Pages

Saturday, August 2, 2025

Chút Tình Vay Mượn ! - Ngân Bình


Lệ Giang ngồi thu mình trong bóng tối. Mỗi khi nghe tiếng gọi từ phía ngoài vọng vào “Lệ Giang!  ra đây mau”, con bé lại rút sát vào góc nhà hơn. Có tiếng nói rất khẽ, nhưng Lệ Giang không nghe được gì ngoài giọng nói có phần gắt gỏng hơn của ông Lập:

– Thôi! về đi, tao buồn ngủ rồi.

– ….

– Mẹ! gọi 3 lần rồi nó không ra, có nghĩa là nó không muốn gặp mày. Ép nó làm gì?

Sau một khoảng im lặng khá lâu lại có tiếng thì thào. Vẫn không thể nào nghe được dù Lệ Giang đang vểnh tai chờ đợi.

– Nghe nói hồi đó mày hùng hổ với má con Lệ Giang lắm mà sao bây giờ lại co đầu rút cổ với con vợ này. Con chằn này có nanh, có gút hơn mày nên mày sợ phải không?

Giọng nói của ông Lập càng lúc càng lè nhè hơn.

– Mẹ! sợ đến nỗi tống con gái mình ra khỏi nhà thì mày đúng là thằng cha đáng quăng vào thùng rác. Nó còn gọi mày bằng ba chứ nhằm tao hả… dẹp!  không cha con gì hết… mà hổng biết mày nghĩ sao lại đem con gái gửi cho tao. Tao cũng là thứ thất học, cộc cằn, thô lỗ chứ tốt lành gì đâu. Rủi như có đêm nào say bí tử tao mò vô phòng con Lệ Giang thì sao? Con gái mày 17 tuổi rồi, thân hình nó lồ lộ ra đó chứ đâu còn con nít. Tao cũng là con người bằng xương, bằng thịt, đến lúc ma quỷ xúi giục thì chẳng biết phân biệt tốt xấu gì hết.

Lệ Giang đưa hai ngón tay trỏ nhét kín lỗ tai nghe sống lưng nổi gai từng hồi, mắt ráo hoảnh mà sao trong lòng như khóc ngất. Những lời trần trụi của ông Lập làm nhói buốt trái tim Lệ Giang. Có lẽ, chẳng bao giờ ba nghĩ đến những điều bất trắc có thể sẽ xảy ra cho đứa con gái mồ côi mẹ tội nghiệp này. Điều quan trọng nhất đối với ba bây giờ là làm sao để giữ được người đàn bà đang làm cho ba say đắm dù bà không phải là vợ hiền, quanh năm suốt tháng chỉ biết tận tụy hy sinh lo cho chồng, cho con như người mẹ đáng thương của Lệ Giang. Những vật dụng trong nhà do chính mẹ mua sắm bằng sự dành dụm, chắt chiu đều bị người đàn bà đó bán mắc, bán rẻ để có tiền nướng vào sòng bạc. Ngay cả những món nữ trang mà mẹ sắm cho Lệ Giang bà cũng tóm thu cho bằng được, chỉ còn lại sợi dây chuyền thánh giá của mẹ để lại Lệ Giang đã cất giấu ở một nơi bí mật. Đây là kỷ vật cuối cùng của mẹ nên dù bị chửi mắng, đánh đập, Giang cũng quyết không hé môi. Trận chiến dai dẳng này cuối cùng đã kết thúc khi  bà buộc ba phải chọn một trong hai người. “Nếu con quỷ nhỏ này còn ở trong nhà thì tôi đi. Tôi cho anh chọn một trong hai”. Người cha nhu nhược, xem trọng tình yêu đôi lứa hơn tình phụ tử đã đành lòng đem đứa con gái duy nhất của mình gửi cho người bạn cũ. Một người mà từ bé đến lớn, Lệ Giang chưa hề gặp mặt.

Với khuôn mặt sạm đen cằn cỗi, người đàn ông đáp lại vòng tay khoanh tròn và câu chào lễ phép của Lệ Giang bằng ánh mắt lạnh lùng. Cái nhìn chằm chặp từ đôi mắt lừ đừ chỉ khiến Lệ Giang muốn tung cửa chạy ra ngoài khi ba vừa đứng lên. Nhưng chợt nhớ đến khuôn mặt đằng đằng sát khí của bà mẹ kế và câu nói cứng rắn đầu tiên của mình “Dù không có chỗ dung thân tôi cũng không thèm ở lại đây để mỗi ngày phải đối diện với một con người xấu xa, độc ác như bà”. Lệ Giang nắm chặt thành ghế tự nhủ “Bây giờ và mãi mãi nơi chốn đó không còn là mái ấm của mình nữa”. Có lẽ, ba của Lệ Giang cũng thấu hiểu được tâm trạng bơ vơ, lạc lõng cùng nỗi sợ hãi của đứa con gái chưa đến tuổi trưởng thành đã phải long đong không nơi nương tựa nên ngọt ngào hứa hẹn:

– Con ở tạm với bác Lập một tuần. Ba sẽ cố gắng liên lạc với dì Bê rồi đưa con về đó.

Dù biết lời hứa ấy có thể chẳng bao giờ thực hiện được vì ba mẹ và dì Bê đã không còn liên lạc với nhau hơn 10 năm sau một trận cãi vã kinh thiên động địa nhưng Lệ Giang vẫn  bấu víu vào đó như một niềm hy vọng nhỏ nhoi trong những ngày chờ ba trở lại.

Và một tuần của ba đã trở thành một tháng, rồi sáu tháng, rồi một năm. Trong ngần ấy thời gian lê thê, ba chỉ đến thăm Lệ Giang vỏn vẹn có 3 lần. Sự trông ngóng rã rời khiến tâm hồn Lệ Giang tràn đầy nỗi oán giận và cơn giận của Lệ Giang càng đầy ứ mỗi khi bị người đàn ông dữ tợn, khô khan, không chút tình cảm này trút hết mọi sự bực bội lên đầu vì những chuyện không liên quan đến Lệ Giang, làm con bé hoảng sợ đến mất hồn, mất vía. Có lúc, Lệ Giang muốn trốn đi nhưng bản tính vốn nhút nhát lại không có một đồng một cắc trong túi nên cứ tưởng tượng đến những hiểm nguy có thể xảy ra cho một đứa con gái cô thân độc mã là Lệ Giang chùn chân và đành dẹp ngay ý tưởng đó. Đã có nhiều lần Lệ Giang tự hỏi “Mình sẽ phải sống chung với con người lạnh lùng này đến bao giờ?”.

Bỗng có một hôm, Lệ Giang bất ngờ nhìn thấy khuôn mặt ông thật hiền lành, ánh mắt ông thật nồng nàn, trìu mến khi ngồi trước bàn thờ nhìn lên khung ảnh vợ con. Hình ảnh tuyệt vời đó đã bừng lên niềm cảm xúc mãnh liệt trong lòng Lệ Giang. Con bé nghĩ, người đàn ông này vượt trội ba mình ở tấm lòng chung thủy và người đàn bà trên kia cũng diễm phúc hơn người mẹ bất hạnh của mình nhiều.

-oOo-

Chuông báo động reo lên inh ỏi vì khói nhang từ phòng Lệ Giang bay ra. Ông Lập hối hả chạy vào, lớn tiếng la hét:

– Mày làm gì vậy? Bộ tính đốt nhà tao hả?

Lệ Giang run bần bật, cuống quýt trả lời:

– Dạ… không phải. Con…

– Con…  con cái gì? Mày có muốn tao tống cổ mày ra khỏi nhà không?

Lệ Giang òa khóc:

– Xin lỗi bác… Hôm nay là ngày giỗ của mẹ con. Con đốt nhang và giấy tiền mã để cúng mẹ.

Bàn tay đang bóp mạnh bờ vai nhô xương của Lệ Giang như lỏng dần và rơi xuống. Nhìn đứa con gái đang co rúm trong nỗi sợ hãi gương mặt đỏ rần của ông Lập dịu xuống dần. Lắc đầu nhè nhẹ, ông cúi đầu lững thững bước đi không nói thêm câu nào. Ra phòng khách, đưa mắt nhìn lên khung ảnh vợ con, ông Lập mới chợt nhớ, không biết từ bao giờ, trên bàn thờ lúc nào cũng được lau chùi sạch sẽ và tươm tất với một bình hoa sặc sỡ đủ màu. Không phải hồng, cũng không phải cúc mà chỉ là những nhánh hoa dại không tên, mọc men theo lối đi ở phía bên kia đường nơi dành cho những người chạy bộ, bên cạnh chợ Kroger, ngôi chợ ông thường sai Lệ Giang đi mua vài thứ vặt vãnh. Ông Lập cảm thấy lòng nao nao. Ông biết sự lạnh lùng, nghiêm khắc của mình làm Lệ Giang sợ sệt nhưng con người ông vốn không biết bộc lộ tình cảm nên không thể làm khác hơn được. Thấy Lệ Giang thui thủi một mình trong căn nhà lặng lẽ này với ánh mắt lúc nào cũng lấm la, lấm lét ông cảm thấy tội nghiệp. Nhiều khi, ông muốn biểu lộ một vài cử chỉ thân thiện mà sao cảm thấy ngượng ngùng nên tự bào chữa, đồng ý cho nó ở lại trong căn nhà này cả năm trời trong khi  ba nó biệt tăm chẳng bén mảng đến, chắc cũng đủ cho đứa con gái bất hạnh này biết ông không phải là người thiếu lòng nhân đạo. Thật tình, ông rất cảm động khi mỗi buổi sáng bước ra phòng ăn, thấy trên bàn bữa điểm tâm dành cho ông đã được bày sẵn. Những lúc đau ốm, con bé cũng săn sóc ông chu đáo từ viên thuốc, ly nước chanh mật ong ấm hay chén cháo nóng hổi.

Tháng trước là ngày giỗ của vợ con ông. Đi làm về ông đã thấy trên bàn thờ có nhang đèn, hoa và vài món ăn nóng sốt, mỗi thứ một dĩa nhỏ. Khi ấy, mắt ông cay xè nước mắt ứa ra khiến ông phải quay đi để che giấu nỗi xúc động. Bao năm rồi ông có biết cúng kiếng gì đâu ngoài việc vùi đầu vào men rượu để quên cái ngày định mệnh oan nghiệt đã mang vợ con ông ra khỏi cuộc đời này bởi một tai nạn tàn khốc.  Khi cảm nhận được sự ấm áp tỏa ra theo những làn khói hương bao quanh bàn thờ ông muốn ngỏ ý cám ơn Lệ Giang mà lời thoát ra từ cửa miệng y như ra lệnh:

– Ngồi xuống đây.

Ông lúng túng không biết nói gì thêm. Lệ Giang cũng bối rối vì chưa lần nào ngồi chung bàn với ông trong bữa cơm. Cuối cùng, khi nhìn thấy ánh mắt của Lệ Giang long lanh những ngấn nước ông cười thành tiếng để che lấp sự ngượng ngịu:

– Bữa nay đám giỗ mà.

Dừng một lát ông Lập nói tiếp bằng giọng ngọt ngào mà hơn một năm dài sống cùng với ông Lệ Giang chưa từng được nghe.

– Ngày mai, đem ảnh của mẹ mày đặt lên bàn thờ để hai bà làm bạn cho vui.

Đôi mắt nâu của Lệ Giang như rực lên với ân huệ bất ngờ. Cũng từ đó, không khí trong nhà bớt tẻ nhạt và đôi khi có tiếng xì xào trò chuyện phá tan bầu không khí yên ắng, hiu quạnh.

-oOo-

Tiếng mở cửa rất khẽ, nhưng cũng đủ cho Lệ Giang giật mình sau giấc ngủ nửa mê, nửa tỉnh. Có tiếng chân bước đến gần giường và cái bóng đen sừng sững trước mắt Lệ Giang từ từ cúi xuống. Hơi thở thật gần. Phải làm sao? Câu hỏi được đặt ra nhưng không có câu trả lời. Trong căn phòng tối om, đôi mắt Lệ Giang nhắm híp trong cảm giác đông cứng, chờ đợi với nỗi hãi hùng. Nhớ lại câu nói của ông Lập “Tao cũng là con người bằng xương, bằng thịt, đến lúc ma quỷ xúi giục thì chẳng biết phân biệt tốt xấu gì hết”. Lệ Giang rùng mình nghĩ đến tai họa sắp đổ xuống cho mình. Con bé muốn làm điều gì đó nhưng toàn thân như bị đóng dính vào mặt giường khi bàn tay đặt lên trán của Lệ Giang vuốt nhẹ xuống đôi má nóng bừng. Lệ Giang nín thở, chờ đợi cái bóng đen đổ ập xuống thân thể của mình. Nhưng… tất cả đã dừng lại ở đó. Một chập sau có tiếng ông Lập lầm bầm:

– Sao mà nóng dữ vậy trời. Hổng biết nó bị cái gì mà nằm vùi hai ngày rồi. Cái thằng cha quỷ dịch khốn kiếp, cho hay từ bữa qua đến nay mà có thấy mặt mày nó đâu. Đứa con gái hiền lành, ngoan ngoãn như thế này mà bỏ đành, bỏ đoạn. Mày có phước quá mà hổng biết, chứ còn tao đây -giọng nói như nghẹn lại- nhiều lúc… tao ao ước đứa con gái này là con của tao để tao yêu thương, chăm sóc nó.

Tiếng chân bước trở ra cùng tiếng thở dài nhè nhẹ. Nước mắt của Lệ Giang nhòe nhoẹt trên khuôn mặt tự bao giờ. Cơn đau hình như tan biến trong lời thố lộ chân thành của một người mà trước đây vài phút trong thâm tâm của Lệ Giang vẫn là người không lạ nhưng rất xa, xa mù mù trong tình cảm giữa người và người. Khi mảnh khăn mát lạnh vừa phủ lên trán, Lệ Giang đưa tay giữ chặt bàn tay còn ướt sũng nước nói bằng giọng nghẹn ngào:

– Con cám ơn.

Ông Lập lùi lại, đứng thẳng người lên. Chút bối rối lẫn trong lời phân bua:

– Dậy rồi hả? Trán… nóng quá… sáng mai đi bác sĩ xem sao? Thôi ngủ đi.

Lệ Giang ngồi bật dậy ôm lấy cánh tay ông Lập:

– Con gọi bác bằng ba được không?

– Hả?

Lệ Giang lặp lại câu hỏi lần nữa. Ông Lập cười khỏa lấp:

– Tao mà giành chữ đó chắc ba mày lấy mạng tao quá.

– Ngày trước, những lúc con bệnh ba con chưa bao giờ lo lắng như bác đã lo cho con.

Lệ Giang tựa đầu vào cánh tay xương xẩu của ông Lập, giọng trìu mến:

– Ba! Con cám ơn ba.

Ông Lập vỗ nhẹ lên mái tóc rối bù của Lệ Giang. Nước mắt ông ứa ra. Lần đầu tiên, ông gọi Lệ Giang bằng tiếng con ngọt ngào. Tiếng con mà từ ngày đứa con gái mười hai tuổi của ông qua đời, ông chưa từng gọi ai bao giờ.

– Ừ! được rồi. Thôi ngủ đi con.

Khép cửa phòng ông Lập bước ra ngoài lòng như ấm lại khi thầm nghĩ, từ bây giờ cuộc đời ông sẽ bước vào khúc quanh mới. Lệ Giang – đứa con gái mồ cô mẹ, bị cha bỏ rơi – và ông – người đàn ông goá vợ, đơn độc trong quãng đời còn lại – sẽ nương tựa vào nhau để cuộc sống vơi đi sự bất hạnh. Ông tin rằng, với thời gian, với tấm lòng chân thật, cả hai sẽ làm cho căn nhà này trở thành một mái ấm. Và ông tự hứa, mình sẽ xứng đáng là một người cha dù chỉ là người cha trong chút tình vay mượn.


Ngân Bình 

Chỉ Có Ở VN

Trong XHCN /VNCS :có những đầu óc thật đỉnh cao.

Tặng tranh cho người Mù

Chuyện khó tin nhưng có thật... Tại Việt Nam CS 


Lượm trên mạng

Amanda Nguyễn – Bay Lên Vũ Trụ, Rơi Xuống Ba Đình - Lê Thanh Tùng

Amanda Nguyễn – Bay lên vũ trụ, rơi xuống Ba Đình

Lê Thanh Tùng - quan sát từ Washington DC

Ngày trước, mỗi khi nhắc đến Amanda Nguyễn, cộng đồng người Việt ở hải ngoại đều cảm thấy tự hào. Cô là một cô gái gốc Việt sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ, thông minh, xinh đẹp, học vấn cao, và đặc biệt là có trái tim hướng về công lý. Amanda từng vận động thành công Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật bảo vệ nạn nhân bị tấn công tình dục, được đề cử Giải Nobel Hòa bình, và là diễn giả tại nhiều diễn đàn quốc tế lớn như Liên Hợp Quốc, TED Talk... Cô từng được xem là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ người Việt trẻ trưởng thành nơi xứ người – vừa thành đạt, vừa ý thức trách nhiệm xã hội, lại vừa mang trong mình bản sắc Á Đông.

Đối với nhiều người Việt tị nạn cộng sản, Amanda không chỉ là niềm tự hào. Cô còn là biểu tượng. Một biểu tượng của tự do, của nhân quyền, và của cái đẹp đạo đức giữa một thế giới vốn nhiều thỏa hiệp và giả dối. Tên tuổi Amanda được chia sẻ rộng rãi trong cộng đồng. Người ta gọi cô là “con cháu Việt Nam,” “niềm hy vọng mới của giới đấu tranh,” và kỳ vọng cô sẽ tiếp nối ngọn lửa lý tưởng của những thế hệ người Việt tị nạn từng hy sinh vì lý tưởng tự do.

Nhưng rồi, mọi thứ thay đổi. Và như người ta vẫn nói: chính trị là thứ khiến mọi quỹ đạo đều có thể… lệch hướng.

Từ tàu vũ trụ Blue Origin đến trụ sở Đảng Cộng sản

Mới đây, Amanda Nguyễn được chọn tham gia chuyến bay vào vũ trụ trên tàu Blue Origin, một chương trình của tỷ phú Jeff Bezos. Cô mang theo một món quà đặc biệt – hạt giống sen, loài hoa tượng trưng cho sự thanh cao, cho tâm linh, và cho văn hóa phương Đông.

Tưởng chừng món quà ấy sẽ được cô gửi lại cho một tổ chức quốc tế, hay ít nhất là dành tặng cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại – những người từng cổ vũ, chia sẻ và góp phần nâng bước cô trên hành trình xây dựng tên tuổi.

Nhưng không.

Amanda đã chọn mang món quà ấy về trao tặng cho chính phủ Cộng sản Việt Nam.

Không những thế, cô còn xuất hiện trong hình ảnh trang trọng tại Phủ Chủ tịch, ngồi trò chuyện, cười nói thân mật cùng Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân. Báo chí nhà nước đưa tin rầm rộ. Các kênh truyền hình quốc doanh thi nhau tôn vinh. Và thế là, một chiến dịch tuyên truyền được kích hoạt hoàn hảo: một người Mỹ gốc Việt nổi tiếng, đại diện nhân quyền, nay trở về “đóng góp xây dựng quê hương,” “trao tặng món quà từ vũ trụ cho Tổ quốc.”


Khi “tị nạn cộng sản” trở thành vé khứ hồi hạng thương gia

Nhiều người Việt hải ngoại, đặc biệt là những ai từng vượt biển, từng sống chết để rời khỏi chế độ cộng sản, đã bàng hoàng.

Tấm danh “tị nạn cộng sản” – vốn được xây dựng bằng máu, nước mắt và hy sinh của hàng triệu người – giờ đây bị một số người biến thành một tấm vé khứ hồi, khởi hành từ Mỹ, hạ cánh tại Hà Nội, có thảm đỏ đón tiếp, có hoa sen trao tay, có cả chụp hình bắt tay lãnh đạo, xuất hiện trên truyền hình quốc doanh như một “nhân vật kiểu mẫu.”

Nếu Amanda từng được xem là đại diện cho tiếng nói của người yếu thế, từng đứng về phía những người bị đàn áp, thì việc cô quay về Việt Nam, xuất hiện bên cạnh đại diện của một chính quyền vẫn đang bị lên án vì đàn áp tự do ngôn luận, bỏ tù người bất đồng chính kiến, đàn áp tôn giáo, và kiểm soát báo chí – thì điều đó chẳng khác nào một cái tát vào lòng tin của những người từng tôn vinh cô.

Ở quê nhà Việt Nam, dân gian có một câu nói cay nghiệt nhưng chính xác cho trường hợp như vậy:

“Con gái đái mồ cha” – chỉ những người quên gốc, phản bội lý tưởng của tiền nhân, sẵn sàng quay lưng với quá khứ để tìm lấy một chút hào quang ngắn ngủi nơi quyền lực.

Ngọn đuốc nhân quyền… hóa thành đèn lồng tuyên giáo

Amanda từng phát biểu mạnh mẽ về nhân quyền, từng khóc trên sóng truyền hình khi kể về công lý cho những nạn nhân bị xâm hại, từng hô vang khẩu hiệu đấu tranh vì sự thật.

Thế nhưng, khi ngồi đối diện lãnh đạo cộng sản, Amanda không hề nhắc đến các tù nhân lương tâm đang bị giam giữ tại Việt Nam.

Không có lấy một lời cho Trần Huỳnh Duy Thức, Trương Minh Đức, Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Trung Tôn hay Trần Thị Xuân …

Không có một dòng nào nói đến các nhà báo độc lập, các giáo dân bị cướp đất, hay những người dân bị cưỡng chế thô bạo.

Cô không nói gì. Cô chỉ cười. Và trao một hạt sen.

Một hạt sen không có mùi bùn, cũng không mang ý nghĩa khai sáng, mà chỉ đơn thuần là công cụ làm đẹp cho một chiến dịch truyền thông của Đảng.

Đấu tranh kiểu showbiz – váy đẹp, đèn sáng, và thông điệp rỗng

Câu chuyện Amanda khiến nhiều người vỡ lẽ:

“Đấu tranh vì công lý” giờ đây có thể chỉ là… một chiếc váy đẹp trên sân khấu, một bài diễn văn lặp lại công thức, một cái tên PR được xây dựng kỹ lưỡng để được mời lên truyền hình, được chụp ảnh cùng lãnh đạo, được trao giải thưởng, và được xuất hiện trên trang nhất của các báo.

- Khi có camera quốc tế, thì là “nhà hoạt động nhân quyền.”

- Khi về tới Hà Nội, thì là “người con của quê hương.”

- Khi đứng trước dân chúng Mỹ, thì là tiếng nói công lý.

- Khi đứng trước lãnh đạo cộng sản, thì là “cầu nối thiện chí.”

Đáp xuống sai chỗ, mọi thứ đẹp đẽ cũng trở nên lạc lõng

Amanda Nguyễn đã từng bay rất cao – không chỉ trong nghĩa bóng, mà cả nghĩa đen, khi cô rời khỏi bầu khí quyển Trái đất. Nhưng rồi, cú đáp của cô lại rơi đúng vào nơi mà hàng triệu người Việt đã từng cố gắng rời đi bằng mọi giá – thậm chí là đánh đổi bằng cả mạng sống.

Hạt sen từ vũ trụ là một biểu tượng đẹp.

Nhưng khi được trao vào tay kẻ đã làm vẩn đục cả một nền văn hóa, thì nó không còn mang ý nghĩa thanh khiết nữa.

Câu chuyện này là lời nhắc nhở thẳng thắn và đắng cay:

Không phải ai từng được vinh danh cũng xứng đáng với niềm tin.

Không phải ai khoác danh “nhân quyền” cũng là người dám bảo vệ sự thật.

Và không phải ai mang dòng máu Việt cũng đứng về phía người Việt đang chịu đau khổ.

Friday, August 1, 2025

Chiếc Bánh Và Người Lính Trận - Đoàn Xuân Thu


Kỷ niệm 50 năm Sài Gòn lọt vào tay Cộng Sản (1975-2025)

Chiếc bánh nhỏ và người lính già: Một chuyện tình người giữa thời buổi bạc màu.

“Hẹn mai gặp lại.” Câu nói tưởng đơn giản, nhưng là cả một bài học nhân sinh: Giữa thời buổi lọc lừa, chỉ cần một chút tình người cũng đủ cứu một linh hồn.

Người lính già ấy không cần lời xưng tụng. Ông không cần biểu ngữ, không cần rải hoa đón chào. Điều ông cần là một chỗ đứng nhỏ trong trái tim người đời, để biết mình vẫn còn hiện hữu. Sáu năm trời, ông sống trong im lặng giữa những bận rộn của một nước Mỹ quay cuồng với điện thoại thông minh, xe tự lái và mạng xã hội, nơi mà nỗi buồn của một người cựu chiến binh không còn ai nghe nữa.

Có lẽ ông đã chết. Không phải vì đói. Mà vì không ai nhớ đến ông. Cho đến một ngày, cô thợ làm bánh trẻ tuổi ấy đã lặng lẽ bước qua đường, tay cầm một chiếc bánh mì mới ra lò, trao cho ông, và một câu: “Hẹn mai gặp lại.”

Câu đó không phải là một phép màu. Nhưng trong khoảnh khắc đó, nó là lý do duy nhất khiến ông dừng lại, chưa gieo mình khỏi cầu, chưa rút súng kê vào đầu trong bóng tối.

Có biết bao cựu binh Mỹ sau chiến tranh Việt Nam đã rơi vào tình cảnh tương tự. Họ không chết vì chiến trận, mà chết vì bị quên lãng trong hòa bình. Bao nhiêu người mang vết thương vô hình trong tâm khảm, khó lành hơn cả cụt tay hay mù mắt. Những tiếng trực thăng đêm, tiếng nổ đì đùng, những người bạn ngã xuống ngay bên cạnh, tất cả vẫn nằm đó, trong trí nhớ không chịu nguôi.

Đáng lý họ phải được vinh danh như những người đã đứng lên vì lý tưởng chống cộng sản, bảo vệ một quốc gia tự do tên là Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng không. Khi nước Mỹ rút khỏi Sài Gòn, mọi thứ bị bôi đen là “cuộc chiến vô nghĩa.” Họ bị cười chê, bị xem là thất bại, là biểu tượng của một chính sách sai lầm.

Trong khi đó, kẻ chiến thắng chế độ Cộng sản miền Bắc lại tự phong mình là “giải phóng quân,” che giấu đi vô vàn tội ác sau lá cờ máu. Họ “giải phóng” bằng cách đày hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, trí thức miền Nam vào trại cải tạo. “Giải phóng” bằng cách bắt dân lên vùng kinh tế mới, để lại những khu phố ma trống rỗng. “Giải phóng” bằng việc biến cả một đất nước văn minh thành một trại lính, nơi mà lời ca tụng lãnh tụ quan trọng hơn cả bữa cơm no.

Và suốt nửa thế kỷ sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, họ vẫn không một lần nhận lỗi. Không một lời xin lỗi cho hàng triệu người đã chết trên Biển Đông, trong trại tù cải tạo, hoặc trong các cuộc thanh trừng chính trị bằng lý lịch địch ta.

Tệ hơn nữa, họ lại ra sức tuyên truyền trong nước và ngoài nước rằng: chiến thắng đó là chính nghĩa. Là “khúc khải hoàn ca” của dân tộc. Họ viết lại lịch sử, nhồi sọ cả một thế hệ rằng miền Nam là tay sai, là phản động, là cần bị tiêu diệt.

Nhưng sự thật không thể bị chôn vùi mãi mãi.
Và điều cảm động hơn cả là: ông không hề đơn độc.
Không phải tất cà mọi người đã bỏ quên ông.

Sự thật sống trong ký ức của những người như Emily, tuy không có mặt trên chiến trường, nhưng bằng tình thương vô vụ lợi, đã cứu lấy một mảnh hồn từng bị rách nát bởi chiến tranh. Sự thật sống trong ánh mắt cay xè của Thượng Sĩ Daniel Reid, khi ông ngồi giữa dàn lính danh dự, chậm rãi nhấp tách cà phê, nghe bản nhạc cưới vang lên trong lễ đường như một điệu khúc phục sinh cho chính đời mình.

Sự thật sống trong tiếng vỗ tay đứng dậy của những người có mặt hôm ấy, những người nhận ra rằng: dù có ai quên đi người lính, nhưng chúng ta thì không.

Năm mươi năm kể từ ngày Sài Gòn thất thủ, có những người Việt vẫn phải sống lưu vong, không phải vì hết yêu quê hương, mà vì quê hương không còn nhận ra họ. Có những người lính VNCH đã ngã xuống, không có mộ bia. Có những người còn sống thì nghèo túng, tật nguyền, bị gọi là “ngụy quân, ngụy quyền.”

Và trong khi đó, các thế hệ mới lớn lên tại Việt Nam thì chỉ được dạy rằng: Cộng sản là chân lý, là anh hùng, là vinh quang.

Chúng ta viết bài này không phải để khơi lại hận thù.
Chúng ta viết để không quên.
Để ghi nhớ rằng giữa một thế giới đầy dối trá, vẫn còn có Emily. Vẫn còn có những chiếc bánh mì âm thầm được trao đi như ánh lửa nhỏ trong đêm đen.

Và còn có những người lính như Daniel Reid – người đã từng chực ngã xuống, nhưng rồi lại đứng lên, chỉ vì ai đó nói với ông những tiếng giản dị: “Hẹn mai lại gặp.”

Chúng tôi không biết Emily hôm nay ra sao. Có thể cô đang ở một nơi yên ả nào đó, tiếp tục nướng bánh mỗi sáng. Có thể ông Daniel Reid đã rời thế giới này. Nhưng chắc chắn, cái khoảnh khắc giản dị giữa cô và ông sẽ sống mãi, như một chứng từ rằng: Tình người thật sự có thể cứu rỗi thế gian.

Và cũng là một lời nhắc: Tội ác chiến tranh của CS Bắc Việt không bao giờ nên được tôn vinh bằng diễu binh và biểu ngữ. Nó phải được họ ghi nhớ bằng nước mắt, sám hối ăn năn, và sự thật.

 

Đoàn Xuân Thu

(Melbourne)

Chuyện Buồn...Viết Muộn - Phùng Liệng

 

Chúng tôi chia tay nhau không phải ngoài vùng hành quân mà ở ngay trong bệnh viện dã chiến Sư đoàn Dù ( sân bay quân sự Nước mặn _ Đà nẵng )

Ngoài những người thương binh còn đi lại được bằng những đôi chân tập tểnh , cà nhắc chậm chạp trên đôi nạn gỗ , còn có người tay vai băng kín hoặc cả mình băng quấn trắng xóa và vết thương còn rỉ máu loan ra cả ngoài !

Tôi và Hùng hai thằng thương binh nặng, hai đứa cùng đơn vị cùng chung một trung đội. Tôi là người chiến sĩ đã dày dạn chiến trường, hơn ba năm lăn lội chiến trường Trị Thiên từ ngày " Mùa hè đỏ lửa " , còn Lê văn Hùng tân binh mới tăng cường trong trận tái chiếm 1062 và giải tỏa quận Thượng đức.

Hùng về đơn vị trong một bối cảnh rất khốc liệt, căm go ở chiến trường Đại lộc _ Thượng đức (Quảng nam ) chiến sự đang sôi sục!

Tiểu đoàn tôi sau khi hổ trợ cho Lữ đoàn 1 Dù giải quyết xong cao điểm 1062 , đơn vị lui xuống Núi lở _ Cầu chìm ( Đại lộc ) nhận tiếp tế và bổ sung khí tài vượt sông Vu gia hành quân qua cánh đồng B Đại lộc vào ngày đầu xuân (06 tháng giêng tết âm lịch 1975) mở một mũi tiến công mới thọc sườn đối phương để tái chiếm lại Thượng đức . Ngay ngày hôm ấy, tôi và Hùng cùng đại đội và bộ chỉ huy nhẹ của tiểu đoàn tiến qua một ngôi làng bỏ hoang dưới làn đạn pháo bắn thăm dò của đối phương bắn cắm chỉ vào ngôi làng ngăn chúng tôi vượt ra cánh đồng nhỏ mà phía trước là những ngọn đồi không cao lắm, đối phương đang án ngữ trên đó chận bước tiến công của đơn vị. Bằng mọi giá đơn vị phải chiếm lĩnh những ngọn đồi trên để làm đầu cầu .

Trên những cao điểm đó, đối phương tiếp đón chúng tôi bằng một hỏa lực rất mạnh . Sơn pháo 75 li , đại liên 12 li 8, phòng không 37 li bắn trực xạ cùng với B40, B41, thượng liên, trung liên , Ak ... cùng với pháo binh tầm xa yểm trợ cận phòng tối đa !

Trong trận thư hùng khốc liệt này , tôi và Hùng đều bị thương rất nặng, nhưng nhờ phương tiện trực thăng tải thương nên chúng tôi và một số đồng đội bị thương được cứu sống ở Tổng y viện Duy tân _ Đà nẵng .

Vì vậy chúng tôi có mặt trong buổi chia tay hôm nay ! Những bàn tay bắt thật chặc, những vòng tay ôm ghì đến ngột thở ? Với những gương mặt phong trần dày dạn gió sương hình như trong những đôi mắt chúng tôi còn ẩn chứa biết bao tình cảm chỉ trao nhau qua ánh mắt mà không nói nên lời...

Vào đầu trung tuần tháng 3/75 Sư đoàn Nhảy dù triêt thoái chiến thuật rời khỏi Quân đoàn 1 về Nam . Toàn bộ sư đoàn được vận chuyển bằng đường không và cả đường biển, trong đó Bệnh viện dã chiến và toàn thể thương bệnh binh nặng nhẹ được di tản ưu tiên .

Tôi chia tay với Hùng ở Nước mặn không chuyển vào Bệnh viện Cộng hòa vì gia đình tôi ở Đà nẵng, tôi xin chuyển từ Bệnh viện dã chiến về Tổng y viện Duy tâm để gần gia đình và tiện việc chăm sóc ...

Trước khi được đưa lên băng ca chuyển ra xe cứu thương, bạn tôi sẽ ra sân bay còn tôi sẽ về lại TYV Duy tân . Hùng bắt tay tôi thật chặt lần cuối và dí vào lòng bàn tay tôi một mảnh giấy nhỏ có ghi địa chỉ, hẹn có ngày tái ngộ và giữ liên lạc với nhau qua giọng nói lạc đi vì cảm xúc ..!

Thời gian qua vội vả, trôi đi nhanh chóng trong bối cảnh chiến tranh vào gian đoạn cuối ! Cuộc chiến khốc liệt đã cuốn phăng và xé nát giải đất Miền nam , Đà nẵng thất thủ trong ngày 29/3 sau khi Ban mê thuột và cao nguyên tan rã kéo theo Quảng trị , Huế , Quảng ngãi, Quảng tín Quảng nam cùng chung số phận ..!

Tôi rời khỏi bệnh viện Duy tân vào trưa ngày 29/3/1975 sau một cuộc di tản bất thành vào đêm 27/3/1975 (vì chuyên môn kỷ thuật , vì an toàn bay và cả đạn pháo rót vào sân bay ngăn không cho máy bay cất cánh ...)

Anh trai tôi đã đến bệnh viện đưa tôi về nhà khi vết thương cắt cụt hai chi dưới vẫn còn đỏ hỏn chưa se da.

Tôi cảm thấy hối tiếc vì được tản thương về Nam mà xin ở lại ! Có lẽ đó quyết định đầy sai lầm lớn nhất trong đời (cho đến lúc đó !)

Gần một năm sau vết thương mới lành, kéo dài lâu ngày vì thiếu thuốc men và điều trị cầm chừng !  (Thuốc tây thời điểm đó rất khan hiếm và vô cùng đắc đỏ, nhất là thuốc trụ sinh chống nhiễm trùng) Tất cả đều do bệnh viện nhà nước quản lý chặc chẽ, những hiệu thuốc tư nhân bị đóng cửa hoàn toàn!

Tôi nhớ sau ngày 30/4/1975 khoảng một tháng, anh trai tôi có làm đơn xin cho tôi đến bệnh viện Đa khoa Đà nẵng xin điều trị Nhân đạo, nhưng lúc ấy cán bộ phụ trách từ chối tiếp nhận bệnh nhân với lý do rất đơn giản là Bệnh viện mới tiếp quản , y cụ máy móc bị thất thoát, thuốc men hạn chế chưa sẵn sàng tiếp nhận "bệnh nhân" . Biết đâu tôi là một thương binh của chế độ cũ ? ( hy vọng không vì lý do tế nhị đó !)

Mất liên lạc với Hùng từ dạo đó !

Rất lâu sau này, hình ảnh của bạn vẫn mãi trong tôi mỗi khi ký ức xa xôi có dịp quay về...

Trước khi vào quân đội , Hùng đã lập gia đình và đã có con (tôi không nhớ trai hay gái ) còn tôi là lính độc thân nên tôi cứ lo lắng và ái ngại hoàn cảnh lấy gì sáng sũa nếu không muốn nói vô cùng khó khăn cho gia đình bạn !

Mỗi lần tôi nghĩ đến là mỗi lần tôi nhắm mắt nguyện cầu cho bạn tôi mọi điều tốt lành và bình an !

Tấm giấy nhỏ ghi địa chỉ của Hùng tôi luôn cất kỹ . Đất nước đã đổi chủ, thành phố thị thành cũng đổi thay ! Con đường mang tên Thống tướng Lê văn Tỵ đã bị xóa khỏi bảng tên đường thành phố Vũng tàu . Bạn tôi ở nơi ấy và đã chuyển đi đâu khi "vật đổi sao dời, tang điền dâu bể " ! Đến vùng kinh tế xa xôi... hay biết đâu gia đình bạn may mắn có cơ hội nào đó lên tàu vượt biển ... Đang sinh sống nơi xứ người hoặc quá thê thảm bỏ mình nơi biển cả .!?

Bốn mươi năm sau cái ngày 30 tháng tư đầy ký ức đó, tôi có biết một một người trai trẻ cùng địa phương đi làm ăn và lấy vợ ở thành phố Vũng tàu . Tôi nhờ cậu ấy tìm giúp may ra có chút gì manh mối .

Ơn trời ! một cuộc điện thoại của chàng trai trẻ đó báo tin cho tôi biết đã tìm được Hùng người tôi nhờ tìm .

Nhưng ..! Anh ấy đã là người thiên cổ cách đây hơn 3 năm rồi !!! Một cảm xúc vừa hạnh phúc vừa đau đớn dâng tràn trong lòng tôi !

Hùng ơi ! Tao còn nợ mày nhiều lắm vì trong trận chiến cuối cùng đó mày đã cứu tao nên mày mới bị thương và gửi lại đôi chân nên chiến trường . Tao còn nợ mày một cái bắt tay ngày tái ngộ ... và những lá thư mỏng manh chứa đựng sự biết ơn và tình cảm mà tao đã viết biết bao lần mà chẳng khi nào gởi đi sau khi một lá thư đầu tiên bị trả lại vì địa chỉ không tồn tại !

Gần nửa thế kỷ đã đi qua ... dòng chữ muộn màng này như thay lời thư chứa đầy nước mắt, tao đốt đi cùng mảnh giấy mày ghi địa chỉ gửi đến mày ở nơi xa xa đó ... Nơi thế giới loài người rồi sẽ đến, nơi quên đi tất cả nhọc nhằn, nỗi đau và gian khổ ..!

Chúng tôi vẫn mãi mãi là bạn của nhau !

Phước Tường

Kỷ niệm 6 năm (03/6/2015 - 03/6 /2021)Ngày nhận được tin bạn.

Bài thơ dưới đây tôi viết tặng riêng cho H.


LỆ KHÔ !

Tôi thả hồn dần trôi về dĩ vãng ...

Dẫu trùng dương thăm thẳm có cách ngăn ,

Dẫu sơn khê ngăn chặn dựng trường thành ...

Không ngăn nổi khi lòng tôi thương nhớ !

Đã từng chia nhau nửa bao gạo sấy ,

Uống chung cùng giọt nước đáy bi đông ,

Cùng chia nhau nửa điếu thuốc cuối cùng ,

Co ro lạnh dưới hào sâu ngập nước ..!

Có những ngày nắng nung như lửa cháy !

Mắt thâm quầng thiếu ngủ đã bao đêm ..!

Những trận đánh ngày đêm không ngơi nghỉ

Ngàn trái pháo rơi cày nát ngọn đồi ...

Quên sao được những phút giây lệ ứa?

Quấn poncho cho thằng bạn vừa ra đi !!!

... Đi quanh triền đồi tìm từng mảnh vỡ...

Xác bạn tôi tan nát chẳng còn chi !

Làm sao tôi quên những ngày gian khổ ...

Dưới đạn thù cõng xác bạn trên lưng !

Từng giọt máu thấm dần trên vai áo ,

Lòng oán than ai đã gieo đau thương !!?

Tiếng xung phong vang rền tiếng súng nổ ,

Từng bước chân phục hận cố lao lên ...

Từng căn nhà giành lại dẫu không tên ,

Từng con phố hoang tàn trong đổ nát..!

Nửa thế kỷ qua rồi trong trăn trở !

Bạn bè tôi còn lại mấy phương trời ..?

Vẫn tìm nhau trong nốt nhạc , vần thơ ...

Nên hồn cứ trôi về nơi chốn cũ !


Nguồn: Phùng Liệng