Đầu tháng 6/1972, đơn vị tôi
đang làm nhiệm vụ ngăn chận đường dây xâm nhập của quân cộng sản Bắc Việt từ
Kampuchea qua ngã Hà Tiên đến Thất Sơn,dựng hàng rào kẽm gai dọc theo kinh Tám
Ngàn từ Vàm Rầy (ở khoảng giữa đường từ Rạch Giá đi Hà Tiên) thẳng đến Ba Chúc,
Tri Tôn thuộc vùng núi Thất Sơn, Châu Đốc.
Hôm đó tôi đi ca nô ra thăm Chi
Đội đang bảo vệ căn cứ hỏa lực đóng ở Vàm Rầy, mục đích là để thăm người bạn kết
nghĩa cũng là Chi Đoàn Phó của tôi, Nghê Thành Thân.
Tôi xin nói thêm một chút về
Nghê Thành Thân, con người của một thời lừng lẫy.
Hai chúng tôi cùng tuổi, nhưng
vì tôi gia nhập Quân Đội trước Thân nên coi như là niên trưởng! Lời hứa giữa
hai chúng tôi là, nếu một trong hai người chết đi, thì người còn sống sẽ đùm bọc
gia đình của người đã ra đi!
Thân rất đặc biệt, là con một của ông chủ rạp hát ở Cà Mau, tốt
nghiệp Thủ Khoa khóa Sĩ Quan Căn Bản Thiết Giáp. Ngày đáo nhậm đơn vị thì
chính ông Bố dẫn con trai đến trình diện Thiết Đoàn Trưởng với lời “gửi gắm”
xin cho con mình ra phục vụ đơn vị nào… dữ nhất! Ông Bố chịu chơi này cũng
chính là người đã nhiều lần đến quân trường để đứng từ bên ngoài dỡ hàng rào
kẽm gai lên cho con mình đang là Sinh Viên Sĩ Quan chui “lỗ chó” để “dù” về Sài
gòn, rồi hai cha con đi nhậu trong đêm, sáng trở lại quân trường! Cũng chính
ông đã nhiều lần lặn lội, vượt qua nhiều trạm của Việt Cộng để thăm con trong
vùng hành quân, lần nào cũng xách theo một giỏ xách đầy...rùa! Vì ông biết
chúng tôi khoái nhậu rùa, nhưng không dám chở rùa trên xe vì sợ...xui.
Có lẽ Thân cũng là người duy nhất
mà khi còn ở cấp bậc Thiếu úy đã có được 4 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu,
Bronze Star của Hoa Kỳ, chưa kể những Anh Dũng Bội Tinh với sao vàng, sao bạc!
Một con người mà ai cũng quý mến, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, Danh tướng
Nguyễn Khoa Nam mỗi khi có dịp họp với các đơn vị thì bất kể có sự hiện diện của
các Tư lệnh Sư Đoàn, Trung Đoàn Trưởng… ông luôn kéo Thân lên ngồi bên cạnh
ông, dù lúc đó Thân chỉ là Đại úy.
Trở lại hôm đó, khi hai anh em
uống gần hết hai hũ Ngũ Gia Bì, điểm đặc biệt khi chúng tôi uống rượu với nhau
là không ai nói lời nào ngoài câu “Mình cạn ly này…”, nhưng hôm đó thì ngoại lệ,
khi Thân trầm ngâm một lát, rồi nói với tôi:
– Trong vòng nửa tháng nữa, tôi
sẽ chết… anh Điền!
Tôi biết Thân đang nói chuyện
nghiêm chỉnh, nên hỏi:
– Tại sao anh biết?
Thân đưa tay vào ngực áo, móc
ra tượng Phật làm bằng nanh heo rừng:
– Tượng Phật báo!
Tôi thấy lòng mình chùn xuống,
không thể uống hết phần còn lại của ly rượu, tôi đứng lên đi xuống ca nô trở về
căn cứ. Khi ca nô về gần đến căn cứ thì Thiết Đoàn Trưởng gọi, bảo tôi chuẩn bị
10 phút sau sẽ có trực thăng đến bốc tôi lên Hòn Sóc gặp ông.
Tại Hòn Sóc, tôi nhận lệnh thu xếp tất cả các thứ để ngay chiều
hôm đó đưa Chi Đoàn đến Tô Châu, Hà Tiên để trình diện Bộ Chỉ Huy Tiền Phương
Quân Đoàn 4 đang ở đó. Nhiệm vụ của chúng tôi sẽ là đi Kampong Trach để giải
tỏa áp lực địch, vào bắt tay với Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh gồm Thiết Đoàn 12 KB và
Thiết Đoàn 16 KB cùng 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân do Đại tá Biệt Động Quân Phạm
Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng BĐQ Vùng 4 làm Chiến Đoàn Trưởng. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn
đang trú đóng tại thị trấn Kompong Trach. Cả Chiến đoàn đang chịu áp lực rất
nặng của Công Trường 1 CSBV từ nhiều ngày qua, Lữ đoàn 4 Kỵ Binh đã bị bắn cháy
19 thiết vận xa M113.Thiết đoàn 9 do Trung Tá Phạm Minh Xuân,Thiết Đoàn Trưởng,
chỉ huy được tăng phái vừa đến Kompong Trach lúc 11 giờ đêm, bị điều động đến
bố trí qua đêm tại khu vườn tiêu cách Thị trấn Kompong Trach 2 cây số về hướng
Tây Bắc thì bị tan nát trong vòng nửa tiếng đồng hồ, chỉ còn lại 21 chiếc M113.
Thuốc men, thực phẩm, đạn dược... thả dù tiếp tế nếu rơi ra ngoài phòng tuyến
khoảng 50 mét là coi như bỏ, không lấy được…
Chẳng lẽ lời báo trước của Nghê
Thành Thân sẽ là sự thật?
Vì quá gấp rút, chỉ có 2 chiếc
GMC dùng để chở anh em ở hậu cứ lên công tác và hơn 40 lao công đào binh đến để
làm hàng rào ngăn chận cùng một số dụng cụ, nên tôi cho lệnh ném bỏ mấy ngàn cọc
sắt và khoảng 500 cuộn kẽm gai còn lại xuống lòng kinh Vàm Rầy, nơi rộng và sâu
nhất.
Khi đơn vị đang vượt kinh ở cầu
Lỳnh Quỳnh, thì tôi đến gặp Nghê Thành Thân:
– Tình hình cũng... không có
gì! Tôi đưa Chi Đoàn đến Tô Châu, còn anh thì dẫn anh em hậu cứ với đám lao
công đào binh về nghỉ một thời gian, coi sắp xếp lại hậu cứ giùm tôi…
Thân nhìn tôi đăm đăm:
– Nhưng tại sao đi gấp quá vậy?
Không có cả thời giờ để chở cọc sắt kẽm gai về nữa…
– Thì tới Tô Châu mới nhận lệnh,
bây giờ chưa biết…
Thân đưa “cặp mắt Đại Hàn” nhìn
thẳng tôi, rồi với cái nhếch mép cười cố hữu:
– Tôi không thể bỏ anh trong trận
này được, anh Điền…
Sau đó mặc tôi nói gì thì nói,
Thân quyết không về hậu cứ. Chiều hôm đó, tại Tô Châu, tôi đã nói cho Thiết
Đoàn Trưởng và bạn cùng khóa Đại Úy Phạm Khắc Phước nghe về điềm báo của Thân để
nhờ hai người này thuyết phục Thân về hậu cứ, nhưng vô hiệu.
Sau đó tôi đưa đơn vị qua khỏi
Thạch Động khoảng 2 cây số và qua đêm ở đó.
Sáng hôm sau, trong khi chờ Biệt Động Quân đến tùng thiết, thì đơn
vị tôi và Chi Đoàn 2/2 TK của Đại Úy Ngô Văn Cứ và Chi Đoàn 1/2 TK của Đại
Úy Hà Văn Ron nhận tiếp tế nhiên liệu, riêng đạn dược thì chất vào xe đến
mức tối đa.
Đến trưa thì Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Đoàn 4 cùng với Chuẩn Tướng Nguyễn Huy Ánh, Tư Lệnh
Sư Đoàn 4 Không Quân đáp trực thăng xuống gặp tôi. Sau khi bắt tay tôi và các
Sĩ quan trong Chi đoàn, vị tướng được xếp vào hàng đầu của QLVNCH bỗng ngồi xuống,
tay cầm cây viết vẽ xuống đất để nói về tình hình chung cả nước, rồi nói về mặt
trận mà chúng tôi sẽ phải đối mặt. Ông cũng cho biết là lực lượng đi giải tỏa
Kampong Trach chỉ có chúng tôi là Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh (gồm 3 Chi Đoàn) và tiểu
đoàn 58 Biệt Động Quân mà thôi, rồi ông kết luận:
– Quân Đoàn 1 là mặt trận Quảng
Trị, Quân Đoàn 2 là Kontum, Quân Đoàn 3 là An Lộc… Còn Quân Đoàn 4 là trận
Kompong Trach này!
Ông nhìn tôi rồi tiếp lời:
– Các anh là lực lượng trừ bị
cuối cùng của Quân Đoàn 4, nếu các anh thành công, thì Quân Đoàn 4 yên. Nếu các
anh thất bại thì Quân Đoàn 4 sẽ như 3 Quân Đoàn kia.
Nói xong ông đứng lên, tôi cũng
đứng lên theo và nhìn thẳng vào khuôn mặt khắc khổ của vị tướng mà tôi hết lòng
ngưỡng mộ. Ông nhìn tôi một lúc rồi nói:
– Tôi biết Chi Đoàn của anh
“chì” lắm, cố gắng nghe anh Điền! Tôi sẽ sử dụng tối đa hỏa lực phi pháo để yểm
trợ cho các anh…
Tôi đáp:
– Trình Trung tướng, tinh thần
chiến đấu của anh em cao. Trung tướng yên tâm…
Chiều hôm đó, đoàn xe chở Tiểu
Đoàn 58 Biệt Động Quân đến, và người bước xuống xe đầu tiên lại là Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng. Sau khi xuống xe, ông đi thẳng đến một cây thốt nốt rồi đứng
đó nhìn đoàn quân ít ỏi chuẩn bị thi hành một nhiệm vụ quá lớn. Sau khi đến nói
chuyện với người bạn cũ là Đại úy Măng, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 58 BĐQ, tôi trở lại
Chi Đoàn, thì Tướng Trưởng từ cây thốt nốt đi nhanh về phía tôi, khi đến gần
tôi ông không chào đáp mà chỉ bắt tay tôi với lời dặn dò “Cố gắng nghe anh Điền”,
rồi lại quay về đứng bên cây thốt nốt!
Tối hôm đó, tôi họp các Chi đội trưởng, Nghê Thành Thân đã có một
câu mà cho đến giờ phút này, vẫn còn đầy đủ giá trị:
- Trận này coi bộ khó nuốt... Nhưng có tướng Trưởng đích thân điều
động, thì khỏi lo!
Ngày hôm sau, chúng tôi bắt đầu
nhập trận, quân đi như gió bão, chiếm từng cụm vườn, từng khu xóm… hướng về
Kompong Trach.
Đến trưa thì chạm súng, phải đến chiều hôm đó mới thanh toán xong
những ổ kháng cự. Rồi 2 ngày sau đó, chúng tôi bị cầm chân ở khu vực gần ngôi
chùa nằm cách Kompong Trach khoảng 5 cây số, vì cộng quân gài chốt ở khắp nơi.
Đến ngày thứ 6 thì chúng tôi bám sát được ngôi chùa. Đại Úy Hà Văn Ron, Chi
Đoàn Trưởng CĐ 1/2 Thiết Kỵ bên cánh trái, và Đại Úy Ngô Văn Cứ, Chi Đoàn
Trưởng CĐ 2/2 Thiết Kỵ phía sau, cứ thế chúng tôi cùng với Biệt Động Quân tùng
thiết tiến dần về hướng Bắc.
Hôm đó, trong khi yểm trợ cho
BĐQ thanh toán ngôi chùa nằm sát con lộ, tự nhiên tôi linh cảm một cái gì hắc
ám từ cánh đồng trống mênh mông bên phải, nhìn về hướng Thất Sơn. Đó là cánh đồng
lầy ngút ngàn trông như biển khơi, tôi liền điều động một chi đội cùng với Nghê
Thành Thân án ngữ về hướng đó. Khoảng một giờ sau, có lẽ tức quá, vì trong khi
anh em đang chạm súng rầm rầm mà tôi lại bố trí Thân và một chi đội hướng ra đồng
trống, Thân bỏ xe đi bộ tới gặp tôi:
– Ở đó trống quá có gì đâu Đông
Phương?
Tôi giải thích:
– Anh nằm ngoài đó án ngữ rồi
quan sát về phía Bắc dùm để trong này được yên tâm, chứ ở đây rậm quá…
Thân quay trở lại xe, khoảng nửa
giờ sau thì y như rằng, một tiếng nổ ầm ngay ngoài đồng trống (họ đánh kiểu “đội
mồ”) bắn trúng xe của Nghê Thành Thân. Không còn nghe tiếng Thân trên hệ thống
truyền tin nữa, tôi lập tức lệnh cho Chi đội của Thiếu úy Hạnh bỏ vị trí, đến
tiếp cứu Thân. Chỉ trong khoảnh khắc, ổ B41 đó bị diệt, Thân vô sự, nhưng phải
dùng xe của chi đội khinh kỵ vì xe của Thân đã bị tê liệt. Hôm đó chúng tôi lại
bị cầm chân.
Ngay sau đợt oanh kích cuối
cùng, chúng tôi lập tức tung ra đợt phản công, tràn lên chiếm giữ những nơi vừa
bị đánh bom còn đang bốc khói… Dĩ nhiên là Cộng quân phải rút lui chứ bọn chúng
cũng không dại gì mà làm những con thiêu thân trước những con chiến mã đang nộ
khí xung thiên gầm thét, giáng sấm sét lên đầu bọn VC hung tàn đó.
Anh em bên Biệt Động Quân có vẻ nhụt chí, khiến cho Nghê Thành
Thân tức giận nhảy xuống khỏi xe, rồi cùng với một Đại Đội Trưởng của họ là
Trung Úy Gia xông thẳng vào phòng tuyến địch để họ phải tiến lên theo… Thật ra
Thân không phải rời xe để đánh như Bộ Binh như vậy, nhưng trong cơn cuồng nộ
của bom đạn, Thân đã quên mình, quên cả tượng Phật…
Hôm đó Chi Đoàn tôi tịch thu được
6 máy truyền tin, 4 khẩu đại liên, một số B40, B41 và AK. Buồn cười cho ông Thiết
Đoàn Trưởng của tôi là Trung tá Nguyễn Hữu An,ông lấy máy chụp ảnh ra bảo Đại
úy Trạng chụp ảnh tôi và ông đang đứng trước đống chiến lợi phẩm, sau trận đánh
mới biết cái máy ảnh không có phim trong đó.
Trong số những chiến lợi phẩm tịch thu được, có những quyển nhật
ký. Qua những quyển nhật ký đó chúng tôi biết được chúng thuộc Công Trường 9
Cộng Sản Bắc Việt, cộng với 2 Trung đoàn 51 và 52 Đặc Công, có một thành phần
của Sư đoàn 320 mà chúng tự nhận là “Sư đoàn Thép”. (Vào thời điểm đó, Sư đoàn
320 CSBV đang tham chiến ở mặt trận KomTum ngoài vùng 2), Có những câu nhật ký
mà tôi còn nhớ rõ qua cách đọc rất tếu của Thiếu úy Hùng (Là người mang bút
hiệu “Ngụy Sài Gòn” đang quậy tùm lum trên các báo chí hải ngoại đấy!):
“Đoàn xe bọc thép của quân ngụy sài gòn mang hình đầu ngựa phun lửa, trong 3
ngày đầu đã tỏ ra hung hăng tàn ác… Nhưng những chiến sĩ anh hùng của ta quyết
giáng cho chúng những đòn trừng trị đích đáng….”, rồi Hùng kết luận: “Sắt thép
gì gặp mình cũng thành chuột lắt hết!”. Cũng vui.
Hôm sau lại chạm súng lớn,
chúng tôi bị tổn thất khá nặng. Phải rút về biên giới để tái tiếp tế, tái trang
bị.
Nhìn những anh em bị thương nằm ngồi la liệt để chờ tản thương,
bắt đầu là Đại úy Măng,Tiểu Đoàn Trưởng 58 Biệt Động Quân, rồi Đại úy Ron, Chi
Đoàn Trưởng Chi Đoàn 1/2 TK. Riêng Chi Đoàn tôi đã bỏ 2 xe, phải đôn khinh kỵ
lên làm xạ thủ đại liên, lính Biệt Động Quân thì trở thành khinh kỵ. Cũng được
tăng cường thêm một số… “tân binh” đang thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Chi
Lăng ra.
Hôm sau lại tiến vào vùng lửa đạn,
lại bị cầm chân. Có những cảnh tôi không quên được, như khi hay tin Chuẩn úy Kỳ,
một thiếu sinh quân tài hoa vừa bị thương, tôi chạy đến để gặp Kỳ thì nhìn thấy
cảnh Kỳ đang nghiến răng dùng lưởi lê tự chặt vào phần xương dưới ống quyển còn
dính lại để cho bàn chân rời hẳn đi cho đỡ khó chịu… Lúc đó lại nhận được tin
người anh cả, Tướng Ngô Quang Trưởng vừa lên đường ra đảm nhận chức vụ Tư Lệnh
Quân Đoàn 1 với mặt trận Quảng Trị… Hôm sau thì Trung tá An, Thiết đoàn trưởng,
rời đơn vị và Thiếu tá Nguyễn Văn Việt Tân lên thay thế.
Sau một tuần lễ giao tranh
không có kết quả như mong muốn, lại bị tiêu hao từng ngày như thế, tôi nhận định:
Quân cộng sản Bắc Việt đã sử dụng tối đa cách gài “chốt” trên trục tiến quân của
chúng tôi. Những chốt dày đặc này có hiệu lực ngăn không cho bên trong ra, chận
không cho bên ngoài vào, rồi khi có được những yếu tố thuận lợi như địa hình
thích hợp thì những chốt đó sẽ kết hợp với lực lượng chủ động để tấn công tiêu
diệt đối phương. Và cách đánh đó đã có hiệu quả ngăn chận sức tiến quân của
chúng tôi! Rõ ràng là chúng tôi đã bị cầm chân và bị tiêu hao từng ngày.
Như vậy, nếu muốn hoàn thành
nhiệm vụ bắt tay với các đơn vị bạn bên trong, giảm thiểu thiệt hại để bảo toàn
lực lượng thì chúng tôi phải vô hiệu hóa những chốt đó. Ở nội địa thì tôi đã từng
nhiều lần sử dụng những toán “Lôi Hổ” của tôi để đánh đêm, tiêu diệt những cái
chốt như thế… Nhưng đó là loại “chốt” lẻ tẻ để vây đồn, còn ở đây là cả một hệ
thống chốt.
Trước tình thế đó, tôi thấy rằng,
điều tiên quyết để bảo toàn lực lượng là phải bắt tay cho được Lữ Đoàn 4 Kỵ
Binh và Liên Đoàn Biệt Động Quân, rồi cùng nhau đánh trở ra. Vì nếu chúng tôi
vào bắt tay được với họ thì tình thế sẽ khác đi: Bắt tay được có nghĩa là lực
lượng đang bị bao vây tại Kompong Trach và lực lượng đi giải tỏa là chúng tôi
khi đó sẽ hợp thành một lực lượng lớn, thì việc đảo ngược tình thế là dễ dàng…
Mà sau hơn một tuần giao tranh, tôi tin chắc là chúng tôi sẽ vào được, nếu quyết
tâm!
Đây chính là một cuộc Đọ SỨC VỀ TINH THẦN. Nếu nói về cuộc đọ sức
về Kỷ Thuật, về Chiến Thuật thì dễ thôi: Cứ tận dụng khả năng di động cao, hỏa
lực mạnh của Thiết Giáp làm lợi thế chính, càn lướt qua các tuyến “chốt” của chúng
mà đi, chứ nếu cứ dừng lại để thanh toán từng mục tiêu như mấy ngày qua, thì
biết đến bao giờ mới bắt tay được, mà còn bị tiêu hao từng ngày…
Nghĩ sao làm vậy! Tối hôm đó
tôi họp các Chi Đội Trưởng để nói về ý định của mình, rồi căn dặn:
– Chỉ còn 4 cây số nữa thôi là bắt tay được với Lữ Đoàn, phải
cán lên đầu nó mà tràn vào, không cần dừng lại đánh đấm gì cả, xe nào bị bắn hư
thì cứ bỏ, không cần kéo theo. Ngày mai chúng ta phải vô tới Kampong Trach!
Sau khi các Chi Đội Trưởng đi khỏi, tôi gọi 3 đệ tử ruột của tôi
là Mảnh, Được và Ba đến:
– Nếu anh có chết, thì tụi em cố đem xác anh về cho chị Ba!
Những người em đã từng yêu cầu tôi đặt tên cho họ là toán “Lôi Hổ”
đó đã nhìn tôi buồn bã...
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi dàn
hàng ngang tiến vào những cụm vườn phía trước, không có tiếng súng bắn trả.
Chúng tôi tiến sâu hơn, vừa tiến vừa tác xạ và Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ở phía sau
cũng tiến theo, Chi Đoàn của Đại Úy Cứ đi song song bên cánh phải. Vì những hố
bom B52 dày đặc nên việc di chuyển hơi khó khăn, đến một ngôi chùa kế tiếp buộc
chúng tôi phải thu hẹp đội hình để tránh những hố bom, thì từ trên sát nóc của
ngôi chùa, một loạt đạn đại liên bắn thẳng xuống xe tôi, trúng vào phía sau
lưng ghế tôi ngồi. Bằng động tác phản xạ, tôi phóng qua bên kia pháo tháp rồi
nhảy xuống đất vừa núp vào thân xe vừa khoát tay bảo tài xế cứ tiếp tục chạy tới
và tôi chạy theo bên hông, ngay sau đó Chi Đội của Thiếu úy Hùng từ phía sau lập
tức diệt ngay ổ súng. Trở lên xe thì chiếc ghế tôi ngồi vẫn còn đang bốc khói,
đó là chiếc ghế của phi công trực thăng mà từ lâu chúng tôi lấy từ một chiếc trực
thăng bị bắn rơi, đạn không xuyên qua được, nhưng người ngồi ngay sau ghế tôi
là Thiếu úy Quyền, Tiền Sát Viên Pháo Binh thì bị bứt luôn hai chân! Sở dĩ họ
chỉ nhắm bắn vào xe tôi là vì trong khi những xe khác chỉ có một ăng ten thì xe
tôi có đến 5, họ biết ngay đó là xe chỉ huy…
Qua khỏi ngôi chùa khoảng 300
mét thì nhiều loạt đạn từ phía sau bắn rượt theo, có lẽ họ vừa hoàn hồn vì
không ngờ chúng tôi lại cán lên đầu họ mà tiến. Còn hơn 2 cây số nữa là đến
Kampong Trach, Chi Đoàn của Đại Úy Cứ bên cánh phải vừa bị bắn cháy 1 xe và anh
đang dàn hàng ngang chuẩn bị thanh toán mục tiêu. Quyền Thiết Đoàn Trưởng bảo
tôi án ngữ chờ Đại Úy Cứ. Không thể dừng lại ở đó trong tình thế như vậy, vì
như thế có khác nào đứng bất động làm bia cho địch nhắm bắn từ bốn phía, tôi lập
tức nêu lên luận cứ của mình:
– Sắp vào đến nơi rồi mà ở đó
lo thanh toán nó là sẽ bị nó cầm chân. Đó là chưa nói đến chuyện ở phía sau
mình tụi nó vẫn còn nằm nguyên đó, mình chỉ cán qua đầu nó mà đi thôi, chứ chưa
dứt điểm nó… Có nghĩa là mình coi như bị lọt giữa vòng vây, nằm lại đây chỉ làm
bia cho nó bắn! Tôi đề nghị bỏ mấy con chuột lắt đó đi, cứ tiếp tục cán qua đầu
nó mà tiến. Bắt tay được rồi, tôi bảo đảm khi trở ra, mấy con chuột đó mà ló
đuôi con nào là tôi sẽ chặt đuôi vạt mõm con nấy… Mấy ngày nay cho thấy tụi nó
chỉ là chuột lắt thôi, chứ không phải “Sư Đoàn Thép”, Trung Đoàn Đặc Công con
khỉ gì đâu.
Quyền Thiết Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Việt Tân đồng ý, thế là chúng
tôi tiếp tục tràn lên. Từ những phòng tuyến, cộng quân đã bắn trả theo kiểu
chỉa súng lên trời mà bắn chứ không dám ngóc đầu lên để nhắm bắn vì lưới lửa
của chúng tôi dày đặc. Tràn qua hết phòng tuyến này đến phòng tuyến khác, còn 1
cây số nữa là sẽ bắt tay đơn vị đầu tiên ở bên trong. Chúng tôi yêu cầu họ trú
ẩn để tránh đạn cho đến khi chúng tôi vượt qua khỏi họ, vì chúng tôi vừa tiến
vừa tác xạ, chứ không thể ngưng bắn được. Quả thật đối phương đã bất ngờ, chúng
không làm gì được ngoài việc bắn vét đuôi chúng tôi với những loạt đạn vu vơ
nghe như những tiếng thét vô vọng… Trong niềm vui đang dâng tràn tôi đã đứng
lên chộp lấy một trái xoài chín khi xe tôi đang tiến dưới bóng một cây xoài rồi
quay nhìn về phía sau, nơi xuất phát những loạt đạn vớt vát đó, tôi nghĩ đó có
thể là những cái chốt đã ngăn chận các đơn vị bị vây bên trong.
Và cuối cùng, mấy chiếc M113 của đơn vị bạn hiện ra lù lù phía
trước. Chiếc xe đầu tiên mà tôi gặp là xe của Đứa, người bạn thân khi 2 chúng
tôi còn là Chi Đội Trưởng. Sau khi bố trí đơn vị, tôi cặp sát vào xe của Đứa.
Đứa đang đứng dưới đất chờ tôi, hai anh em tay bắt mặt mừng bất kể những trái đạn
pháo của chúng đang nổ chụp ngay trên đầu.
Khoảng nửa giờ sau, khi tôi và
Đứa vẫn còn đang đứng đấu hót, thì 1 chiếc C130 từ hướng Kampong Trach rà sát
ngọn cây bay về hướng Hà Tiên sau khi thả đồ tiếp tế xuống cho các đơn vị trong
Kompong Trach, thì cả một vùng chung quanh tôi rộ lên những tiếng súng nhỏ,
súng đại liên bắn lên chiếc máy bay. Với số lượng tiếng súng nổ như thế, ít lắm
cũng phải có cả ngàn tay súng. Nhìn chiếc máy bay khổng lồ bay sát ngọn cây
trong rừng đạn bắn lên như thế, ta mới thấy được sự hy sinh của những người phi
công như thế nào. Tôi chợt nhớ lại hình ảnh mấy chiếc trực thăng bị bắn rơi mà
tôi vừa đi ngang qua lúc nãy…
Có một chuyện buồn cười là chiều hôm đó, bọn VC nhảy vào hệ thống
truyền tin nội bộ của Chi Đoàn tôi, rồi điều động như thể chúng đang tiến sát
để… diệt gọn chúng tôi vậy. Thế là mấy Chi Đội Trưởng Nguyên, Hạnh, Diện, Hùng,
Lộc được dịp đấu khẩu tiếu lâm cho đến khi chúng im, và chúng tôi phải thay đổi
tần số truyền tin. Tôi vẫn tưởng đêm đó sẽ là đêm không ngủ, vì chắc chắn chúng
sẽ “dàn chào” chúng tôi. Nhưng không hiểu sao chúng đã im lặng, có lẽ vì tổn
thất của chúng đã quá lớn. Ngày hôm sau, chúng tôi án ngữ hai bên trục lộ để
yểm trợ cho các đơn vị bên trong triệt thoái về Hà Tiên, tôi cũng đã gửi những
thương binh, tử sĩ của đơn vị tôi theo họ về trước, vì chúng tôi còn phải ở
lại.
Cuộc triệt thoái đã diễn ra êm
thắm vì cộng quân đã rút đi trong đêm đó. Sau đó đơn vị tôi cũng trở về nội địa,
giữ Quốc lộ 4 từ Trung Lương đến Bắc Mỹ Thuận, cũng là để nghỉ dưỡng quân.
Trong một tối nhậu ở quán của Mỹ Tiên tại Trung Lương, Thân đã ra vườn mận phía
sau quán cởi bỏ cái tượng Phật, không đeo nó nữa. Mỹ Tiên đã phải cầm đèn đi ra
tìm, nhưng không gặp.
Nhưng có điều là sau đó một tháng thì Thân bị thương, ở Kompong
Trabek, một mảnh đạn ghim vô ngực, phải về nằm bệnh viện, bỏ lỡ dịp đi giải tỏa quận
Kiên Lương và nhà máy xi măng Hà Tiên ngay sau đó. Khi đơn vị tôi đánh bật địch
ra khỏi quận Kiên Lương, chiếm lại nhà máy xi măng thì Thân mới trở ra đơn vị…
Để cho tâm hồn được thanh thản,
cũng là để thực hiện lời hứa với một người bạn đã chết, và trên hết vì nỗi khổ
đau của những người vợ, những đứa con, những người thân của bao nhiêu chiến sĩ
đã tử trận ở Kompong Trach trong mùa Hè 1972 đó, tôi xin nói lên một sự kiện
đau lòng sau đây để nhắc nhớ quý vị niên trưởng của chúng tôi, những cấp chỉ
huy, trong Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn trú đóng tại Kompong Trach: Là quý vị đã bỏ
rơi Tiểu Đoàn 94 BĐQ. Tiểu Đoàn BĐQ nầy nằm giữ phía Bắc Kompong Trach không hề
hay biết về cuộc triệt thoái. Khi quý vị đã an toàn về đến VN thì Tiểu Đoàn 94
BĐQ bị quân CSBV xâm lược cường tập dứt điểm. Đại úy Lâm, Tiểu Đoàn Phó tử trận
cùng bao nhiêu chiến sĩ BĐQ. Mãi đến hôm sau Thiếu Tá Ngọc, Tiểu Đoàn Trưởng
cùng khoảng 10 chiến sĩ sống sót thất thểu ra đến xe tôi. Hình ảnh Thiếu Tá Ngọc
đến bên xe tôi, không nói một lời, nặng nề cởi nón sắt và buông rơi xuống đất.
Rồi ngồi bệt xuống đất gục đầu trong khổ đau bi hận đã khiến cho anh em chúng
tôi cảm thấy mình bị phản bội bởi những cấp chỉ huy mà chúng tôi vừa vào sinh
ra tử để cứu họ.
Ít ra quý vị cũng phải báo cho chúng tôi biết còn một Tiểu Đoàn 94
BĐQ tại Bắc Kampong Trach để chúng tôi khỏi bắn lầm vào họ khi họ xuất hiện từ
xa. Chúng tôi đã bắn vào họ như thế đấy. Chúng tôi không thể hiểu tại sao Bộ
Chỉ Huy Chiến Đoàn lại phải hy sinh nguyên một Tiểu Đoàn BĐQ khi mà chiến
trường đã được giải tỏa. Chúng tôi thấy không cần thiết phải hy sinh một Tiểu
Đoàn như thế.
Xin đừng bao giờ nhắc đến những chiến công của quý vị nữa, mà hãy
đếm xem có bao nhiêu con người đã phải chết tức tưởi vì quý vị. Bên cạnh những
cái chết oan khiên đó là bao nỗi khổ đau vô vàn của những người vợ góa, con
côi, những cha mẹ, anh chị em ruột thịt, cùng những người thân yêu của họ còn ở
lại… Dẫu biết rằng chiến tranh là có chết chóc, có thương đau, là
chia ly vĩnh biệt nhưng sao nghe nghẹn ngào cay đắng quá!!!
Điền Đông Phương