảng ba chục thước, tao nấp vô hàng cây dương bên đường đứng thở và ngó lại Văn Phòng Cán bộ xem tình hình hai người đó như thế nào?
Trời đất quỷ thần ơi ! Tao thấy hai ông “Thánh Giu-Đa” đó đang bị phạt… Hít đất…! Họ hít đất thật là… “hăng hái…” mầy ơi ! Tao đoán chừng, có thể là… Năm chục cái “hít đất” chứ chẳng chơi đâu! Phía sau họ là Cán bộ kỷ luật đứng đếm cho mấy ổng hít…! Hít đất xong hai ông bước lặc lè trở vô Trung Tâm. Mặt mày hai ông “Giu-Đa” bây giờ trông bơ phờ ngất ngư con tàu đi…

Ôi, mầy ơi? Tao run như cầy sấy, mồ hôi vã ra như tắm ! Tao chạy tuốt về dãy phòng leo lên giường nằm – giữ vẻ mặt bình thường nhưng trong ngực tim vẫn đập thình thịch… Bây giờ tao mới rõ là người có đạo, người công chính. Không bao giờ họ nói dối; cũng không a dua, a tòng theo kẻ nói dối. Tao đã lợi dụng niềm tin của người khác – niềm tin tôn giáo để thỏa mãn nhu cầu bản thân mà hóa ra nông nổi này. Thật là quá ích kỷ !”.
Tôi được một trận cười đau bụng… Và cũng nhắc khéo với thằng bạn – mầy hiểu ra được việc làm sai quấy là “Hồi đầu thị ngạn” rồi đó !

Đúng nguyên tắc – thời gian đi về trong “Sự Vụ Lệnh” là bằng máy bay “khư – hồi”. Dù đi đâu, cũng phải trở vô Sài Gòn để đáp máy bay trở về Đơn vị. Nhưng không biết tại làm sao trong người tôi cảm thấy có cái gì đó… hơi bất an, lo lắng vu vơ… thôi thúc tôi phải đi đường bộ. Hẳn nhiên phải tự bỏ tiền túi ra mà đi.

Ảnh minh hoạ

Sáng sớm, tôi đón xe ra Qui Nhơn thì trời đã chiều. Phải ngủ tại đây một đêm, hôm sau mới đón xe đò lên quốc lộ 19. Khi đến Qui Nhơn thì mới biết – Hai bên đang đánh nhau dưới chân đèo An Khê chưa mở đường được ! Đêm đó tôi thuê phòng trọ ở đường Võ Tánh gần rạp hát Kim Khánh. Vậy là ngày hôm sau phải trở ngược vô Saigon !

Trong lòng tôi bần thần, lo lắng nhiều chuyện. Làm sao phải vô Sài Gòn gấp để kịp chuyến bay? Tệ hơn nữa là đã cạn tiền ! Tôi dậy sớm ra bến xe mua vé đi Nha Trang. Chỉ có xe Nha Trang là chạy sớm. Vừa đến bến xe Nha Trang, tôi nhảy tiếp lên xe Ninh Thuận, mục đích của tôi là ghé nhà thằng bạn mượn ít tiền đi tiếp… Xui xẻo cho tôi, thằng bạn đi công tác… Tôi thất vọng quay trở lại bến xe Ninh Thuận lúc nầy đã là năm giờ chiều. Nắng gay gắt rọi xiên trên bến xe dìu hiu, một vài chiếc xe cũ kỷ nằm trong bến, quang cảnh trông buồn thê thảm. Tôi bước lại quầy vé nơi đây chẳng còn ai ngoài ông giữ cửa.

Lại phải ngủ ở Ninh Thuận ! Tôi kiểm ta tiền trong túi thấy còn quá ít ! Trong lòng nóng như lửa đốt… Phải đi tìm cái phòng trọ nơi bến xe vắng vẻ nầy thôi. Trên bến xe giờ nầy người qua lại lưa thưa. Tôi thấy người phụ nữ “phân bua” gì đó với một cô bé… Còn đứa bé gái thì nói “Cháu đi tìm cha, nhưng chưa gặp thì bị mất hết tiền. Cháu muốn ở lại đây chờ quá giang xe về Biên Hòa. Cháu không muốn theo dì về nhà đâu !“.

Linh cảm có cái gì đó…? Tôi xách cặp đi lại. Vừa trông thấy tôi – Cô bé nhanh trí gọi lớn… “Chú ơi ! Con đây nè ! Con đang đi tìm chú nè… !”. Cô bé chạy vội về phía tôi. Người phụ nữ thấy vậy, chắc nghĩ rằng chúng tôi là người thân nên bỏ đi. Cô bé nắm chặc lấy tay tôi nhưng mắt thì nhìn người phụ nữ cho đến khi người ấy khuất dạng.
Trong lòng tôi nghĩ… Chắc chị ấy cũng là người tốt…Còn cô bé thì quá hoảng sợ… Có thể cô bé đi cùng chuyến xe với tôi từ Qui Nhơn ra… mà tôi không biết.

Tôi tìm được nhà trọ có tên Kim S. Do ít tiền nên tôi chỉ thuê một phòng đơn trên gác, phòng cuối dãy thoáng mát có hai cái cửa sổ. Tôi trình giấy và nói rõ tình trạng tài chánh hiện nay của tôi như thế… như thế… với bà chủ nhà trọ, và xin ở hai người. Bà chủ nhà trọ không những bằng lòng mà còn giảm cho tôi phân nửa tiền trọ. Không rõ bà chủ thấy tôi đi công tác có giấy tờ hợp lệ, ăn mặc bảnh bao, cao to. Hay là tại cô bé gái có khuôn mặt sáng láng, mắt lớn, sống mũi dọc dừa, nước da trắng. Trông đẹp như Đức Mẹ Maria !?
T
ôi dẫn cô bé đi ăn cơm. Thấy cô bé ăn nhanh, hình như có vẻ đói… Một chút lo lắng phớt qua khuôn mặt bơ phờ. Một nỗi buồn đâu đó xâm chiếm tâm hồn tôi. Chính tôi cũng còn cảm thấy cô đơn trống vắng huống hồ đứa bé gái “lạc loài” lỡ đường, lỡ sá, không tiền bạc như thế nầy. Chắc cô bé đã khóc rất nhiều !
Chờ cô bé ăn cơm xong. Tôi hỏi:
– Bé ơi ! Con tên là gì ?
– Dạ thưa chú – Con tên Trần thị Hoa.
– Con đi tìm ai mà đi một mình như vậy ?
Cô bé ngập ngừng… nhìn tôi rồi trả lời:
– Dạ thưa chú ! Nhà con ở Biên Hòa. Con đi lên Phú Bổn thăm cha, nhưng đến An Khê người ta nói đang đánh nhau. Con ngồi đợi trong xe thì có tiếng đạn nổ lớn ! Mọi người bỏ xe chạy tìm chỗ nấp. Con chạy theo người ta và lạc mất túi quần áo, tiền bạc. Trong người chỉ còn giấy tờ và chút ít tiền lẻ. Xe trở lại Qui Nhơn thì trời đã khuya. Con ngồi ở bến xe cùng với mấy người phụ nữ chờ sáng. Sáng sớm hôm sau vì không đủ tiền mua vé, con xin đi quá giang xe đến Nha Trang. Đến Nha Trang xe nghỉ. Ông tài xế lại gởi con lên xe khác, nhưng xe chạy đến đây là hết chạy…? Con đứng xớ rớ thì gặp bà dì hồi nãy đi ngang thấy con chảy nước mắt, bà ấy mới nói về nhà bà mà ở tạm. Nhà bà cách đây chừng năm cây số, con sợ xa nên con không chịu. Chợt có chú đi đến, con liều lĩnh nhận bừa chú là chú của con. Chú tha lỗi cho con nha chú!

Trong thời buổi chiến tranh loạn ly biết đâu mà đề phòng. Nhưng trường hợp nầy lại rơi vô một đứa bé gái thì thật quá nguy hiểm.
– Con yên tâm, ngày mai chú sẽ mua vé xe cho con về Biên Hòa. Ăn xong chúng ta đi về nhà trọ, chú sẽ kiếm quần áo cho con tắm gội. Sau đó chúng ta nói chuyện tiếp.
Bà chủ nhà trọ dẫn cô bé đi tắm và lấy quần áo của cô con gái bà cho cô bé mặc. Bà chải tóc gọn gàng cho cô bé như một người mẹ lo cho con. Bà còn bảo cô bé hãy ngủ với con gái của bà, nhưng cô bé không chịu. Tôi kêu một ly cà phê đá và chúng tôi lên phòng mở toang các cửa ra đón gió mát.
Tôi nói:
– Này cô bé ! Đêm nay con ngủ trên cái giường đó nha ! Chú nằm trên ghế bố của bà chủ cho mượn. Vậy là yên ấm đêm nay ! Ngày mai để ngày mai lo !
– Chú ơi ! Sao chú không hỏi han… gì về con vậy ?

Hồi chiều đến giờ tôi rất muốn biết về cha mẹ cô bé nhưng trong đầu tôi lúc nào lo lắng chuyện trễ lương của Đơn Vị, hơn nữa trong túi chỉ đủ tiền mua mỗi một vé xe cho cô bé về đến Biên Hòa trong ngày mai. Còn tôi không biết xoay trở cách nào đây? Nghe cô bé nhắc nhở, tôi… cười nói:
– Chú cũng muốn hỏi nhưng chú sợ con cho rằng chú tò mò chuyện đời tư của con, nên không dám đó thôi.
– Hổng có sao đâu. Để con nói cho chú nghe… !
Cô bé lấy ra đưa cho tôi xem giấy tờ cá nhân… và một tấm ảnh cô bé chụp chung với người đàn ông mặc quân phục mang cấp bậc Đại Úy, ảnh còn mới. Người quân nhân trong tấm ảnh có vẻ mặt hiền hiền, đẹp trai. Khuôn mặt cô bé trông rất giống người trong tấm ảnh.
– Thưa chú ! Cha con và con đó ! Cha con là Đại Úy Đại Đội Trưởng Đại Đội Công Binh. Đóng quân ở thành Dakpha Kontum. Con và mẹ có thời gian lên ở cùng với cha mấy năm, sau đó mẹ bị bệnh nặng nên mới về Biên Hòa. Con có người chị mười bốn tuổi, còn con năm nay mười hai tuổi. Hiện nay mẹ con bệnh nặng lắm, cha con có về thăm nhưng rồi cha cũng lại ra đi. Mẹ nhớ cha, hai chị em con cũng nhớ cha. Hồi mẹ chưa bị bệnh cả nhà theo cha rày đây mai đó, ở hết khu gia binh nầy đến khu gia binh khác, tuy cơ cực nhưng mà có nhau.

Tôi trả lại giấy tờ, ảnh cho cô bé. Bưng ly cà phê lên uống vài hớp. Chưa kịp tự giới thiệu thì cô bé đã hỏi…
– Thưa chú ! Chú tên gì vậy?
– Chú ở đâu?
– Chú có gia đình chưa vậy hở chú?
Cô bé nầy thông minh thật, biết “sưu tra lý lịch” của mình đây… Tôi mỉm cười trả lời:
– Chú tên, Trần Phú Văn. Cha mẹ, anh em trước ở Kontum. Sau năm 1972 về Saigon. Hiện nay công tác tại Kontum. Chưa lập gia đình.
Cô bé reo lên… ! Chú cùng họ với con…!
– Chú có người yêu chưa chú…?
– Chỉ có bạn gái thôi.
– Cô ấy có đẹp không vậy chú?
– Chú cũng không biết.
– Cô ấy có yêu chú nhiều không ?
– Chú cũng không biết nữa. Nhưng yêu Lính làm gì cho thêm khổ phải không con ?
Vẻ mặt cô bé đăm chiêu, hình như có tâm sự gì…?
– Chú biết hông ? Ngày xưa mẹ con cũng yêu cha con là Lính – là Lính nên cũng khổ thật…! Nghe mẹ con nói: Mẹ theo cha con đi khắp nơi, nhưng chỗ ở lâu nhất là trên Kontum. Những đêm mùa đông sương khói giăng mịt mờ lạnh buốt, mưa núi dài lê thê hằng tuần. Những ngày chờ cha đi công tác, mẹ con nghe và thuộc lòng mấy chục bài hát về Lính, như các bài: “Những đóm mắt hỏa châu – Chiều mưa biên giới – Hai mùa mưa – Hai bốn giờ phép – Nỗi buồn hoa phượng…”. Mẹ con nói, mẹ thích nhất là lúc khuya khuya nghe dì ca sĩ Thanh Thúy hát – Tiếng hát nghe nhức nhối tâm hồn kẻ chinh nhân và người vợ Lính. Những bài nhạc dì Thanh Thúy hát, mẹ con đều thuộc lòng như cháo, mẹ hát ru chúng con riết rồi khi lớn lên con cũng nhập tâm và hát theo luôn.
– Con hát tặng cho chú một bản của dì ca sĩ Thanh Thúy hát nha ?
Không đợi tôi đồng ý. Cô bé cất giọng hát…
“Chiều nao, tiễn nhau đi khi bóng ngả xế tà
Hoàng hôn… đến đâu đây màu tím dâng trong hồn ta
Muốn không gian đừng tan, níu đôi chân thời gian
Ngừng trôi cho giây phút chia ly này kéo dài,
Trước khi phân kỳ, ước sao cho tàu đừng đi.”
Ở trong tình cảnh lỡ đường, lỡ xe nầy mà nghe cô bé hát giọng trong trẻo, mượt mà nhưng không kém phần u uẩn… Ngoài bến xe những tia nắng giận hờn bỏ đi hết. Những giọt mưa sắp mưa ướt đẫm lòng người lữ thứ !
“Xe lăn êm êm lúc ga chiều sắp lên đèn
Mưa thu bay bay vắt ngang trời ướt vai mềm
Hoàng hôn dần buông
Mà ai còn đứng im trong chiều sương xuống”

Cô bé có giọng hát thiên phú, cũng dây dưa sương khói giống như chị ca sĩ Thanh Thúy. Tôi đứng lên đến tựa bên cửa sổ nhìn về hướng Trường Sơn. Không còn hoàng hôn dần buông… Mùa nắng, đêm chậm chạp gieo hồn trên cái bến xe vắng tanh, vài ngọn đèn vàng tù mù trong một vài quán ăn hắt ra… Tự dưng, tôi lại may mắn được nghe “Nhạc sống” từ một cô bé mới mười hai tuổi đầu – con của một ông Đại Úy nào đó… Giọng cô bé hát – như kể lể, như than thở, như hờn dỗi… người ra đi…! Người ra đi thật ư? Sao sự phân kỳ chùng xuống trên đôi chân người đi giữ nước như vậy? Đất trời nổi giông tố, con tàu ướt mèm trong buổi tiễn đưa. Ai gây ra chi sự chia cắt đau thương nầy? Nhớ lại những ngày tôi bị thương tại Dakto, cũng lời nhạc nầy do chị Thanh Thúy hát – từ cái máy cassette ngân dài…, tôi và các anh em ngồi chờ trực thăng tản thương – hồi tưởng, nhớ thương ! Và cũng tự hỏi một lần như vậy !
Cô bé hát xong, ngồi chống cằm im lặng…

Tôi vẫn nhìn ra ngoài màn đêm – màn đêm phủ kín trên quê hương khói lửa bao năm nay. Hòa bình ló dạng qua cái hiệp định Paris nầy không biết có thành hiện thực hay cũng chỉ là một mảnh giấy lộn như hiệp định Giơ-ne 1954 ? Tôi miên man suy nghĩ… Rồi tôi lại được nghe tiếp ” – Một chuyến bay đêm – Sầu lẻ bóng “. Cô bé hát nho nhỏ nhưng âm giọng vang xa… Cô hát say sưa như gởi nỗi nhớ thương đến người cha bằng ca từ sưởi ấm sự lạc loài đêm nay của cô bé? Hay ở phương trời nào đó người thân của cô bé – bằng thần giao cách cảm sẽ thấu hiểu sự cô đơn hiện giờ nơi cái tỉnh lẻ nầy?

Cô bé đã dẫn tôi trở về vùng ký ức: Tình yêu, cuộc chiến, bạn hữu, cảnh chia ly không bao giờ gặp lại của những người đi chinh chiến, và những nạn nhân trong cuộc chiến. Trong đó có người cha thân yêu của tôi đã nằm xuống vĩnh viễn. Tôi thật sự xúc động, tôi không dám quay người lại nhìn cô bé – Tôi sợ sẽ chảy nước mắt cùng cô bé. Tôi không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt một cô bé mới gặp. Tôi không còn cha, nhưng cô bé còn cha – dù cha cô bé đang ở chiến trường. Biết đâu một ngày nào đó: Nếu mai đây về, cũng trên chuyến tàu hoàng hôn với lá cờ… ! Thì sẽ buồn, và đau khổ biết bao nhiêu…!! Chiến tranh tàn ác ! Nào ai biết trước chuyện gì sẽ xãy ra… Tôi mồ côi cha, nhưng dẫu sao tôi cũng đã lớn khôn. Còn hai chị em cô bé nầy, và những đứa trẻ khác trên đất nước Việt Nam nầy đâu có tội tình gì…? Bất chợt một cơn gió thổi ngang qua, mang theo hơi lạnh. Tôi rùng mình…
Cô bé ngồi tư lự… ngó tôi chăm chăm…
– Trông chú già, xấu xí lắm hả con? Tôi hỏi?
– Chú không có già ! Cũng không có xấu ! Nhưng con biết chú… chú là ai rồi…
– Vậy chú là… ai ? Nói ra thử cho chú nghe xem nào !
Cô bé nhìn tôi thật lâu… rồi nói :
– Bà chủ nhà trọ nói nhỏ với con rằng – chú là… Lính, giữ chức vụ gì lớn lắm…? Chú còn là… nhà thơ nữa ! Chỉ có người Lính dạn dày sương gió, yêu hòa bình và sự thật mới đem yêu thương rưới lên hận thù, mới có tấm lòng nhân ái cứu vớt những cảnh đời đau khổ. Chẳng hạn như trường hợp của con hiện giờ.
– Con làm như những người Lính như chú hay cha của con là Bồ Tát đi “cứu vớt cảnh đời” không bằng ! Những người lính như chú hay cha của con không nuôi hận thù ở trong lòng. Cầm súng chẳng qua là giữ cái nhà, mảnh vườn… giữ sự bằng an cho quê hương, đất nước. Từ đó trong tâm hồn lúc nào cũng thanh thản nên viết ra những bản nhạc, lời thơ, trang sách – ca ngợi quê hương, ca ngợi tình yêu… – rung lên bởi nhịp đập của trái tim: đầy nhân ái, đầy tình yêu thương của những con người tư do và yêu tự do. Tất cả các tác phẩm ấy đã đi vào giòng văn học Việt Nam mãi mãi không bao giờ phai nhạt.

Ly cà phê làm cho tôi tỉnh táo. Chắc chắn đêm nay sẽ thức trắng. Cô bé đứng dậy đi về phía cửa sổ và nhìn ra ngoài trời. Tôi bước đến đứng bên cạnh. Hai “chú cháu” tôi im lặng nhìn những vì sao lấp lánh…, xa xa có một vài ánh sáng vụt lên bầu trời. Không biết có phải là ánh hỏa châu? Hay đạn lửa…? Nhưng tôi đoán rằng, chiến trường chưa yên lặng cho dù có hiệp định hòa bình Paris.
Cô bé quay người cầm tay tôi và nói:
– Con tuy còn nhỏ nhưng con đã chứng kiến nhiều lần sự chia tay của người lớn. Mỗi lần về nghỉ phép cha con lưu luyến không nỡ lìa xa gia đình. Tội nghiệp cho cha con ! Mẹ con bịnh… nhưng cũng phải ra đi làm tròn nhiệm vụ người Lính. Hôm cha ra đi. Mẹ nhìn cha mỉm cười… ! “Không sao đâu ! Ở nhà còn có hai con. Anh yên tâm trở về đơn vị…”. Mẹ con nói vậy, nhưng con biết trong lòng mẹ chao động giữ lắm…! Mẹ con đã quen với những tháng năm miệt mài bên cha, cùng chia xẻ: vui, buồn cực nhọc mấy năm ròng trên vùng đất Kontum sương mù mưa gió, nên có phần nào đã… “chai lỳ” trong nỗi xa cách. Mẹ chỉ âm thầm xót thương cho hai chị em chúng con không gần gũi cha nhiều để nghe những lời cha chỉ dạy. Trước khi cha ra đi, mẹ hát cho cha nghe – mẹ hát chậm chậm…, giọng hơi mệt – bài nhạc mà dì ca sĩ Thanh Thúy đã hát !
” Xin giã biệt bạn lòng ơi
Trao trả môi người cười
Vì hai lối mộng hai hướng trông
Mình thương nhau chưa trót
Thì chớ mang nỗi buồn theo bước đời”

Mẹ con diễn tả lời bài ca theo cảm xúc và ý nghĩ của riêng mẹ… nhưng con linh cảm rằng: Đó là lời trăn trối cùng cha…! Mẹ sẽ chết ! Mẹ không đi trọn đường tình đến răng long đầu bạc cùng cha ! Con còn nhỏ, con chỉ biết hát, thích hát những bài hát về người Lính mà mẹ đã tập cho con. Con không hiểu hết ý nghĩa của lời hát đó.
Cô bé lại hát trọn bài hát mà mẹ cô bé đã hát – cho tôi nghe! Giọng trầm ấm, tha thiết !

Đêm trôi dần về sáng, chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi, tôi và cô bé cũng… “Trao trả môi người cười” ! Không có tình yêu “trai gái” nào ở đây hết. Chỉ có hai con người lưu lạc – một già, một trẻ – cùng chung cảnh ngộ lỡ đường mà gặp nhau ở giữa cái bến xe lạ hoắc nầy. Bến xe đò hay là bến xe hợp tan đời người? Bất cứ ai cũng đều phải ghé qua cái “bến đời” đó một lần, hay nhiều lần. Gió lạnh lạnh thổi, rung rung hai cánh cửa sổ, tôi đoán chừng ở ngoài biển nước thủy triều đang dâng lên… Hai chúng tôi cảm nhận từng giây, từng phút sự chia ly, và nghe từng cơn sóng vỗ bờ dồn dập đau buốt ở trong lòng. Tôi cũng chỉ có hai mươi bốn tuổi đầu với sáu năm công vụ. Tôi chỉ lớn gấp đôi tuổi đời của cô bé nầy, mà sao cảm thấy đang đi vào “Tam thập như lập” không biết nữa ?!
– Chú ơi, con ao ước kiếp sau con sẽ là con trai để được đi Lính như cha con, như chú… Để chia xẻ và cảm thông sự tang thương mất mác của người Lính nơi chiến trường. Nhưng cũng lắm tự hào làm trọn trách nhiệm và danh dự bảo vệ tổ quốc trên hết. Con nhớ thương cha con lắm ! Con thấy bất cứ ai là Lính chiến, con lại nhớ đến cha con. Vì quá nhớ cha, nên chị em con bàn bạc.., gom tiền cho con đi ra thăm cha. Kể tình trạng bịnh hoạn của mẹ cho cha hay. Con giấu không cho mẹ biết. Ngày mai trở về đến nhà, con sẽ kể rõ mọi chuyện xãy ra trong chuyến đi… Con sẽ xin lỗi mọi người. Chú ơi ! Chuyến đi nầy con mới hiểu ra rằng tấm lòng nhân ái trên cõi đời nầy còn nhiều lắm… – trong đó có chú. Con cảm ơn chú…!

Trong lòng tôi thầm kính phục cha mẹ cô bé đã dạy cho con của họ: biết trách nhiệm, biết lo lắng yêu thương gia đình, đồng loại. Đồng thời cũng cảm nhận được sự yêu thương dùm bọc của người khác dành cho bản thân.
– Con đúng là con của Lính nhà nòi, cha con sẽ hãnh diện, tự hào về con – cả chú nữa đó ! Nhưng con gái thời nay cũng đi Lính được kia mà ? Chẳng những làm Lính mà còn làm Tướng cầm quân đánh giặc lưu danh sử sách muôn đời như Hai Bà Trưng, Bà Triệu đã đánh tan giặc Hán phương Bắc. Nữ tướng oai hùng Bùi Thị Xuân, gần đây có Cô Giang , Cô Bắc. Ngày xưa, trong quân đội của Hai Bà Trưng có nhiều nữ Tướng đánh giặc Hán rất giỏi, trong số đó có nữ tướng Thiều Hoa (công chúa), được Hai Bà Trưng phong là “Đông Cung Tướng Quân”. Con là: Trần Thị Hoa. Chú xin phép con, chú viết thêm chữ “Thiều”… Vậy là con có cái tên – Trần Thị Thiều Hoa (công chúa). Sau nầy con sẽ nối nghiệp của: Đông Cung Tướng Quân nha? – Con có thích cái Tên… cũng như chịu làm Tướng không?

Nghe cái tên “Trần Thị Thiều Hoa” quá đẹp ! Cô bé hớn hở…
– Cái tên thì con rất… là…là… thích ! Nhưng làm “Tướng” gì đó thì còn phải… nghĩ.. nghĩ… lại cái đã !
-Vậy thì, cô bé công chúa lên giường nằm mà nghĩ… Rồi…ngủ một chút đi ! Không bao lâu nữa trời sẽ sáng. Cả ngày hôm nay “chú cháu” ta mệt nhừ tử rồi.
Khi thấy “Công Chúa” ngủ ngon. Tôi cũng ngả lưng trên cái ghế bố. Bởi không quen uống cà phê tối, nên cặp mắt trơ trơ – tỉnh queo. Thấy đã đến giờ, tôi đi xuống nhà trả phòng, nhờ bà chủ nhà trọ mua cho hai ổ bánh mì thịt lớn cho cô bé ăn khi đi đường. Tôi cũng không quên cảm ơn sự đối đãi rất tình người của bà chủ nhà trọ, hứa khi có dịp sẽ ghé thăm. Ở tại Ninh Thuận nầy tôi cũng có người bạn thân sống tại đây.

Trên chuyến xe đò “Nam Thành” chạy vô Saigon, nhìn thấy tượng Đức Mẹ Maria với hàng chữ “Nữ Vương Ban Sự Bằng An”đặt ở bên trong đầu xe. Thấy vậy nên tôi yên tâm. Tôi nói thật với ông tài xế rằng tôi đi công tác lỡ đường chỉ còn đủ tiền mua một vé cho cô bé đến Biên Hòa – cô bé cũng lỡ đường như tôi. Cá nhân tôi – tôi xin ông cho đi nhờ đến Bình Thuận… Tôi lấy giấy “SVL” cho ông xem – nhưng ông xua tay – mỉm cười…! Tôi nói lời cảm ơn ông tài xế ! Vậy là “chú cháu” tôi bình an…!

Xe chạy gần đến Bình Thuận, tôi lay cô bé dậy. Chú cháu ta chia tay nơi đây… Lần sau đừng “trốn” nhà đi nữa đấy ! Nguy hiểm lắm…! Tôi vét hết số tiền còn lại đưa cho cô bé. Chúc cô bé (Công Chúa) đi về nhà bằng an ! Chú xin được gởi lời thăm hết những người trong gia đình.
Cô bé ôm tôi khóc rưng rức…
Tôi nâng cằm cô bé – nhìn thẳng vô mắt nói:
– Công Chúa – Nữ Tướng gì mà lại… mít ướt như vậy hử?
Cô bé phụng phịu…!
– Con không cần làm Công Chúa… cũng không cần làm Tướng gì hết ! Con chỉ cần có chú, nhớ chú thôi !

Tôi bước xuống xe, không quên dặn bác tài xế đến Biên Hòa kêu dùm cô bé xuống. Tôi vẫy tay chào…! Xe chạy, cô bé nhoài người ra bên ngoài đưa tay vẫy vẫy… Con nhớ chú ! Con nhớ Chú…!
Xe qua biết có trở về
Chở theo bao nỗi tái tê trong hồn
Mây đưa bịn rịn cô thôn
Biển nghiêng sóng vỗ dập dồn cành dương
Đưa tay vẫy vẫy bên đường
Nắng lên còn níu sợi sương kéo dài
Tình người như ách nặng vai
Bỏ thương, vương tội – đắng cay cũng đành.
Đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu tại làm sao lúc ấy tôi không xin địa chỉ nhà của cô bé ?

Tôi không bao giờ quên cái nốt ruồi “làm duyên” đen đen như đầu chiếc đũa, nằm im lặng phía dưới cánh mũi bên phải trên khuôn mặt “thiên thần” của cô bé. Đã in sâu vô trí óc của tôi.
Tôi đi học tập “cải tạo” đến năm thứ hai thì mới được gặp gia đình. Một buổi sáng thứ bảy… đang đi vào nhà “thăm nuôi” để gặp mặt mẹ. Tôi thấy hai thiếu nữ đi ra, chắc hai người đã gặp người thân…? Tôi nhận thấy một trong hai cô thiếu nữ có cái nốt ruồi giống y chang cô bé mà tôi đã gặp năm xưa. Tôi sững người…! Cô gái cũng hơi… khựng lại nhìn tôi và bước nhanh ra cổng. Tôi nhìn theo… (Nhưng cho dù có nhận ra nhau ở trong hoàn cảnh nầy cũng chỉ nhìn nhau mà thôi !). Tôi linh cảm và cũng đinh ninh – đó là cô “Công Chúa” của tôi ! Hoặc là tôi đã nhìn lầm… Người có nốt ruồi…, không phải là ít !

Nhưng dù có đúng là cô bé năm xưa đi nữa, làm sao cô bé có thể nhận ra tôi chứ ? Đã cách xa nhau những sáu năm trời rồi còn gì ! Bây giờ, ngay chính bản thân của tôi – tôi cũng không nhận ra tôi được nữa là…! Tôi thầm chúc hai cô gái – Đi đường bằng an ! Mừng cho cha mẹ, hay người thân của hai cô là: Lính…! Còn sống sót trong thời Chiến Tranh ! Và hiện nay đang ở tù “cải tạo” trong thời “Hòa Bình”! ./.

Trang Y Hạ
Saigon 1987,
những ngày đạp xe ba gác
Nguồn: Tác giả Trang Y Hạ

Aussie Joke

 

A father walks into a restaurant with his young son. He gives the young boy 3 x 5c coins to play with to keep him occupied. Suddenly, the boy starts choking, going blue in the face. The father realises the boy has swallowed the coins and starts slapping him on the back. The boy coughs up two of the coins, but keeps choking. Looking at his son, the father is panicking, shouting for help.

A well dressed, attractive, and serious looking woman, in a blue business suit is sitting at a coffee bar reading a newspaper and sipping a cup of coffee. At the sound of the commotion, she looks up, puts her coffee cup down, neatly folds the newspaper and places it on the counter, gets up from her seat and makes her way, unhurried, across the restaurant.

Reaching the boy, the woman carefully drops his pants, takes hold of the boy's testicles and starts to squeeze and twist, gently at first and then ever so firmly. After a few seconds the boy convulses violently and coughs up the last coin, which the woman deftly catches in her free hand. Releasing the boy's testicles, the woman hands the coin to the father and walks back to her seat at the coffee bar without saying a word. As soon as he is sure that his son has suffered no ill effects, the father rushes over to the woman and starts thanking her saying,

"I've never seen anybody do anything like that before, it was fantastic. Are you a doctor?"

"No,” the woman replied. "I work for the Australian Taxation Office."


From: Lai Tich Nguyen

Văn Hóa Hoa Kỳ: Tin Vào Thiên Chúa - Ngưỡng Mộ Các Anh Hùng - Nguyễn Vạn Bình


Hoa Kỳ được thành lập vào ngày 4/7/1776, sau khi quân dân Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của tướng George Washington đánh bại quân Anh dành được nền độc lập. Hoa Kỳ có dân số là gần 343 triệu người, đứng hàng quốc gia thứ 3 đông dân trên thế giới sau Trung Cộng và Ấn Độ.

Truyền thống văn hóa của dân Mỹ từ xưa đến nay là: Tin VàoThiên Chúa và Ngưỡng Mộ Các Anh Hùng. Chính điều nầy Hoa Kỳ dù là quốc gia còn non trẻ chỉ mới 248 năm, nhưng lại là quốc gia hùng cường, giàu mạnh, tân tiến nhất trên thế giới mà nhiều người mọi nơi mong được nhập cư sinh sống.

Trong bài viết nầy, tôi xin nêu lên những bằng chứng về Truyền Thống Văn Hóa Dân Mỹ như sau:


     I-           TIN VÀOTHIÊN CHÚA:

Giáo điều của Thiên Chúa giáo đặc biệt đã ảnh hưởng mạnh mẽ trên nhiều sinh hoạt của người dân Hoa Kỳ. Số dân Mỹ theo đạo Thiên Chúa gồm Công Giáo và Tin Lành hiện nay là 210 triệu người được xem là quốc gia có số giáo dân Thiên Chúa đông nhất trên thế giới.

Ngay khi giành được nền độc lập, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, một văn bản chính trị của Hoa Kỳ được viết bởi ông Thomas Jefferson và tuyên bố vào ngày 4/7/1776 đã chịu ảnh hưởng tư tưởng của  triết gia John Locke, người Anh, một giáo dân Thiên Chúá. Theo lý thuyết của John Locke, ba quyền cơ bản không thể bị tước đoạt của con người là quyền được sống, được tự do và quyền sở hữu được Thomas Jefferson đề cập tới trong bản tuyên ngôn là "quyền được mưu cầu hạnh phúc".

Qua bản Hiến Pháp Hoa Kỳ ngày 17/9/1787 đến nay được 237 năm, vẫn được xem là một kiệt tác chính trị về qui định tổ chức công quyền của một quốc gia. Hầu hết các bản hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới đã lấy bàn Hiến Pháp của Hoa Kỳ để tham khảo.  Nội dung của bản Hiến Pháp Hoa Kỳ đã dựa nhiều vào các giáo điều của Thiên Chúa Giáo. Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền sỡ hữu của người dân mà Thiên Chúa đã trao tặng cho con người phải được hưởng.


Trên tiền giấy của Hoa Kỳ luôn có hàng chữ IN GOD WE TRUST để nhắc nhờ người dân Hoa Kỳ phải có niềm tin vào Thiên Chúa. Ngoài ra, các chính trị gia dù thuộc đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa trước khi kết thúc bài diễn văn đều nói câu: God Bless you và God Bless America.

Lịch sử Hoa Kỳ cũng đã có ghi trong cuộc chiến cam go với quân đội Anh, tướng George Washington, cha già của dân tộc Hoa Kỳ thường quỳ cầu nguyện với Thiên Chúa khi ông gặp những khó khăn trong cuộc chiến.

Vì thế, người dân Hoa Kỳ có nếp sống đạo đức, trọng danh dự và sẳn sàng giúp đở những người nghèo khó.


II-        NGƯỠNG MỘ CÁC ANH HÙNG:

Có thể nói Hoa Kỳ là nơi có rất nhiều vị anh hùng dân tộc. Họ chiến đấu với lòng dũng cảm cao độ, dám hy sinh mạng sống của mình vì chính nghĩa và quyền lợi của dân tộc, đất nước Hoa Kỳ.

Gương tướng George Wasshington sau khi chiến thắng quân Anh, ông đã được mọi người bầu vào chức vụ lãnh đạo đất nước.Thay vì làm vua để được sống sung sướng và  cha truyền con nối dưới thời đại quân chủ bầy giờ, nhưng ông đã chọn làm Tổng Thống trong một thể chế dân chủ  và qui định tối đa 2 nhiệm kỳ là 8 năm cho các vị tổng thống chỉ vì quyền lợi của đất nước.

Trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ kéo dài 4 năm từ 12-4-1861 đến 9-4-1865 làm thương vong cho gần 1 triệu quân lính của hai miền Nam, Bắc và hàng trăm ngàn dân Hoa Kỳ bị thương vong. Nhưng sau trận chiến, cấp chỉ huy và quân lính của cả hai bên đã xử sự một cách rất anh hùng. Trưa ngày lịch sử 9-4-1865, tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưởi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước.Tướng Grant ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với tướng Lee của miền Nam. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Quả thật, tướng Grant bên phe thắng trận và tướng Lee của phe thua trận đã bày tỏ bản tính anh hùng của dân Hoa Kỳ, dù ở bất cứ cương vị nào là thắng không kiêu và bại không để bị nhục.

Tướng Grant, chỉ huy quân đội miền Bắc ra lệnh cho các binh sĩ không được ăn mừng. Ông nói với các sĩ quan dưới quyền:“Chiến tranh đã kết thúc.Giờ nầy họ là đồng bào của chúng ta”.  Ông cho rằng hai bên không còn là kẻ thù và cách tốt đẹp nhất để bày tỏ niềm vui của miền Bắc là không vui mừng trước thất bại của quân miền Nam.

Riêng tổng thống Abraham Lincoln, đứng trước sự thương vong của quân dân của cả hai bên Nam Bắc, ông đã tuyên bố: “Khi viên đạn xuyên vào người lính dù thuộc phe nào đi nữa, thực ra nó đã xuyên vào trái tim của một người Mẹ. Tại sao lại ăn mừng chiến thắng? Những người thua trận chẳng phải là đồng bào của chúng ta hay sao?”. TT Linlcon cũng nói rằng: “Nội chiến không có người thắng”.

Chính quyền Hoa Kỳ luôn ghi ơn các bậc anh hùng. Hoa Kỳ đã có ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhằm ghi ơn các tử sĩ và lập nên các nghĩa trang to lớn được chăm sóc chu đáo để chôn cất họ một các trang trọng.

Hoa Kỳ yêu mến sức mạnh và sự dũng cảm.Vì thế, huy hiệu của Hoa Kỳ là Chim Đại Bàng là con vật dũng mãnh, chúa tể của muôn vật trên bầu trời. Trong lãnh vực thể thao, môn Foot Ball  được dân Mỹ yêu chuộng vì nó biểu lộ tinh thần đồng đội và sức mạnh của các cầu thủ.

                                                    ***

Nhìn lại thời cuộc hiện nay, cuộc bầu cử chọn tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ sẽ xảy ra vào ngày 5-11-2024 giữa cựu tổng thống Donald Trump và phó tổng thống Kamala Harris đang là điểm quan tâm của nhân dân Hoa Kỳ. Giữa hai ứng cử viên, ai là người đã và sẽ giữ được truyền thống văn hóa của Hoa Kỳ hầu đem lại sự thịnh vượng cho đất nước và sự hạnh phúc cho nhân dân Hoa Kỳ?

Cựu tổng thống Donald Trump trong biến cố xảy ra vào ngày 13-7-2024 , khi ông thoát chết trong đường tóc kẻ tóc qua cuộc ám sát trong cuộc vân động tranh cử tại Butler, Pennsylvania  từ Thomas Matthew Crooks, ông đã bày tỏ rõ rệt bản tính của người dân Hoa Kỳ.

Cựu TT Trump trong ngày bế mạc đại hội đảng Cộng Hòa tại Wisonsin ngày 18-7-2024, đã mạnh dạn và công khai nói về Niềm Tin vào Thiên Chúa của người dân Hoa Kỳ và Tình Yêu của Chúa dành cho dân tộc Hoa Kỳ.Mở đầu, bài diễn văn, ông Trump đã cho biết chính Thiên Chúa đã cứu mạng sống của ông.


Nhắc lại, khi ông Trump tham dự buổi “Điểm Tâm Cầu Nguyện Quốc Gia” lần thứ 66 tại khách sạn Hilton ở thủ đô Washington DC hôm thứ Năm ngày 8 tháng 2 năm 2024 . Cựu TT Trump đã nói Hoa Kỳ là một quốc gia của các tín hữu và cùng nhau chúng ta được củng cố bởi quyền năng của lời cầu nguyện.Sự kiện này nhắc nhở chúng ta rằng Đức Tin là trung tâm của cuộc sống và nền tự do của Hoa Kỳ; Những người sáng lập quốc gia này đã nhắc đến Đấng Tạo Hóa bốn lần trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Đồng Tiền (giấy bạc) của chúng ta cũng khẳng định “Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa - In God We Trust” và chúng ta đặt tay lên trái tim của chúng ta khi chúng ta đọc lời tuyên thệ Trung Thành và tuyên bố chúng ta là một “Dân Tộc Dưới Quyền Của Thiên Chúa - Nation of God”.

Quyền của chúng ta không phải do con người trao ban, quyền của chúng ta đến từ Đấng Tạo Hóa, không có thế lực trần thế nào có thể tước mất những quyền ấy của chúng ta. Đó là lý do tại sao những lời Khen Ngợi Thiên Chúa được ghi khắc trên đỉnh đài tưởng niệm Washington và những lời tương tự được khắc sâu trong tâm khảm của người dân chúng ta.


Vì vậy, hôm nay chúng ta ngợi khen Thiên Chúa vì chúng ta thật sự quá may mắn khi được là Công Dân Hoa Kỳ. Trên khắp đất nước chúng ta, khi nhìn thấy những kỳ công sáng tạo huy hoàng của Thiên Chúa trong suốt lịch sử của chúng ta, chúng ta thấy biết bao nhiêu những câu chuyện về ơn Quan Phòng của Thiên Chúa.

Cựu tổng thống cũng đã biểu lộ bản tính anh hùng của dân tộc Mỹ. Sau khi bị thương vào lỗ tai bên phải máu chảy ra lan trên má, nhưng sau đó ông vẫn đứng lên mạnh dạn giơ cánh tay phải bằng quả đấm và hô to: “ Fight! Fight! Fight!” không một chút sợ hãi. Chúng ta hảy thử nghĩ ông Trump là một tỷ phú có gia đình tốt đẹp với vợ đẹp, con cái thành danh mà tại sao ông cứ tiếp tục dấn thân vào con đường chính trị đầy gian nguy mà không một chút sợ hãi. Đó chính do lòng yêu nước và thương dân Hoa Kỳ đã thúc đầy ông Trump bước vào con đường gian nan nầy.


Cựu tổng thống Trump thời gian qua đã gặp phải nhiều tai ương trước các cuộc tấn công của đảng Dân Chủ chỉ với mục đích ngăn cản ông bước trở lại Tòa Bạch Ốc. Nhưng chúng ta phải ngưỡng mộ ông. Vì ông vẫn tỏ ra không lùi bước trước những khó khăn, thử thách và nhất là niềm tin mạnh mẽ của ông vào Thiên Chúa và sẳn sàng hy sinh đóng góp công sức của ông cho tương lai của Hoa Kỳ../.


NGUYỄN VẠN BÌNH , ngày 27-8-2024