Pages

Thursday, September 19, 2024

Những Người Tuổi Xế Chiều Nên Đọc

Bài này có này có lẽ đã được đăng rồi nhưng hôm nay có người bạn chuyển lại, thấy hay và hữu ích cho tuổi xế chiều nên đăng lại cho những ai chưa đọc.

  

Vòng tròn của tháng năm không ngừng luân chuyển, ngày lại ngày, thời gian trôi qua đưa tôi vào những năm tháng của tuổi xế chiều. Tôi lặng lẽ rong ruổi trong đường hầm thời gian, bất ngờ cánh cửa tư tưởng mở ra trong ngập tràn ánh hoàng hôn rực rỡ. Ngay lập tức, tôi cảm thấy toàn thân ung dung nhẹ nhõm, lòng thanh thản bình yên.

 

1. Đời người ai cũng có những lúc huy hoàng, nhưng những ánh hào quang ấy sẽ sớm bay theo gió và thoảng qua như khói tản mây trôi, ta không cần lúc nào cũng dương dương tự đắc và nhớ mãi không quên.

2. Đời người ai cũng có những lúc khổ đau, nhưng những khổ đau đó lại là bài học bắt buộc, là nấc thang trưởng thành, là của cải tinh thần quý giá của đời người. Ta không thể nghĩ đó chỉ đơn thuần là bất hạnh trong cuộc đời.

3. Khi còn trẻ, chúng ta luôn đầy những mộng tưởng viển vông về tình yêu, nhưng trên đời này không có tình yêu nào là thập toàn thập mỹ, vậy nên dù tình yêu có chỗ thiếu sót không hoàn mỹ thì cũng cần dụng tâm và quý trọng bằng cả trái tim, đừng vội nói lời phân ly. Điều quan trọng là, có một người yêu bạn thật lòng, đi cùng bạn trên mọi nẻo đường mưa nắng, luôn bên cạnh và nắm tay bạn đến cuối cuộc đời.

4. Khi còn trẻ, chúng ta luôn thích tranh giành hơn thua với mọi người, thiếu sự thấu hiểu và bao dung, thậm chí còn tạo ra những mối ân oán khó giải với ng��ời khác.

Thực sự, ở tuổi xế chiều, khi nhìn lại những năm tháng đã qua của mình, tôi thấy thật ấu trĩ và nực cười. Khi đối xử với người khác bằng thái độ khoan dung và nhân từ thì có ân oán nào mà không thể giải quyết được?

5. Khi còn trẻ, chúng ta thường chỉ chú ý đến sự nghiệp, mà quên mất rằng còn cần quý trọng thân thể của bản thân. Bởi thực ra, thân thể con người ngay lúc còn trẻ đã thường bị làm hư hại, khi về già bệnh tật đầy thân, hối hận thì đã muộn rồi.

6. Khi còn trẻ, chúng ta thường nghĩ nuôi con để phụng dưỡng lúc tuổi già, đặt nhiều kỳ vọng vào con cái, nhưng khi về già, chúng ta mới nhận ra rằng mình cần phải dựa nhiều hơn vào chính bản thân, và chủ yếu là vợ chồng về già sẽ chăm sóc nương tựa vào nhau.

7. Hầu hết cuộc sống của chúng ta đều bận rộn với sự nghiệp và gia đình, và chúng ta rất mệt mỏi. Khi về già, bạn chợt nhận ra cuộc đời thật ngắn ngủi, ông Trời không còn cho bạn nhiều thời gian, vậy nên bạn hãy nắm bắt thời gian để làm những điều mình thích, và sống thật hạnh phúc.

8. Hầu hết những người lớn tuổi trong thế hệ chúng tôi đều sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó và có thói quen cần cù tiết kiệm. Nhưng khi về già, ta cần rộng mở hơn, đừng quá coi trọng tiền bạc. Tiền bạc vốn là vật ngoài thân, nếu bạn có điều kiện, bạn nên sẵn lòng giúp đỡ mọi người.

9. Khi còn trẻ, chúng ta thường coi trọng bản thân quá mức. Nhưng khi về già, bạn sẽ dần dần hiểu ra rằng vị trí của bạn không quá lớn, bạn chỉ giống như một giọt nước trong đại dương mênh mông, vô cùng bé nhỏ. Trái đất vẫn tiếp tục quay khi không có bạn, và xã hội cũng sẽ tiếp tục phát triển mà không cần có bạn.

10. Khi về già, bạn sẽ ngày càng ít tiếp xúc với xã hội, người quen và bạn bè ngày càng ít đi, bạn sẽ cảm thấy cô đơn và lẻ loi hơn, vậy nên bạn phải học cách tự an ủi mình, học cách thắp lên ngọn đèn hy vọng cho chính mình trong đêm dài cô quạnh, học cách sống trong cô độc và lẻ loi.

11. Khi về già, bạn sẽ thực sự nhận ra rằng cuộc sống bình hoà rất thuần khiết, tình bạn bình hoà rất chân thành, nụ cười bình bình rất dịu dàng; một chút cô đơn lặng lẽ là đẹp đẽ, mộc mạc nhẹ nhàng là chân thật, vắng vẻ tĩnh mịch lòng cũng say.

12. Khi về già, sức yếu và bệnh tật, chắc chắn bạn sẽ nghĩ đến cái chết. Thật ra, sinh lão bệnh tử là quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, chúng ta nên thản nhiên đối mặt và mỉm cười coi nhẹ cái chết.

Chỉ cần một đời ngay thẳng, làm người đường đường chính chính, không hổ thẹn khi tự vấn lương tâm, ta nên dũng cảm đón nhận cái chết, nhắm mắt mỉm cười và rời khỏi thế gian mà không hối tiếc.

13. Sự sáng suốt của tuổi già

01 – Khi về già, đối mặt với sự sống chết, có lúc cần kéo dài tuổi thọ, có lúc phải buông xuôi theo mệnh.

02 – Khi về già, đối mặt với bệnh tật, có lúc phải yêu cầu bác sĩ, có lúc nên thuận theo tự nhiên.

03 – Khi về già, đối mặt với kim tiền, có lúc cần phóng khoáng, có lúc phải tiết kiệm.

04 – Khi về già, đối mặt với quốc sự, có lúc nên quan tâm, có lúc nên thận trọng.

05 – Khi về già, đối mặt với cháu con, có lúc phải làm gương, có lúc phải giao thiệp.

06 – Khi về già, đối mặt với dưỡng sinh, có lúc phải nhiệt tình, có lúc phải tuần tự.

07 – Khi về già, đối mặt với các mối quan tâm, có lúc phải nồng hậu, có lúc phải hững hờ.

08 – Khi về già, đối mặt với việc quản lý gia đình, có lúc phải tham dự, có lúc phải buông tay.

09 – Khi về già, đối mặt với những việc đã qua, có lúc cần quay đầu nhìn lại, có lúc phải bỏ qua.

10 – Khi về già, đối mặt với bất công, có lúc cần kháng nghị, có lúc phải lặng im.

11 – Khi về già, đối mặt với khó khăn, có lúc phải vượt qua, có lúc cần né tránh.

12 – Khi về già, đối mặt với sự khoe khoang, có lúc phải mỉm cười, có lúc cần im lặng.

13 – Khi về già, đối mặt với bạn cũ, có lúc phải thật lòng, có lúc không tranh cãi.

14 – Khi về già, đối mặt với hôn nhân, có lúc phải kiên trì, có lúc cần từ bỏ.

Đời người ngắn ngủi, tháng năm dằng dặc. Nhân sinh nhất thế, bất kể thành công thất bại, vui mừng khổ đau, thịnh suy vinh nhục, tất cả đều chỉ như nước chảy mây trôi, một đi không trở lại.

Vui với việc tự mình nỗ lực vươn lên, thanh bạch đạm bạc vô sầu. Kẻ làm ác sẽ gặp tai họa, người làm thiện sẽ được phúc lành. Kẻ đê hèn ắt mục nát còn người cao thượng mãi trường tồn.

 

Nhất Tâm 

Anh Vĩnh Hà chuyển

Tuổi Thơ Tuổi Già Vui Tết Trung Thu - Sương Lam

Nhìn vào tấm lịch treo trên tường, tôi thấy ngày Thứ Ba 17 Tháng 9 năm 2024 lại là ngày Tết Trung Thu năm 2024.

Thế là hôm nay tôi có đề tài để viết về Tết Trung Thu cho vui vì tôi cũng mới đi chợ mua 2 hộp bánh Trung Thu: một hộp bánh trung thu chay nhân hạt sen, nhân đậu xanh để cúng bàn Phật và Tổ Tiên, một hộp trung thu bánh thập cẩm có trứng dành cho phu quân tôi ăn vì chàng thuộc trường phái "trường mặn".

 

Mấy năm trước sức khỏe chúng tôi còn tốt, chúng tôi thường đi tham dự những ngày Lễ Tết Trung Thu do Cộng Đồng Việt Nam Oregon  và Lớp Việt Ngữ Văn Lang tổ chức đẻ chung  vui với đàn trẻ thơ dễ thương. 

Nhưng bây giờ sức khỏe suy yếu, nên vợ chồng chúng tôi đành ở nhà ngắm trăng, uống trà, ăn bánh Trung Thu cho an ổn tấm thân không còn trẻ nữa của mình vì chúng tôi không dám lái xe ban đêm nữa. 

Mỗi lần đến ngày Tết Trung Thu tôi lại nhớ đến những bài hát  mà ngày xưa tôi đã hát: 

Rước Đèn Tháng Tám 

“Tết Trung Thu đốt đèn đi chơi

Em đốt đèn đi khắp phố phường

Lòng vui sướng với đèn trong tay

Em múa ca trong ánh trăng rằm

Đèn ông sao với đèn cá chép

Đèn thiên nga với đèn bươm bướm

Em rước đèn này đến cung Trăng

Đèn xanh lơ với đèn tím tím

Đèn xanh xanh với đèn trắng trắng

Trong ánh đèn rực rỡ muôn màu”


Hay qua hình ảnh chú Cuội:

“Bóng trăng trắng ngà

Có cây đa to

Có thằng cuội già

Ôm một mối mơ...”


Tuổi Thơ

Trời xanh xanh mát

Hương thơm thơm ngát

Cùng nhau ta múa điệu ca

Cùng nhau ta hát đời ta

Nhụy hoa thanh khiết

Men hoa ngây ngất

Hát cho tâm hồn được khuây

Cũng như cánh đẹp được bay 

Sớm bắt bướm hái hoa kêu la nô đùa

Chiều lại ra dạo chơi vườn hoa

Tối quyến luyến má ba vui ca bên đèn

Rồi ban đêm nằm ngủ mơ thấy tiên

(Nguồn: Trích bài bài hát Tuổi Thơ của Lê Thương)

( Nguồn:  Nhạc trong dactrung.net)


Những người bạn “không còn trẻ nữa” của tôi ơi,  Bạn có còn nhớ những bài ca dễ thương của tuổi ấu thơ này chăng? 

 

Bình trà  và hộp trà  Mya tặng Bà Nội Sương Lam

Người viết lại lan man nhớ đến bài viết ngắn ngắn của tôi khi tham gia câu lạc bộ viết văn thuộc diễn đàn Thư Viện Việt  Nam Toàn Cầu  mà tôi là một thành viên.  Một thành viên  đã đề nghị: những học viên sau khóa học lớp viết văn của thầy Phan Nhật Nam chấm dứt, mỗi người viết một câu chuyện mà trong đó phải có mấy chữ như sau: Có lòng hận thù, sự bao dung, cảm mến, tương tư, chiếc ấm trà, điện thoại, cây chổi, cây đinh, chiếc lồng đèn.

Mỗi người tùy theo tâm tư, sở thích, nguyện vọng của mình mà viết nên một câu chuyện  với những chữ nói trên.  Thôi thì đủ trò đủ kiểu, người thì viết truyện giả tưởng, người thì viết truyện trinh thám, người thì viết chuyện vui v.. v... rất là thú vị, hấp dẫn.

Riêng tôi  đã viết  như sau, xin được chia sẻ cùng với quý bạn đọc cho vui nhé vì ít nhiều gì cũng có liên quan đến chủ đề Tết Trung Thu này.

Niềm Hạnh Phúc Bình Thường Đơn Giản

Một đứa trẻ mới sinh ra, sống hồn nhiên vô tư trong vòng tay âu yếm của mẹ cha và những người thân trong gia đình. Đứa bé lớn dần lên đến tuổi biết yêu, biết thương nhớ tương tư đến người  “chàng hoàng tử bạch mã” hay “cô công chúa diễm kiều”. Nếu hội đủ nhân duyên, tình yêu kia sẽ đi đến hôn nhân và một mái ấm gia đình được xây dựng trong đó vợ chồng con cái sống hạnh phúc vui vẻ bên nhau.


Ôi! Có hình ảnh nào đẹp hơn trong một đêm Trung Thu với vầng trăng sáng tỏ trên cao, người cha ngồi thưởng thức chung trà nóng được pha trong chiếc ấm trà đặt trên bàn gần đó. Ông lặng nhìn đàn con nhỏ đang chơi trò đốt đèn trung thu với những chiếc lồng đèn xanh đỏ vừa mới mua về.  Những đứa trẻ cười nói rộn ràng, vui vẻ.  Trong bếp, bà mẹ vừa nói điện thoại với bà mẹ ở tiểu bang xa, vừa với tay lấy cây chổi được treo trên một cây đinh để quét một vài mảnh vụn bánh trung thu rơi rải trên sàn bếp.

“Tiếng cười lời nói vang vang

 Bình thường, giản dị, thiên đàng là đây”

( Thơ Sương Lam)

 Quả thật là một thiên đàng hạnh phúc, phải không bạn?

 Thiền Nhàn

(Thiền Nhàn là bút danh của người viết khi sinh hoạt trên  Diễn Đàn Thư Viện Việt Nam Toàn Cầu)

May mắn thay, bài viết này được chọn đăng trong Tuyển Tập Văn Học Việt năm 2011 (trang 215) cùng với hai bài viết khác của người viết do Thư Viện Việt Nam Toàn Cầu ấn hành năm 2011.   Xin cám ơn lòng ưu ái của ban điều hành TVVN đã dành cho người viết.  Thế cũng vui!  Đừng tưởng “tuổi già” là “tuổi chỉ biết buồn” đâu nhé.

Bạn có muốn sống vui sống khỏe không?   Nếu muốn, xin hãy bớt lo lắng và cùng dọc với người viết một tài liệu vui vui dưới đây đã được người viết sưu tầm về chia sẻ với bạn.   Chắc chắn rằng bạn sẽ cười xòa ngay tức khắc.

Lo Lắng

Có hai chuyện phải lo lắng:

Hoặc là bạn khỏe mạnh hoặc bạn bị đau.

 

Nếu khỏe mạnh, thì chẳng có gì phải lo lắng

Nếu bị đau, thì có hai điều phải lo lắng:

Hoặc sẽ được bình phục hoặc sẽ chết.


Nếu được bình phục, thì chẳng có gì phải lo lắng.

Nếu bị chết, thì có hai điều phải lo lắng.

Hoặc lên thiên đàng hoặc xuống địa ngục.

 

Nếu lên thiên đàng, thì chẳng có gì phải lo lắng.

Nếu xuống địa ngục, thì sẽ bận tíu tít bắt tay bạn bè cũ,

còn thì giờ đâu nữa mà lo với lắng...  

Thế thì tại sao bạn phải lo lắng???  

Mời xem Board Tết Trung Thu- Mid Autumn Festival trên website Pinterest của người viết dưới đây để xem những hình ảnh đẹp khác về Tết Trung Thu để quên đi những lo lắng, nếu có.  Smile!

  Board  Tết Trung Thu- Mid Autumn Festival. https://www.pinterest.com/suonglamportland/t%E1%BA%BFt-trung-thu-mid-autumn-festival


Mời Tập Thể Dục với nhóm Sinh Hoạt Người Việt Portland cho khỏe, cho vui trong ngày Tết Trung Thu

https://www.youtube.com/watch?v=9vKB40k30zc

Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé. 

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 729-ORTB 1160)

 

Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam

https://www.pinterest.com/suonglamt/

Máu Không Nhuộm Bãi Thượng Hải - Nguyễn Văn Tới

 

Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.

Tôi đã đi đến nhiều nước trên thế giới, nhưng chưa bao giờ đến Trung Quốc. Trong chuyến du lịch vừa qua, nhóm chúng tôi, trên đường bay đến Malaysia và Japan, chuyến bay quá cảnh ở Shanghai, Trung Quốc mà chúng ta thường biết đến qua bộ phim “Máu nhuộm bãi Thượng Hải”. Đây là trải nghiệm đầu tiên của tôi với đất nước cộng sản này, nó để lại trong tôi một ấn tượng rất xấu, lưu lại trong ký ức và khó mà phai nhạt theo thời gian vì cái ấn tượng ban đầu này.

Phi cơ đáp xuống phi trường Pudong, tôi nhìn xuống bên dưới coi Trung cộng có giống với các nước cộng sản còn sót lại trên thế giới hay không, coi nó có hiện đại với những cao ốc ngất trời và đường xá thênh thang như trên TV và mạng xã hội thường hay mô tả. Quả thật, thành phố Thượng Hải có vẻ mới mẻ với nhiều xa lộ đan xen với nhau, xe cộ đi lại như mắc cửi.

Thượng Hải là thành phố lớn nhất Trung Quốc và là một trong những trung tâm kinh tế, tài chánh, thương mại, và văn hóa hàng đầu của đất nước tỷ dân này. Thành phố nằm ở bờ biển phía Đông Trung Quốc, bên bờ sông Hoàng Phố, nơi hợp lưu với sông Dương Tử trước khi chảy ra biển Đông. Từ trên cao, du khách có thể nhìn thấy tòa tháp Thượng Hải nổi tiếng (Shanghai Tower). Qua phim ảnh, thành phố này được biết đến như một sự kết hợp hài hòa giữa nét đẹp cổ kính và sự hiện đại, nơi hai nền văn hóa Đông-Tây gặp nhau, tạo nên một thành phố đa dạng và tràn đầy màu sắc.

Theo lịch trình chuyến bay, chúng tôi sẽ tạm dừng ở đây khoảng 3 giờ. Nhóm chúng tôi 6 người xếp hàng đi qua các quầy di trú và hải quan như mọi du khách khác. Phi trường đông nghẹt người đi lại vội vã và tấp nập. Các bạn trong nhóm và bà xã tôi lần lượt qua trót lọt, riêng tôi bị giữ lại rất lâu; cô nhân viên di trú người Tàu trạc gần 40 tuổi hỏi tôi nhiều câu hỏi mà đáng ra cô không được quyền hỏi. Cô ta giở từng trang cuốn sổ thông hành, nơi các nước tôi đã đi qua, ra vẻ suy nghĩ ghê lắm, cặp mắt như dính chặt vào cuốn sổ thông hành của tôi. Số là tôi hay đi làm việc ở mấy nước vùng Trung Đông, nơi mà không du khách nào muốn hoặc dám đặt chân đến. Tôi cảm thấy bực mình vì lẽ ra, cô ta không được quyền soi mói mấy nơi tôi đã đi qua.

Cô ta lật tới lật lui cuốn sổ và nhìn vào từng trang một với vầng trán cau có. Cô có vẻ như không hiểu và bị rối trí bởi những hàng chữ Ả Rập của các nước như Iraq, Afghanistan, Dubai, Barhain, Quatar …  Cô ta liên tục hỏi tôi lý do đi đến mấy nước vùng Trung Đông nhiều lần và mục đích đi chơi hay đi làm. Sao tôi ở Afghanistan nguyên một năm 2021. Tôi trả lời rằng tôi đi buôn bán làm ăn. Cô ta tỏ vẻ không tin. Sau cùng cô ta chỉ vào một hàng số trên một trang trong passport của tôi và hỏi số này có nghĩa gì. Tôi trả lời “tôi không biết và không nhớ ai đã viết con số này và ở nước nào”. Cô ta không tin và nhấc điện thoại hai ba lần gọi ai đó. Cô xì xào một tràng tiếng Tàu tôi không hiểu. Đợi cô ta gác phone xong, tôi vội nói bằng tiếng Anh rằng tôi chỉ quá cảnh ngang qua nước Tàu và sẽ không vào nước của cô, sao lại phải qua nhiều thủ tục nhiêu khê vậy. Cô ta lại nhấn mạnh yêu cầu tôi phải giải thích hàng số trong passport, tôi chán nản buông 1 câu “tôi không biết và không nhớ”.

Cô rời bàn làm việc, cầm passport của tôi chạy qua một văn phòng gần đó. Sau một hồi lâu đứng chờ, tôi bực mình lắm mà không biết phải làm gì. Cô ta trở lại với khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi và một vẻ mặt cau có khó ưa, đưa trả lại cái passport cho tôi rồi ra hiệu cho tôi đi qua. Tôi tức giận nói thêm lần nữa là tôi chỉ ghé tạm chứ không vào nước của cô, sao lại tạo ra nhiều thứ quái gở và làm mất thời giờ của nhau như thế. Cô ta hình như không hiểu và ra hiệu cho tôi “biến đi” cho rảnh nợ. Cầm cái sổ thông hành đi qua cửa ải mà lòng tôi không vui, vẫn “tâm tư và bức xúc”, cứ ấm ức cả buổi, lòng không phục với kiểu làm ăn quái đản của tên láng giềng khổng lồ này. Các bạn của tôi thở phào nhẹ nhõm khi  thấy tôi qua được xuông sẻ.

Vừa thoát cửa di trú này lại dính vào một cửa ải khác mất thêm cả giờ đồng hồ nữa. Tất cả chúng tôi cùng đặt vé một lúc với United Airlines khi còn ở Mỹ. Trên vé có ghi rõ ràng tên hãng Air China với hàng chữ Star Alliance, có nghĩa là hệ thống của họ hợp tác với các hãng hàng không khác để tạo sự dễ dàng cho hành khách về chuyến bay và hành lý. Chúng tôi phải lấy hành lý ra và ký gởi lại vào chuyến bay Air China kế tiếp. Họ đòi thêm tiền hành lý, chúng tôi trả lời là hành lý đã được trả khi mua vé của United Airlines rồi. Họ nhất quyết không đồng ý và bắt phải trả thêm, còn không cứ việc thoải mái … ở lại.

May sao, vợ chồng Khang Bích đi cùng có “data plan” liên lục địa, vợ chồng anh và chúng tôi lại có cùng một “confirmation number”, anh mở email trong phone và đưa bằng chứng ra, hành lý của chúng tôi được ký gởi dễ dàng và không bị tính thêm tiền; nhưng vợ chồng anh Bình thì khác, không nhớ đã lưu email đó ở đâu, kiếm mãi không ra, anh chị chỉ có cái boarding pass được in ra lúc khởi hành từ phi trường Maldives thôi. Hàng dài các hành khách khác nối đuôi đứng chờ cũng bực mình vì sợ trễ chuyến bay nối tiếp. Họ phải mời vợ chồng anh Bình đứng ra một bên để tiếp tục tìm cho bằng ra cái email đó. Tất cả chúng tôi thay nhau giúp anh chị tìm mãi cũng không được.

Có một điều nên nhớ, ngoài Facebook và Google bị cấm khi đến phi trường Trung cộng, chúng ta không thể nào có “free wifi” vì nó chỉ dành cho dân Trung cộng. Họ đòi 2 điều kiện để được free wifi là số phone của Tàu và địa chỉ trên nước Tàu. Du khách như chúng tôi làm sao có! Tôi đưa cái phone của anh Bình và nhờ một nhân viên gần đó điền số phone, địa chỉ của họ để tôi có wifi mà tìm kiếm email xác nhận chuyến bay. Hắn ta lắc đầu nói không được. Đất nước gì mà khốn nạn như vậy! Cả thế giới người ta đều cung cấp free wifi cho du khách ở phi trường, chỉ có nước Tàu là từ chối vì lý do … an ninh.

Cuối cùng chúng tôi yêu cầu cho gặp supervisor, xếp của quầy check-in để nói chuyện và xin giúp đỡ. Một anh chàng trên 40 tuổi, dáng người mập mạp, mặt đỏ gay vì sức nóng và công việc, tất tả bước đến. Sau khi nghe rõ chúng tôi trình bày, anh ta lục lọi trong máy tính bảng cầm tay, cố gắng giúp chúng tôi rất nhiệt tình. Ba mươi phút trôi qua mà không có gì khả quan. Mồ hôi tươm trên trán bóng nhẫy của anh. Chúng tôi thất vọng nhưng không tuyệt vọng, vẫn cố bằng mọi cách có thể. Anh chàng supervisor nói chờ ở đây, anh ta sẽ trở lại. Sau 10 phút, anh lại hối hả bước đến quầy check-in và ra lệnh cho cô nhân viên làm gì đó, chỉ thấy cô ta gõ trên bàn phím. Vài phút sau, vẻ mặt cô ta và anh supervisor tươi lên sung sướng. Quay qua chúng tôi, anh ta nói xong rồi, các vị có thể check-in và chúc thượng lộ bằng … máy bay.

Khỏi phải nói, chúng tôi vô cùng sung sướng như vừa được tai qua nạn khỏi, cám ơn anh ta rối rít. Nhìn thấy anh ta vất vả mà thương. Nếu anh ta không giúp, chúng tôi phải móc hầu bao ra mà trả tiền hành lý một cách oan uổng. Một điểm son cho anh xếp người Tàu này khiến tôi nãy giờ đang ấm ức cũng phải khen anh ta là một ông xếp rất có tâm. Quý vị khi du lịch ở Trung cộng, nên in ra cái email xác nhận chuyến bay từ ở nhà, và cả hàng chữ nhỏ phía bên dưới, còn không, nhớ đánh dấu hay lưu lại email vào nơi nào dễ kiếm nhất, kẻo bị như chúng tôi, sợ sẽ bị trễ chuyến bay.

Quay qua quay lại, chúng tôi mất hơn 2 tiếng đồng hồ chỉ để quá cảnh và gởi hành lý ở phi trường Thượng Hải rộng lớn, “hoành tráng” của đất nước khổng lồ này. Thật là phi lý đến mức không thể tin được. Các bạn tôi an ủi nói chắc hôm nay chúng ta bị xui “đi bay” không coi ngày, chứ họ khen phi trường Bắc Kinh không tiếc lời, có lẽ Bắc Kinh là bộ mặt quốc gia nên họ ứng xử khác đi chăng.

Chẳng có tí máu nào nhuộm bãi Thượng Hải như trong phim, chỉ có mồ hôi đẫm ướt lưng áo vì tất bật đi bộ và xếp hàng chờ đợi trong cái nóng bức mùa hè. Đó là kinh nghiệm cá nhân của tôi khi bay ngang nước Tàu chứ chưa đi vào nước Tàu. Chẳng biết khi vào thì sẽ ra sao. Anh bạn đi cùng cho hay, nếu cái phone của bạn có những hình ảnh “nhạy cảm” về chính trị thì nên xóa đi trước khi vào Tàu vì họ có thể bắt buộc bạn phải mở phone cho họ kiểm soát từng tấm hình, nếu họ nghi ngờ bạn.

Chỉ có đất nước tỷ dân này mới làm như vậy, không có nước nào trên thế giới ứng xử như thế, nếu có thì họ cũng làm kín đáo, không lộ liễu như chú Ba này. TO GO or not TO GO. Nếu bạn muốn đi Trung cộng thì phải chấp nhận, còn không thì ở nhà hoặc đi các nước khác.


NGUYỄN VĂN TỚI 9/2024.

Wednesday, September 18, 2024

Khóc Bạn (Về Cái Chết Của Một Bác Sĩ) - Hoàng Thế Định



Dưới đây là một trích đoạn trong hồi ký của chúng tôi:

“... Huế, những ngày tháng 3 năm 1975.

Căn cứ Dạ Lê, Tổng Hành Dinh Sư Đoàn 1 Bộ Binh.

Tại đơn vị Tiểu Đoàn 1 Quân Y, bác sĩ Bùi Hữu Út, tiểu đoàn trưởng đi họp ở Bộ Tham Mưu Sư Đoàn, tôi tạm thay thế để điều động đơn vị dù chưa chính thức bổ nhiệm tiểu đoàn phó.

Điện thoại reo, hạ sĩ quan quân cảnh ở cổng Bộ Tư Lệnh báo là có một bác sĩ Thủy Quân Lục Chiến muốn vào gặp tôi, chưa rõ là ai, nhưng nghe bác sĩ quân y, tôi vui mừng mời vào. Trong khi chờ đợi, tôi thầm đoán có lẽ đây là vị bác sĩ TQLC đã từng dẫn toán quân y của anh đến cùng làm việc với toán của tôi trong mấy cuộc hành quân phối hợp Việt-Mỹ vào những năm 71,72 tại 18th Surgery Hospital của quân đội Hoa Kỳ tại Ái Tử Quảng Trị.

Đến khi gặp người bác sĩ trẻ và lạ, tôi hơi bỡ ngỡ, bác sĩ Giang tự giới thiệu khi bắt tay tôi. Trong khi mời uống nước, tôi tò mò hỏi Giang:

- Làm sao Giang lại biết tôi?

- Tôi nghe một số đàn anh bên Nhảy Dù nói anh là tay đàn guitare Classique điêu luyện và chơi cả Flamenco nữa, nên tôi tìm đến xin anh cho thưởng thức.

- Thế anh Giang thích bài nào? Tuy trong tình trạng chiến tranh nầy tôi vẫn rất sẵn sàng làm vui lòng bạn mộ điệu.

- Tôi nghe bác sĩ Nguyễn Mạnh Tiêu nói anh chơi bản Romance hay lắm, tôi có nghe Đỗ Đình Phương độc tấu guitare bài nầy qua radio, nhưng lại không có đoạn introduction.

- Đúng vậy, tôi may mắn có đoạn introduction do Vincent Gomez soạn, bản in từ Paris và ông ta ghi đề bản nhạc là Jeux Interdits cùng với chữ “Romance d’Amour” trong dấu ngoặc đơn.

- Thế chắc anh học trường nhạc từ lâu?

- Không, thật ra tôi chẳng học trường nhạc nào cả, từ 11 tuổi, tôi tự học guitare theo sách Caruly và Léo Laurant, gia đình tôi đều chơi nhạc.

Giang ngồi chăm chú, vừa nghe vừa theo dõi từng ngón tay của tôi, dứt bản đàn, Giang còn yêu cầu tôi chơi lại đoạn introduction.

- Có dịp, tôi sẽ chép lại cho anh đoạn nhạc nầy, Giang cũng chơi guitare?

- Không, tôi không biết đàn, nhưng biết thưởng thức nhạc.

Trong câu chuyện khi hỏi về gia đình Giang cho biết anh còn mẹ và 2 em ở Sài Gòn, Giang còn thổ lộ với tôi rằng anh rất mong được phép về thăm nhà dù mình mới bổ dụng ra đơn vị không bao lâu.


Lần đầu gặp gỡ tôi đã cảm thấy mến Giang lạ lùng, dù trong bộ quân phục rằn ri, Giang vẫn toát ra một tính chất nho nhã, hiền lành và lãng mạn. Giang và tôi lại cùng một cảnh ngộ chỉ khác là vợ con tôi đang lánh nạn tại Đà Nẵng xa vùng chiến tuyến đang ác liệt, người yêu của Giang thì ở mãi tận Sàigòn.

- Và bây giờ, mình chơi bản nầy tặng cậu nhé, bản Letter à Elize (Fur Eliz) của Beethoven, chắc Giang biết bài nầy?

- Vâng, vâng, xin anh! Tôi có nghe bản nầy nhưng với đàn Piano, và... tôi lại có kỹ niệm đẹp qua bài nầy.

Rõ ràng Giang đang lắng hồn trong ý nhạc của Beethoven viết khi chờ đợi Elize, cô học trò dương cầm mà ông yêu. Ngưng đàn, tôi khẽ hát: “Au dernier rayon du soleil dort...”

Nhạc đã dừng nhưng Giang vẫn còn ngồi im thả hồn về đâu, mắt anh chớp chớp, tôi nghĩ là anh đang nhớ nhà, nhớ người yêu...

Thật ra, lúc đó, bên ngoài xa vẫn vang vọng tiếng hỏa tiển 122 ly của Việt Cộng đang nả vào vòng đai căn cứ Sư Đoàn 1.

Một lúc sau, Giang ngẩng lên nhìn tôi, thoáng ngượng ngùng, anh kéo chiếc ghế đang ngồi để phá tan không khí im lặng đó, chính tôi cũng tự trách mình đã để âm nhạc ru lòng người bạn trẻ mềm yếu và buồn nhớ, dù chỉ là nhất thời.

Tôi lại cầm đàn và rãi hợp âm Mi trưởng thật dòn khởi đầu cho bản nhạc Flamenco “Los Sitios Di Zarogoza” với thể điệu hành khúc hùng tráng, bản nhạc dài 8 phút, chấm dứt thật mạnh và dứt khoát.

Giang đứng phắt dậy, hai tay ghì chặt bàn tay tôi:

- Anh Định! Phải thành thật mà nói là... tuyệt! Cảm ơn anh rất nhiều! Mong lần khác đến thăm anh và sẽ được nghe anh đàn nữa, bây giờ tôi phải đi, phải ra tận Quảng Trị.

- Vâng, khi khác vậy. Giang đi nhé! À, có dịp gặp bác sĩ Trương Thanh Trừng, cũng TQLC, nhờ cậu nói là mình gởi lời thăm, Trừng là bạn học rất thân với mình.

*****

Chiến cuộc ngày càng xấu đi cho QLVNCH, thật sự, có nhiều đơn vị uất ức vì chưa được đối đầu với địch mà lệnh trên buộc rút lui để rồi 2 tỉnh phía bắc đèo Hải Vân gần như bị Việt Cộng khống chế trong thời gian ngắn vào cuối tháng 3 1975. Đêm 25 tháng 3, đêm cuối cùng của Huế Tự Do diễn ra ở bãi biển Thuận An, một đêm hỗn loạn cả quân và dân, và không ngờ đêm đó Giang cũng ở Thuận An mà tôi không được gặp.

******

... Thời gian hơn 1 năm lao động khổ sai ở trại 1 Ái Tử Quảng Trị, tôi không biết có Giang ở trại 3.

Tổng trại tù Ái Tử có 5 trại, trại 1 giam các sĩ quan từ cấp đại úy đến trung tá, trại 2 cho cấp sĩ quan chuẩn úy và thiếu úy, trại 3 và trại 4 giam các sĩ quan cấp trung úy và trại 5 dành cho hạ sĩ quan, binh sĩ, Địa Phương quân, Nghĩa quân cùng anh em Chiêu Hồi (quân VC về với VNCH), mỗi tiểu trại cách nhau chừng vài cây số đường đồi núi.

Mỗi tiểu trại chứa trên 500 tù binh, ban giám thị mỗi trại giam gồm chừng 30-50 bộ đội, tất cả đều trực thuộc Đoàn 76. Họ cũng tổ chức ban y tế cho tù binh thuộc từng tiểu trại, nhưng chỉ chọn các y tá sơ cấp hoặc nhân viên hành chánh quân y; còn tất cả bác sĩ và sĩ quan trợ y đều bị đưa đi lao động khổ sai. Đặc biệt ở trại 3 có vài dược sĩ và bác sĩ được đưa vào toán Đông Y đi rừng hái lá, đào rễ, bới củ về làm thuốc; trong số đó có dược sĩ Lê Bá Thuận và bác sĩ Vũ Đức Giang.


Ban quản lý tổng trại giam Ái Tử với cái tên Đoàn 76 và trạm xá là 2 cơ sở cạnh tiểu trại 3, chỉ cách nhau 10 phút đi bộ qua mấy ngọn đồi,vùng nầy gồm toàn những đồi tranh và lau lách. Trạm xá Đoàn 76 gồm một số nhà tranh vách đất trên sườn đồi thoai thoải, phần lớn trạm xá dành cho bệnh nhân bộ đội với khoảng 20 bộ đội đãm trách và kiêm việc kiểm soát trạm xá nhỏ dành cho tù binh. Họ có 1 bác sĩ, vài y tá và một nửa căn nhà làm kho thuốc. Trạm xá của tù binh chỉ gồm vỏn vẹn 1 nhà nhỏ với 4 giường cho bệnh nhân tù binh từ các tiểu trại đưa đến, nếu là bệnh nặng, có 3 tù binh trong đó chỉ có 1 người là y tá sơ cấp và 2 người thuộc hành chánh quân y được chọn coi sóc thuốc men và ăn ở cho bệnh nhân tù ngoài ra còn đảm trách những việc trồng trọt, chăn nuôi và sai vặt cho bộ đội nữa.


Tháng 5 năm 1976, một hôm bị bệnh, tôi được sung vào toán “lao động nhẹ”, “nhẹ” nghĩa là vượt 7 cây số đường núi đồi từ tiểu trại 1 đến trạm xá Đoàn 76 để cuốc cỏ tranh xung quanh các nhà nơi đây.

Sau giờ ăn trưa, được nghỉ ngơi nửa giờ, tôi nằm dài trên đất dưới mái hiên một nhà nào đó để mong được hưởng hơi mát từ đất, dưới ngọn nắng gay gắt, chói chang và gió Nam Lào hừng hực, tôi thiếp đi trong mệt mõi. Tôi được đánh thức dậy bằng mấy cái đá nhẹ vào đùi, bừng mắt thấy1 cán binh bộ đội sừng sững nhìn tôi:

- Anh là Định? Theo tôi vào làm việc!

Tôi bàng hoàng chẳng biết mình có làm điều gì sai phạm để phải bị “làm việc”, mọi tù binh đều rất sợ chữ “làm việc” vì có nghĩa là bị thẩm vấn, tra hỏi về vấn đề gì không tốt cho mình.

Theo người cán binh bộ đội vào nhà, không khí bên trong mát dịu làm tôi tỉnh táo, tôi thầm nghĩ:

- Mang thân phận tù là tận cùng rồi thì còn sợ cái quái gì nữa?

Một người bộ đội đứng tuổi với phong cách như là vị chỉ huy nhìn tôi không có vẻ gì ác cảm, giọng nhẹ nhàng làm tôi khá bở ngỡ, ông ta hỏi tôi:

- Anh là bác sĩ bên đối tượng? Anh phẩu được?

Bộ đội Cộng sản dùng từ “đối tượng” để chỉ tù binh và từ “phẩu” nghĩa là giải phẩu. Tôi gật đầu:

- Thưa, tôi là bác sĩ giải phẩu.

- Có một anh bị tai nạn lao động, cần anh vào xem.

Thế là với bộ áo quần tù lem luốc, tôi được hướng dẫn đi rửa tay. Một y tá bộ đội giọng ra lệnh:

- Rửa tay thật kỹ vào! Không có bao tay (gloves) đâu.

Tôi đang rửa tay, anh y tá bộ đội quấn lên đầu tôi một mảnh vải thay thế mũ trùm đầu, rồi dùng 1 chiếc khăn vuông gấp chéo, quàng qua mặt tôi, gọi là mask. Lúc đó trông tôi chắc là giống mấy tay cowboys trong phim Western.

Một gian nhà tranh vách đất nhỏ được gọi là phòng mỗ với bên trong được bọc kín bằng một loại vải mùng, nền là những tấm ghi sắt sân bay ghép lại.

Tôi đã giải quyết cho 1 anh tù binh trẻ thuộc tiểu trại 2, tên Huấn, cấp bực chuẩn úy bị tai nạn lao động do cuốc phải đầu đạn M72. Bác sĩ bộ đội và toán giải phẩu của ông ta định cắt bỏ cánh tay trái của Huấn sau hơn 3 giờ không tìm được mạch máu bị cắt cũng như mãnh đạn. Để chứng tỏ có nhân chứng xác nhận là họ đã tận tình cứu chữa nhưng không cách gì khác hơn là phải hy sinh cánh tay người tù trẻ, họ hỏi ý kiến anh Quý, một tù binh phục vụ trạm xá, anh ta bối rối không dám quả quyết một vấn đề quan trọng như vậy và anh đã đề nghị họ gọi tôi.

20 phút sau khi giải quyết xong trường hợp của Huấn, tôi còn phải mỗ thêm cho 1 anh tù binh khác cùng bị tai nạn do quả M72 nổ, anh nầy bị mãnh đạn xuyên má bên trái, cắt ngang hai cái răng, mọi việc tốt đẹp, từ đó họ giữ tôi ở lại trạm xá, đây là điểm y tế gọi là cao nhất và là cuối cùng cho anh em bệnh nhân tù.


Càng ngày, vùng khai hoang càng nới rộng, số anh em tù bị đẩy đi lao động khổ sai càng gặp nhiều tai nạn; phần lớn là do bom, mìn, đạn dược vung vãi khắp những nơi mà trước đây là vùng giao tranh ác liệt.

Với một số ít dụng cụ y khoa sản xuất tại Trung Quốc, điều kiện thuốc men hạn chế, phòng ốc thiếu vệ sinh... tôi phải gii quyết mọi trường hợp mỗ lớn y như là một bệnh viện. Trên nguyên tắc, trạm xá tù chỉ điều trị cho tù binh mà thôi, nhưng khi dân chúng quanh vùng gặp những trường hợp cấp cứu, phía bộ đội lại giao cho chúng tôi giải quyết, có người đã được chúng tôi mỗ nối ruột non và tạo hậu môn nhân tạo - artificial anus. Ngay cả phía bệnh nhân bộ đội, có nhiều người đã yêu cầu tù binh chúng tôi giải phẩu cho họ, để giữ an toàn, chúng tôi đã tế nhị đòi hỏi họ viết tờ cam đoan với sự xác nhận từ bác sĩ bộ đội của họ là sẽ không làm khó dễ toán y tế tù nếu xẫy ra những điều bất như ý hoặc tai nạn khó lường trong giải phẩu.

Tôi còn yêu cầu họ đóng 1 bàn mỗ theo bản vẽ thiết kế của tôi, còn về thuốc men cho tù binh ở trạm xá cũng như các tiểu trại, tôi cũng xin được bổ túc thêm, nhất là dành cho cấp cứu tại chỗ.

Vì nhu cầu y tế ngày càng tăng, tôi đã đề nghị bác sĩ bộ đội cho chúng tôi thêm nhân sự, được chấp thuận, tôi viết danh sách gồm nhiều bác sĩ và sĩquan trợ y ở khắp các tiểu trại, và họ đã chọn những người từ tiểu trại 4 trong đó có BS Trương Ngọc Hiền, thuộc TQLC và BS Nguyễn Văn Thông, Bộ Binh, cùng với 3 sĩ quan trợ y là các anh Lê Như Thành, Nguyễn Văn Tường, Lê Văn Đàn; những sĩ quan trợ y nầy trước đây là những trung đội trưởng trong đại đội quân y do tôi làm đại đội trưởng. Bam giám thị trạm xá còn dựng 1 phòng bệnh khá vững chắc có sức chứa 40 bệnh nhân tù và có cả phòng ăn kế bên, số anh em tù từ các tiểu trại bị bệnh khá nặng đều được chuyển đến trạm xá chúng tôi.


Một ngày trời mưa tầm tả và bắt đầu se lạnh của tháng 10 năm 1976, tôi đang viết danh sách số thuốc yêu cầu cho bệnh nhân tù thì liếp cửa bật mở, BS Giang bước vào, người anh ướt đẫm từ đầu đến chân, anh vừa cười vừa rũ nước trên chiếc nón vải nặng trĩu:

- Hay quá! Có anh ở đây!

Tôi rất mừng gặp bạn, nhưng sợ phạm phải tội liên lạc với người khác trại nên tôi vội bước ra ngoài nhìn qua lại xem có giám thị trạm xá thấy Giang vào đây không, không có ai qua lại, tôi yên chí cầm túi vải ướt đẫm nước của Giang vào nhà. Trong tất cả các trại giam thuộc Đoàn 76, trạm xá nầy là nơi độc nhất không có hàng rào kẽm gai vây quanh, nhưng chẳng tù binh nào dám trốn trại, vì khắp vùng đều nhan nhản bộ đội và dân quân tuần tra nghiêm nhặt.

Đưa khăn cho Giang lau mặt, tôi ái ngại nhìn bạn:

- Cậu đi đâu về mà ướt đẫm thế nầy?

- Em đi rừng đào củ Hà Thủ Ô, còn rộng thì giờ, em vào đây nghe anh đàn.

Tôi kéo bếp than nóng để cạnh bạn và đưa trà nóng cho Giang. Tôi luôn có trà nóng nhờ bếp than dùng nấu syringues và kim chích. Sau khi hít một hơi thuốc Lào dài, tôi cầm cây đàn guitare. Tù binh chúng tôi chống lại với cái lạnh buốt tới xương của vùng rừng núi ẩm thấp của phía tây Quãng Trị nầy bằng cách hút thuốc lào, một loại thuốc rẽ tiền nhất. Sau 30 tháng 4,1975, trong giấy trình diện mà họ gọi là “đi học tập cải tạo” có phần bị chú ghi “trại viên nên mang theo dụng cụ thể thao, âm nhạc...”, điều đó làm cho mọi người nghĩ rằng thời gian “học tập” chắc sẽ chỉ vài ngày hoặc vài tuần. Sự thật thì không phải học tập mà là đi tù và đơn vị thời gian không phải là ngày,tuần,tháng mà là năm hay chục năm. Biết bạn thích những bản nhạc nào, tôi đàn ngay, Giang ngồi sưởi ấm vừa nhấm nháp trà vừa nghe nhạc, sau khi chấm dứt bản nhạc Panpancuillo của Francisco Tarréga, Giang ung dung đặt chén trà xuống bàn:

- Bản nầy nghe âm hưởng như nhạc Nhật Bản, phải không anh Định?

- Đúng vậy! Giang còn nhớ bản nhạc Tranonto không?

- Tiết tấu của bản đó hay thật, nhưng nghe buồn đến héo hắt, y như cái buồn của kẻ lưu đày, của người mất nước.

Nghe lời bình phẩm của Giang qua giọng Bắc nhẹ nhàng đầy truyền cảm của anh, lòng tôi se thắt chợt nghĩ đến thân phận tù đày hiện tại của mình cũng như các chiến hữu thuộc mọi binh chủng VNCH và kể cả toàn dân miền Nam đang sống trong 1 nhà tù rộng lớn.

Tình cảm giữa Giang và tôi ngày thêm mật thiết, chúng tôi trở thành đôi tri kỷ; từ đó, mỗi lần soạn thêm bản nhạc nào hoặc có bài ca nào mới sáng tác, tôi lại nhờ mấy bạn tù thân thiết nhắn Giang sang thưởng thức.

Có lần, sau khi đã cẩn thận xem xung quanh không có ai, tôi khẽ hát cho Giang nghe đoạn nhạc mở đầu bài ca đang sáng tác:

“Huế ơi! Huế ơi! 

Em đã tắt nụ cười,

Dưới cờ đỏ máu tươi,

Xơ xác thân hao gầy, 

Đói cơm xót xa từng ngày...”

Giang gật gù thích chí, rồi trang nghiêm xuống giọng:

- Nầy anh Định! Anh đừng viết lời ca nầy ra trên giấy nhé!

Tôi thầm cảm ơn Giang đã lo lắng cho tôi, chúng tôi ngầm hiểu rằng nếu giám thị trại giam đọc được lời bài nhạc nầy, họ sẽ xử tôi với nhiều tội danh, thế là tôi đã viết nhạc ra giấy còn lời thì ghi khắc trong trí.

Một đôi lần Giang rủ Dược sĩ Lê Bá Thuận cùng sang thăm tôi, tôi cố tránh không đàn những bản nhạc quá buồn gợi Giang buồn nhớ người thân.

Trong hoàn cảnh tù đày buồn tủi, uất hận, vợ con tôi thường xuyên bới xách thức ăn, thuốc men, nhất là với tình yêu chồng, thương cha của vợ con tôi đã là một hỗ trợ lớn lao cho tinh thần tôi được xoa dịu, người thêm sức sống, lại thêm người bạn tri kỷ về âm nhạc, thật là một an ủi lớn cho tôi.


Thế rồi, năm 76 qua đi từ hồi nào, xuân 77 đến, anh em tù binh náo nức về cái Tết Đinh Tỵ sắp đến, mọi tù binh bàn tán xôn xao vì cứ mỗi dịp Tết Nguyên Đán, lại có một số người được phóng thích trước Tết. Anh em tù binh truyền miệng, thông báo cho nhau biết họ tên của những người khắp các tiểu trại giam được về với gia đình, trạm xá có BS Hiền và BS Thông cùng được nhận giấy tha, trại 1 cũng có 2 bác sĩ được ra khỏi trại đó là BS Bùi Hữu Út, thiếu tá và BS Vĩnh Tráng, đại úy.

Ban giám thị mỗi tiểu trại rất rõ về sự xôn xao trong số tù binh còn lại, họ sợ bất cứ những bàn tán, bình luận, truyền miệng nhau trong đám tù binh, từ đó có thể dẫn tới những bất mãn rồi đi đến chống đối, mà họ gọi là “phản động”. Cá nhân uất ức có thể tự gii quyết cho mình bằng cách trốn tù hoặc tự sát. Những sự việc như vậy sẽ gây tiếng vang khắp các tiểu trại và lan ra đến dân chúng, bất lợi cho họ; điển hình là trường hợp anh Q, 1 thiếu úy trẻ đã lớn tiếng chửi bới, đả đảo CộngSản. Họ đã dàn cảnh để anh Q. đi đốn củi trong rừng sâu rồi bắn chết anh rồi phao tin là Q. trốn trại và bị dân quân địa phương bắn chết. Mấy ngày sau, dân chúng đi rừng phát giác xác chết của anh Q. với áo quần tù binh, họ mang về trao cho trại, thú rừng đã xâu xé gần hết cơ thể của người tù binh xấu số.

Họ muốn dằn mặt, đe dọa tù binh bằng phương cách dã man đó, mặt khác, họ lại xoa dịu tù nhân bằng cách tổ chức những buổi sinh hoạt vui chơi, ca hát, ăn uống.. hoặc bày ra những lớp học chính trị, buộc tù binh phải phát biểu, phê bình kiểm điểm bản thân và chiến hữu.

Về sau, dược sĩ Lê Bá Thuận kể lại chi tiết về những ngày gần cuối đời của BS Giang sau đợt phóng thích tù binh nhân dịp Tết. Giang còn ở lại trong tù, anh chán chường thất vọng đến rũ rượi.

Chiều 30 Tết, trong đội của Giang, mọi người đang ngồi gom lại trong 1 căn để sinh hoạt gần cuối lán, BS Giang cáo bệnh không ăn, anh nằm trùm chăn im lặng. Bạn bè vẫn nghĩ rằng Giang bệnh, để yên cho anh ngủ, khoảng 1 giờ sau, mọi người nghe Giang vùng mạnh trong chăn rồi ự, ự lên mấy tiếng. Dược sĩ Thuận, người vẫn nằm cạnh Giang chợt nghĩ có điều gì bất ổn cho Giang, anh vụt đứng dậy, chạy lại giật tấm chăn trên người bạn, mọi người cùng xúm lại, toàn thân Giang run lên, tay chân co quắp rồi từ từ duỗi ra bất động. Thuận lay mạnh vai bạn:

- Giang! Giang! Cậu làm sao vậy?

Im lặng hoàn toàn, Thuận hốt hoảng:

- Ái! Ái ơi! Cậu xem Giang sao vậy nầy!

Nguyễn Đình Ái, Y sĩ trung úy trưng tập, cùng đơn vị với tôi. Ái giật chiếc ống nghe trên đầu nằm của Thắng, y tá trại 3, vừa nghe tim vừa tìm mạch trên cườm tay Giang. Không còn nhịp tim mạch.

Thường ngày Ái rất nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn, lúc đó anh thét lớn:

- Adrénaline ngay!

Trong khi chờ đợi y tá sửa soạn thuốc, BS Ái bảo DS Thuận xoa bóp lồng ngực Giang còn mình thì dùng phương pháp bouche à bouche (mouth by mouth) mong cứu sống bạn.

BS Ái chích Adrénaline trực tiếp vào cơ tim Giang và cùng DS Thuận tiếp tục làm cấp cứu hồi sinh, dù biết rằng nếu cứu được chỉ sẽ xẩy ra trong vài phút, nhưng BS Ái và DS Thuận vẫn cố cứu bạn suốt cả giờ. 

Vô vọng, 2 người quỳ gối bên xác bạn, BS Ái gục đầu giữa đôi vai, tay buông xuôi, rã rời, DS Thuận thì khóc như chưa bao giờ được khóc, bạn tù trong đội sững sờ, đứng im như những pho tượng. Một cảnh tang tóc thảm sầu.

Gần 6 giờ chiều, trời đã nhá nhem tối, bên phía trạm xá Đoàn 76, cách trại 3 chỉ một ngọn đồi, tôi chẳng biết chuyện gì cho tới khi BS Phan Xuân Tín, trưởng trạm xá bộ đội hấp tấp tìm tôi:

- Định, theo tao qua trại 3 có việc gấp! Mang theo túi cấp cứu!

Trên đường đi, người bác sĩ bộ đội vắn tắt với tôi về sự việc 1 trại viên vừa chết, dường như là tự tử.

Vừa thấy tôi, DS Thuận nước mắt ràn rụa, chụp lấy tay tôi, giọng lắp bắp:

- Anh Định! Giang đó... Vũ Đức Giang... chết rồi!

Như tiếng sét đánh ngang tai, tôi bng thấy đầu óc thoạt trống rỗng, sửng sốt, rồi bao nhiêu hình ảnh Giang dồn dập chen chồng ập tới. Tôi theo chân DS Thuận đi về phía Giang, đứng yên nhìn người bạn trẻ im lìm trong chăn phủ kín. Cả lán im lặng, một thứ tịch mịch đến rùng rợn, tôi cố trấn tỉnh đảo mắt xung quanh tìm BS Ái, rồi đến bên anh dọ hỏi, Ái lắc đầu thiểu não.

Ông Tín gic:

- Anh Định! Cố thử xem có làm được gì hơn không!

Tôi tin tài của BS Ái, biết chẳng còn gì cứu vãn được nữa, nhưng vẫn đến ngồi bên Giang, lật chăn để nhìn bạn lần cuối. Tôi quan sát thấy đồng tử của người bạn xấu số đã hoàn toàn nở rộng. Thật hết rồi!

Tôi ghé sát miệng Giang và ngửi mùi hăng hắc đặc biệt ở những người tự tử bằng Chloroquine. Chống tay đứng dậy, tôi cảm thấy mình yếu xui hẵn đi. Tôi hỏi anh y tá của trại 3, anh nói nhỏ bên tai tôi:

- Mất đến mấy chục viên CP (Chloroquine-Primaquine).

Sau đó anh em trong lán mỗi người một tay lo phần cuối cùng cho người bạn tù, tôi đến xin BS Tín để được ở lại với Giang một lúc, ông ta gật đầu rồi bỏ ra ngoài.

Nhà kế bên là nơi dành cho toán thợ rèn, vào dịp Tết nên lúc đó không ai làm việc, chúng tôi vào chung sức dọn dẹp đồ đạc để có một khoảng trống cho chiếc quan tài vừa đóng vội. Các bạn tù thân nhất của Giang và tôi mang xác anh ấy sang để cạnh quan tài, hầu hết anh em trong lán đều còn trẻ, chưa biết thủ tục liệm xác. Tôi nhờ 1 số anh nấu 1 nồi nước ấm rồi tắm rửa cho Giang, đang lau khô thân thể bạn, anh đội trưởng của lán mang lại đưa cho tôi 1 bộ quần áo tù mới tinh, anh nói:

- Ban giám thị vừa đem xuống cho anh Giang.

Tôi tần ngần, một ý nghĩ thoáng vụt qua, tôi đứng dậy kéo DS Thuận ra xa mọi người:

- Cậu tìm trong hành lý của Giang có bộ đồ trận nào không, mình nhớ có lần Giang qua mình chơi với bộ đồ trận.

Thuận vội vã đi và trở lại trao cho tôi một bộ áo quần bộ binh VNCH của Giang với cả đôi vớ lính, Thuận hiểu ý tôi là không muốn Giang đã chết mà còn mang bất cứ cái gì thuộc về nhà tù theo với anh.

Vừa mặc cho Giang, tôi thầm nghĩ như đang nói với bạn:

“Nếu có bộ đồ TQLC mặc cho cậu thì hay hơn, thôi đành vậy nhá! Còn lá cờ vàng ba sọc đỏ thì... bây giờ thật khó quá... Dù thế nào, cậu vẫn mãi mãi trong lòng các bạn và chiến hữu.”


Thật may mắn cho tôi, vừa đặt Giang vào quan tài thì BS Tín trở lại gọi tôi về lại trạm xá. Tôi còn dặn DS Thuận cố gắng có một bát cơm với một đôi đũa cắm lên cơm để cúng Giang, không có nhang và đèn cầy, nhưng bạn hữu trong lán mang đèn dầu tự tạo thắp xung quanh quan tài Giang sáng rực.

Đứng trước quan tài chưa đậy nắp, nhìn người bạn trẻ tri kỷ vừa là đồng nghiệp lần cuối cùng, tôi chắp tay ngang ngực rồi vái Giang hai cái, nhưng trong trí tôi vẫn nghĩ mình đang chào theo quân kỷ đối với một chiến hữu vừa nằm xuống.

Ra đến bên ngoài tôi ngỏ ý với BS Tín nói với ban giám thị cho anh em trong đội thay phiên nhau ngồi với Giang suốt đêm. Ông Tín có vẻ xúc động và hứa sẽ nói lại với ban giám thị trại 3 và ông đã giữ lời.

Về sau, trong một nhà vệ sinh, tôi tình cờ đọc được tờ viết nháp “Bản Kiểm Điểm” của BS Tín gởi chính trị viên Đoàn 76, tên Hỷ, là bạn học cũ của ông Tín. Trong bản “Tự Kiểm” ông Tín nhận khuyết điểm vì đã cho tôi ở lại trại 3 khá lâu, đủ thì giờ để sắp xếp một buổi tẩm liệm mà họ gọi là trọng thể và vô tình tạo 1 sự tổ chức có quy củ trong hàng ngủ “Quân Đội Sài Gòn” ngay trong trại tù, đó là điều họ rất lo sợ.

Tờ mờ sáng mồng 1 Tết Đinh Tỵ, giờ đưa đám BS Vũ Đức Giang. Ban quản lý trại giam chọn một số ít tù binh không cùng một đội với Giang gánh quan tài anh ra khỏi trại.

Nghĩa địa là một đồi cao với lau lách và cỏ tranh vây quanh; ở đó đã có sẵn 2 nấm mồ, 1 là của trung úy V. thuộc trại 3, anh nầy đã bị giám thị tù đánh chết và phao tin là V. thắt cổ tự tử trong hầm biệt giam; mộ thứ nhì là của đại úy Đ.R. thuộc trại 1, chết vì 1 tai nạn do chính anh gây nên. Trong 3 ngôi mộ, chỉ có ngôi của Giang được bạn tù trong toán thợ rèn làm một bia mộ bằng một tấm kẽm đục thủng lỗ thành hàng chữ với họ, tên cũng như ngày tạ thế của BS Giang.


Mấy tháng sau, một buổi chiều đầu Thu, ban quản lý trạm xá gọi tôi hướng dẫn thân nhân của BS Giang từ Sàigòn ra thăm mộ. Họ căn dặn tôi không được tiết lộ mọi tin tức về cái chết của Giang. Một người bộ đội quản lý cầm súng đi kèm tôi.

Sau khi chỉ ngôi mộ của Giang, người bộ đội ra dấu bảo tôi đứng xa 2 người phụ nữ, tôi tần ngần một lúc rồi đến chào mẹ và người yêu của Giang xong bước về hướng trạm xá, đứng ẩn trong đám cỏ tranh cao quá đầu người.

Cả 2 người phụ nữ đều gầy, mẹ của Giang tóc đã xám bạc cả đầu với chiếc khăn nhung đen vấn theo lối đặc biệt của đàn bà miền Bắc, đôi vai khẳng khiu trong bộ áo quần màu trắng ngà lấm tấm bụi đất đỏ; đôi mắt đờ đẫn mờ đục trong khuôn mặt khắc khổ hằn rõ nét đớn đau vô bờ bến của người mẹ mất đứa con trai tài danh và hiền lành.

Cô gái hãy còn trẻ lắm, đôi mắt đỏ hoe, nước mắt nhạt nhòa trên má, chảy dài xuống cằm rồi lã chã xuống chiếc áo dài trắng, đôi cánh tay nhỏ quàng qua quai chiếc nón lá Huế, hai bàn tay siết vào nhau cố ghì lại những cơn nấc rung cả người.

Nắng chiều gần tắt, từng đám hoa tranh trắng nuốt hiện rõ trên nền trời pha sắc tím hồng phất phơ trong gió, khói nhang lam nhạt là đà bay vờn quanh 2 người phụ nữ bên nấm mồ bác sĩ Giang uất nghẹn dâng tràn. Đôi bàn tay gầy gò của mẹ Giang lần mò trên đất sõi đỏ như đang vuốt ve thân thể của đứa con trai yêu dấu. Vị hôn thê của Giang tì cằm trên hai gối bó chặt trong vòng tay, nhìn chòng chọc nấm mồ với gió chiều vun vút qua hàng chữ đục thủng trên tấm bia bằng nhôm.

Trời đã ngã sang màu xám, bó nhang trên mộ đã tắt ngấm từ lâu, 2 người phụ nữ rã rời chống tay đứng dậy, họ trầm ngâm một lúc trước mộ của Giang rồi chậm rãi quay lưng, ra đến khoảng đường đất đỏ, hai người còn mấy lần quay lại nhìn lại chốn đau thương vô cùng ấy.

Người bộ đội dẫn đường cho 2 người ra lối cũ về trục lộ chính, tôi còn đứng lại bồi hồi nhìn quang cảnh đồi tranh với 3 nấm mồ, riêng trên mộ của Giang, cô gái còn để lại chiếc nón lá nằm nghiêng với chiếc khăn tay trắng đẫm nước mắt cột chéo vào giãi nón màu xanh lơ.

- Sao trên đời nầy còn có cảnh bi thương đến như thế?!

Đó là chứng tích buồn đã gây xúc động trong lòng mọi người qua lại chốn nầy, riêng tôi, cảnh chiếc nón lá của vị hôn thê đặt trên mộ người yêu còn gây ấn tượng mạnh hơn cả cảnh bi hùng với chiếc súng gắn lưỡi lê cắm lên vùng gió cát, treo đong đưa chiếc nón sắt đã hoen rĩ từ lâu theo cát bụi và thời gian của người lính đã giã từ vũ khí.


Hoàng Thế Định