Chiếc hồ nhỏ nằm ngay dưới chân núi Tam Đảo. Nước phẳng lặng, trong xanh, một thứ màu xanh lẫn lộn của nước, bầu trời tháng Tám và rừng thông mọc gần sát nước cả bốn phía, trừ phía đông, nơi có một chỗ thưa với con đường đất màu đỏ nhạt ngoằn ngoèo dẫn xuống hồ. Một vẻ đẹp thanh bình và cảm động, đến mức ông đứng ngây ra nhìn hồi lâu dù ở cái tuổi năm mươi của mình, ông đã đi nhiều và được chiêm ngưỡng nhiều cảnh sắc thiên nhiên kỳ thú. Chốc chốc, từ sau những bụi cây rậm rạp xuất hiện vài chú hươu ngơ ngác. Hươu nhà, tất nhiên, nhưng không vì thế mà giảm phần nguyên sơ hoang dã. Cách đấy không xa, cũng khuất sau những tán cây rậm, ông thấy lác đác có mấy ngôi nhà với làn khói chiều mỏng tang vấn vương trên mái. Một cảnh điền viên hiếm thấy. Khó tin rằng chỉ mấy chục cây số đâu đó phía dưới là cảnh phố phường chật hẹp, ngột ngạt với trăm nghìn cái bon chen, lo lắng.
Cãi nhau với vợ, chán nản với công việc và bạn bè, ông bỏ Hà Nội lên đây tìm nơi yên tĩnh và có vẻ như cái hồ này là chỗ lý tưởng. Ông là một họa sĩ đã đứng tuổi, có tài, học hành rất bài bản, vẽ nhiều và vẽ giỏi, đặc biệt sở trường tả thực. Tuy nhiên, khó có thể nói ông nổi tiếng trong giới. Người ta biết, nể phục nhưng chẳng bao giờ đề cao ông, có lẽ một phần vì họ không làm được cái ông làm, là vẽ rất tỉ mỉ rất giống thật. Giữa thời nhố nhăng thật giả này, ông bị coi là cổ lỗ, là “thợ nhiếp ảnh”. Hiền lành nhưng yếu bản lĩnh, có thể nói nhu nhược, ông đâm ra hận mình, hận đời, có khi đến mức độc ác. Ông thất vọng cả việc đến người thân duy nhất trong nhà là bà vợ cũng không hiểu ông nốt. Chính vì cãi nhau với bà (không phải lần đầu) mà ông lên đây.
Hôm qua vợ ông đã dùng con dao thái thịt
đâm mấy nhát vào bức sơn dầu khổ lớn ông mới vẽ xong, miêu tả vua Agamênôn, thống
lĩnh quân đội Hy Lạp đang tự tay cầm kiếm dí vào cổ con gái yêu của mình là
Iphighênia làm vật tế thần trong cuộc chiến tranh T’roa. (Ông say mê thần thoại
Hy Lạp, La Mã và vẽ nhiều tranh khai thác từ nguồn này. Đấy cũng thêm một lý do
khiến người ta không thích ông - lai Tây và xa lánh cuộc sống).Thành ra, theo truyền
thuyết thì các thần ở đỉnh Ôlimpơ thương tình cứu sống Iphighênia, nhưng giờ
đây nàng lại bị chính tay bà vợ ông đâm chết. Đâm đúng tim. Khi đau xót nhìn kỹ,
ông có cảm giác như trái tim nàng đang rỉ máu thật.
Bị căn vặn vì sao, bà vợ ông chỉ đáp:
“Kinh lắm! Tôi không chịu nổi.”
“Nhưng đây là nghệ thuật.”
“Nghệ thuật hay không thì cảnh chém giết
cũng đáng kinh tởm. Ông không biết vẽ gì tử tế hơn à?”
Ông không đáp, chỉ lẳng lặng xách túi ra
đi.
Quanh hồ chỉ có một xóm nhỏ độ hơn chục
nóc nhà, cũng sống yên bình, lặng lẽ như quang cảnh nơi này, bằng nghề nông và
gần đây thêm nghề nuôi hươu lấy nhung. Ông dễ dàng tìm được nơi ông muốn. Đó là
nhà một một cặp vợ chồng già, con cái lên thành phố làm việc nên thừa một phòng
trống. Họ bảo ông cứ ở đấy, bao lâu cũng được. Nếu muốn, họ nấu riêng cho ông,
còn không thì “mời bác ăn với vợ chồng tôi, thêm bát thêm đũa cho vui. Chuyện tiền
nong không quan trọng.”
Hai ngày đầu ông dạo lang thang quanh hồ
và khu rừng lân cận. Mọi cái tuyệt vời, chẳng bị ai quấy rầy, thế mà thật lạ,
sau phút choáng ngợp ban đầu, chiếc hồ và quang cảnh nên thơ nơi này chẳng làm
ông thanh thản chút nào. Hình như ông còn thấy khó chịu, giận dữ một cách vô cớ.
Có thể vì nó quá tương phản với tâm trạng ông chăng? Nhưng trở về Hà Nội thì
ông không muốn vì ở đấy còn khó chịu hơn.
Sang ngày thứ ba ông bắt tay vào vẽ, một
cách hậm hực, cay cú và giận dữ. Lại đề tài khai thác từ thần thoại Hy Lạp. Ông
vẽ cảnh Prômêtê bị xiềng trên vách núi đá Côcadơ, và một con chim khổng lồ màu
đen đang xé ngực moi tim chàng. Tuy nhiên, đáng lẽ vách núi dựng đứng phải ở
bên bờ biển sóng vỗ dữ dội, thì không hiểu sao ông lại thay vào đó bằng chiếc hồ
con yên tĩnh, thơ mộng này. Mà lại vẽ rất giống, rất chi tiết, có cả mấy con hươu,
mấy hòn đá xếp thành hàng từ ngôi nhà ông đang trọ dẫn xuống hồ. Con chim hung
dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông dành hết tâm sức miêu tả rất sống
động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xòe hai cánh giữ thăng bằng,
chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng. Ba
giọt máu tươi rơi phía dưới. Màu đen lông chim và màu đỏ của máu thật tương phản
nhau. Đôi mắt con chim tròn xoe, hau háu và hung dữ. Còn chàng Prômêtê cao thượng
bị thần Dớt bắt chịu hình phạt này vì tội dám lấy trộm lửa thần mang xuống cho
loài người thì chịu đựng một cách dũng cảm. Tay chân chàng bị xích vào vách núi
bằng những sợi xích khổng lồ. Người chàng cuồn cuộn các bắp cơ, đôi mắt mở to
kiêu hãnh, nhưng trong đấy cũng bộc lộ một nỗi đau ghê gớm. Nỗi đau của trái
tim bị cái kìm nhọn mỏ chim cấu rứt từng mẩu.
Tất cả những chi tiết này được ông vẽ
sinh động như thật. Chính ông cũng tự hài lòng với nghệ thuật của mình. Ông có
cảm giác như nghe được hơi thở của Prômêtê, ngửi thấy mùi tanh của máu và bị
đôi cánh khổng lồ của con chim chạm vào tay áo. Trong khi đấy, phía dưới lại là
chiếc hồ con yên ả quen thuộc, có thật và nằm ngay dưới chân núi Tam Đảo, nơi
ông vẫn hàng ngày đi dạo. Tất nhiên ông biết sự trái khoáy của hai cảnh đó.
Trong hội họa bố cục như vậy không chấp nhận được. Ông biết, nhưng đang bực
mình, đang muốn phá phách, ông bất chấp điều ấy. Thậm chí ông còn lấy thế làm
thích. Từ trong tranh con chim đen nhìn ông tán thưởng. Còn đôi mắt Prômêtê thì
đầy vẻ đau đớn. Ông không dám nhìn lâu vào đôi mắt ấy vì hình như chúng oán
trách ông. Cả chiếc hồ con cũng oán trách ông.
- Ấy chết, sao tay bác đầy máu thế? -
Ông lão chủ nhà hỏi khi vào mời khách ăn trưa, cũng là lúc ông vừa thích thú ngắm
bức tranh lần cuối và đang định bước ra ngoài.
- Đâu có, - ông họa sĩ cười. - Sơn vẽ đấy.
Rồi ông xòe cả hai tay cho ông lão xem.
Trên các ngón tay ông quả thật máu chứ không phải sơn. Loãng hơn, tươi hơn. Ở đầu
ngón trỏ tay phải có một giọt lớn sắp rơi xuống. Ông giật mình, vội chùi cả hai
tay vào chiếc tạp dề trước bụng.
- Bác vẽ gì trông kinh thế này? - ông
lão chủ nhà lại hỏi. - Sao để cho chim moi ruột gan người ta thế? Kinh quá!
Ông không đáp, chỉ gượng gạo cười vì vẫn
chưa hết ngỡ ngàng với bàn tay dính máu.
- Bác vẽ cả chiếc hồ của chúng tôi nữa đấy
à?
- Vâng. Cụ thấy có giống không?
- Có. Giống, nhưng... nhưng nó thế nào ấy.
Nước ở đây bao giờ cũng trong xanh chứ không đỏ. Bác để máu rơi xuống hồ chúng
tôi rồi. Tôi sợ lắm.
Ông họa sĩ lại giật mình ngạc nhiên. Chỗ
nước phía dưới Prômêtê quả có màu đỏ thật, dù ông nhớ không hề vẽ như thế.
*
Chiều hôm đó ông dạo lâu hơn thường lệ,
và lúc trở về do mệt, ông đi ngủ sớm. Trước khi lên giường, ông nhìn kỹ bức
tranh lần nữa. Chỗ nước hồ đỏ ông vẽ lại mấy lần, cố bôi xanh thật nhiêu nhưng
không hiểu sao chỉ lát sau lại hiện lên màu cũ. Prômêtê đang oán trách ông. Con
chim đen trâng tráo nhìn ông với vẻ thích thú không che giấu. Nó là hiện thân
Cái ác do chính ông tạo ra, thế mà giờ đây ông cảm thấy sờ sợ nó. Cảm giác sợ
hãi mơ hồ ấy len cả vào giấc ngủ.
Trằn trọc mãi hồi lâu mới thiếp đi, bỗng
ông chợt tỉnh vì nghe có tiếng động lạ. Tiếng phành phạch như tiếng quạt nan đập
vào tường. Ông lấy làm lạ nhưng vẫn nằm yên. Hình như tiếng chim vỗ cánh, loại
chim lớn, mà ngay bên cạnh. Sao lại thế được nhỉ? Chim nào vào đây và vào cách
nào khi các cửa đều đóng kín? Tiếng động còn kéo dài thêm mấy giây nữa rồi im bặt,
như thể con chim, nếu quả đúng đó là chim, đã bỏ bay đi.
Ông rón rén nhỏm dậy bật đèn và không
tin vào mắt mình. Nơi trước đây là hình con chim đen bây giờ trơ toan trắng.
Ông ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, lặng người không biết phải làm gì. Nỗi sợ âm
ỉ suốt ngày lúc này làm đầu đầu óc ông tê cứng. Một chuyện phi lý không thể tin
nổi, nhưng cái chuyện phi lý ấy đang xẩy ra trước mặt và ông không thể không
tin. Ông ghé mắt nhìn lại, sờ cả tay vào lớp vải. Vâng, chỉ lớp vải trắng thô
ráp. Thân hình lực lưỡng của Prômêtê bây giờ bị rách thêm một miếng to, trông
càng dễ sợ. Cuối cùng, như chợt hiểu ra điều gì, ông vội lấy bút, pha màu rồi cắm
cúi vẽ. Bộ ngực lực lưỡng của Prômêtê được chắp vá lại dần cho đến khi trên
tranh chỉ còn lại mình chàng nguyên vẹn. Không có con chim Thần ác, không có
trái tim bị xé vụn và những dòng máu đỏ. Ông cảm thấy đỡ sợ phần nào. Prômêtê
nhìn ông với đôi mắt biết ơn.
Hôm sau, trời mới rạng, cả hai ông bà chủ
nhà đã đến đập mạnh cửa phòng ông.
- Bác họa sĩ! Dậy đi! Bác họa sĩ! Đêm
qua nhà chúng tôi mất hai con hươu.
- Việc này liên quan gì đến tôi? - Ông
khó chịu nói, khi ra mở cửa cho họ. - Hay hai cụ nghi tôi ăn trộm?
- Ăn trộm thì không, nhưng liên quan thì
có đấy.
- Tôi không hiểu...
- Tôi nghi con này! - ông lão bước thêm
mấy bước, chỉ vào bức tranh. Con chim đen xuất hiện trở lại từ bao giờ trên
chính bức tranh mới vẽ lại đêm qua.
Cố giấu ngạc nhiên, ông hoạ sĩ hỏi:
- Vì sao?
- Vì ở đây xưa nay chưa bị mất trộm cái
gì. Vì đêm qua tôi nghe tiếng nó kêu, bay lượn quanh nhà. Bây giờ ngoài hồ còn
sót lại ít thịt nó ăn chưa hết, in rõ móng vuốt của nó. Bác theo tôi ra xem thì
biết.
Vẫn bộ quần áo ngủ nhàu nát trên người,
ông họa sĩ theo họ ra hồ. Một góc hồ nước đỏ lòm vì máu của một phần ba con
hươu chưa ăn hết nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
- Suốt đêm qua tôi không ngủ được, - bà
già luôn im lặng, bây giờ lên tiếng. - Tim tôi đau nhói, cứ như bị ai lấy kìm rứt
từng tí một...
- Cả bà cũng thế à? - ông chồng vội quay
sang phụ theo. - Tôi cũng không ngủ được. Cũng bị đau ngực. Chính là do con
chim đó! Chính nó!
*
Trưa hôm ấy, khi ăn xong trở lại phòng,
ông họa sĩ thấy bức tranh đã bị ai lấy dao cắt nát, đúng chỗ con chim đen. Miếng
vải bị cắt gấp xuống, làm thân hình nó méo mó, cổ bị chém đứt cùng chiếc mỏ sắc
nhọn và đôi mắt háu đói độc ác.
Ông họa sĩ đứng im nhìn tác phẩm của
mình, thờ ơ, không thương xót.
Một lúc sau ông già lại xuất hiện. Ông
có vẻ bình tĩnh hơn, thậm chí hơi chút ngượng nghịu. Ông lúng túng ngồi xuống,
tự tay pha ấm trà, rót vào chén đưa cho khách rồi hắng giọng hai lần, nói:
- Dân quê chúng tôi quen nói thẳng. Có
gì không phải, bác bỏ quá cho. Số là... thực tình chúng tôi không muốn bác ở lại
đây thêm nữa. Xin bác dọn đi nơi khác thật xa và càng sớm càng tốt. Bác biết đấy,
nơi này vốn yên bình, giản dị, thế mà bác đến làm xáo trộn hết bằng những cái
khủng khiếp kia. - Ông hất đầu về phía bức tranh.
- Vâng, hai cụ đã có ý thế thì tôi xin
đi, tất nhiên. Tôi đi ngay bây giờ. Có điều, xin hai cụ hiểu cho, tôi là người
hiền lành, chưa làm ác điều gì với ai bao giờ. Tôi chỉ là anh họa sĩ vẽ vời
nhăng nhít, một việc làm thiết tưởng cũng vô hại.
Ông già trầm ngâm một chốc rồi nói, giọng
buồn buồn:
- Nhưng ông vẽ ác. Vẽ ác cũng gần như
làm việc ác vậy.
*
Leo ngược hết con đường quanh co màu đỏ
gạch, ông dừng lại thở, đưa mắt nhìn lần cuối chiếc hồ nhỏ xinh đẹp phía dưới.
Nó đã lấy lại được vẻ thanh bình thơ mộng vốn có. Cạnh ngôi nhà nhỏ không xa mặt
nước có hai chấm đen nhỏ. Đó là ông bà già đã cho ông ở nhờ nửa tháng qua. Có
thể họ đang vẫy tay tiễn ông. Cũng có thể họ đứng đấy canh chừng có phải ông thực
sự đi chưa. Rồi ông quay người, chậm chạp bước về phía đường nhựa, nơi có xe về
Hà Nội. Trong đầu ông chẳng có gì ngoài nỗi buồn mơ hồ và cảm giác xấu hổ của
người vừa làm điều xấu bị người khác đuổi đi. Bên tai văng vẳng câu nói chất
phác mà chua cay của ông già:
“Nhưng ông vẽ ác. Vẽ ác cũng gần như làm
việc ác vậy.”
Hà Nội, 2003
Chán cái ông văn sĩ ngoài Bắc. Viết thần "Dớt", người không đọc sách làm sao biết đó là thần Zeus? Oa-sing-tơn, ai hiểu là Washington? Mang tiếng đi nhiều, hiểu nhiều mà viết như vầy thì chỉ biết lắc đầu.
ReplyDeleteThái Bá Tân luôn tuyệt vời! Nhưng lối viết tên ngoại quốc theo kiểu Vc thì không khá được; vừa khó hiểu và không biết đó là chữ gì để trả cứu.
ReplyDelete