Tôi sinh ra ở Biên Hòa, vùng đất được gọi
là địa linh nhân kiệt. Sông Đồng Nai phát nguyên từ cao nguyên Lâm Viên, chảy
qua đồi núi gập ghềnh đến thác Trị An. Từ đây sông chảy về đồng bằng, uốn lượn
qua thành phố Biên Hòa để xuôi ra biển.Tả hữu dòng sông có hai ngọn núi Bửu
Long, Châu Thới với tư thế RỒNG CHẦU HỔ PHỤC.
Theo dòng lịch sử, hơn 300 năm trước, vào
năm 1698, Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lược
vùng đất mới khai phá, lập ra dinh Trấn Biên. Khoảng năm 1701 ông thống lĩnh
binh sĩ đi dẹp loạn Man Di ở vùng Phước Long, Mô Xoài, ở thượng nguồn Sông Bé.
Trên một gò đất cao ở Cù Lao Phố, một ngày trời quang mây tạnh, ông làm lễ xuất
quân. Bỗng có một bà đồng bóng, gọi là cô Bóng Hiên lên đồng ngăn cản.
"Đừng đi sẽ nguy hiểm đến tánh mạng". Vì trung quân ái quốc, ông tuốt
gươm chém cô bóng và ra lệnh tiến binh theo dòng Đồng Nai về hướng thượng
nguồn. Đến nơi bị trúng tên độc của kẻ thù phải vong mạng. Thi hài ông được đưa
về quàn tại gò đất nơi làm lễ xuất binh, trước khi được đưa về an táng ở quê
hương Quảng Bình. Nơi gò đất cao đó, sau này dân làng lập ra đình Bình Kính để
thờ tự ông với ngôi mộ gió. Hướng bên kia sông, gần Thanh Lương Cổ Tự, dân làng
Mỹ Khánh lập ra ngôi miếu thờ cô bóng Hiên.
Tôi sinh năm 1951. Khi chưa tròn 1 tuổi,
năm 1952 xảy ra trận bão lụt năm Thìn. Mẹ tôi kể lại, năm đó nước lũ ngập hết
chợ Biên Hoà, đến tận trường tiểu học Nguyễn Du. Hướng Chợ Đồn Tân Vạn, chỉ có
từ Ngã Tư Chợ Đồn kéo dài đến dốc Chú Hoả, là vùng đất cao, nước không ngập
tới, người dân đến đó để lánh nạn. Hướng cầu Gành, nước cuộn qua bãi đá hàn.
Trận lũ lịch sử đã qua gần 60 năm.
Năm 1963, tôi vào đệ thất Ngô Quyền. Đó
cũng là thời kỳ đen tối của đất nước. Những trò đùa chính trị, đàn áp
biểu tình, đàn áp Phật giáo xảy ra. Chuyện công tội hãy để cho lịch sử phán
xét, tôi chỉ muốn nhắc đến chuyện buôn thần bán thánh. Lúc đó người ta đồn
rằng, nước giếng trên núi Bửu Long là nước thánh, trị được bá bệnh. Người ta
đua nhau vét cả nước cặn, nước bùn. Nhưng nước hồ Long Ẩn thì không thể múc cạn
vì đó là dấu tích của sự khai thác đá, làng nghề truyền thống đập đá và
điêu khắc đá ở Bửu Long. Những tấm ảnh Phật bà hiện ra, hình các nhà sư tự
thiêu, trái tim bất diệt … được in ra, lồng ghép để bán. May là hồi đó chưa có
photoshop. Ngay ở xã tôi, trên võ ca của Miếu Bà, người ta cũng bày chuyện đó.
Có mấy ông bà bị câm điếc cũng được cho uống nước thánh để nói được. Vì chuyện
tò mò của thời trẻ con, mấy ngày đêm tôi cũng bỏ ăn để theo dõi sự tình.
Trái tim tôi bắt đầu biết rung động. Mỗi
sáng, trưa, tôi đều đi học sớm, đến bến xe để đợi em. Em từ con dốc bước lên,
tà áo trắng tung bay, cặp táp đen che ngực. Trái tim tôi đập nhanh hơn. Em lên
xe rồi, tôi mới lên theo, ngồi trước kế bác tài. Ba năm tình câm lặng. Một
ngày tôi trao thơ cho em, em nhận nhưng không hồi đáp. Sau này tôi hiểu ra, em
đã có người khác, học trên hai lớp. Kết quả của sự mõi mòn chờ đợi. Bài học đầu
đời tôi học được ở tình trường.
Đầu năm 1968, chiến tranh bước sang bước
ngoặt mới. Chiến tranh về thành phố. Cụm từ TẾT MẬU THÂN còn nhức nhối
trong tim của người Việt Nam máu đỏ da vàng. Chúng tôi được ăn cái tết dài
nhất, nghĩ học hơn 1 tháng, rồi sau đó đi làm công tác xã hội ở Đồng Lách, Hốc
Bà Thức...
Sáng mùng một Tết súng nổ bốn phương
Người dân ngơ ngác chạy vội ra đường
Giặc đang tìm đường tràn vào thành phố
Đám dân nghèo lần nữa chịu tai ương
Nổ ở Biên Hùng , nổ ở nhà ga
Liên thanh giòn rã lẫn tiếng A-ka
Người dân di cư thêm lần di cư nữa
Nước sông Đồng cuồn cuộn phong ba
Người dắt dìu nhau đi tìm sinh lộ
Đồng Lách điêu tàn trăng trắng màu tang
Suối Săn Máu đỏ vươn mùi tử khí
Hố Nai, Tam Hiêp nhà cháy hàng hàng...
Bọn học trò nam chúng tôi lại phải đi học
quân sự ở TTHL / ĐPQ ở Bửu Long. Lần đầu tiên bàn tay thư sinh biết cầm súng.
Tay nào cầm viết, tay nào cầm súng, để rồi sau này... cầm cuốc.
Tay đan nước mắt, ta đào mộ ta...
Câu thơ này tôi viết khi bị tình phụ,
nhưng khi vào tù vẫn có ý nghĩa.
Bạn bè lần lượt chia tay vào quân đội.
Thằng Tốt, thằng Hùng đi hải quân. Thằng Nghiệp, thằng Phát đi địa phương quân.
Thằng Hạnh đi biệt động quân.
Thằng Thiện đi không quân... Rồi tin dữ
lại về. Thằng Hạnh nhỏ con, học giỏi, chết khi vượt dây tử thần ở Dục Mỹ. Tội
nghiệp mày quá Hạnh ơi! Mày nhỏ con ốm yếu mà dám đi biệt động quân. Viết đến
đây, những giọt nước mắt lại lăn dài trên má. Tôi phải đi rửa mặt .
Chương trình học lại bị rút ngắn. Mỗi
chiều thứ bảy bạn bè chúng tôi đi xã strees bằng cách đến xe hủ tiếu của Giang
Hưng để ăn cháo tiều, mì xào giòn, rồi đi nghe nhạc ở các tụ điểm. Nhạc sống có
ở các quán cà phê đối diện trường Ngô Quyền. Nhạc công là mấy anh chàng văn
nghệ sĩ quân đội đi làm thêm kiếm tiến. Từ giàn máy Akai của cà phê Tuyệt, đối
diện rạp Khánh Hưng, bọn chúng tôi thả hồn nghe những bản tình ca của Phạm Duy,
Trịnh Công Sơn. Xa xa, ở những quán bar đối diện bệnh viện tỉnh, ở khu vực Ngã
Ba Thành, Dốc Sỏi, cổng 2 không quân, những em má đỏ môi hồng, những giàn đèn
xanh đỏ mờ ảo, những chàng mũi lỏ mắt xanh dập dìu theo tiếng nhạc. Thành phố
đợi giờ giới nghiêm. Những người con gái Việt Nam rời bỏ ruộng đồng, xa lánh
chiến tranh để về thành phố làm những con thiêu thân.
Những chiều tan học, từ dốc Huỳnh Của đến
ngã năm Biên Hùng, những tà áo trắng tung bay theo chiều gió lộng. Trong tôi,
màu trắng là trắng cả ước mơ, tương lai là con số không to tướng. Phải
đậu tú tài 1, tú tài 2. Từ đó đã sản sinh một nhà thơ. Nguyễn Tất Nhiên, tên
tộc Nguyễn Hoàng Hải, bạn bè gọi là Hải khùng, học sau tôi một lớp. Những bài
thơ nói về mối tình si với người con gái tên Duyên học cùng trường, chung xóm.
Đến khi nhà thơ được Du Tử Lê giới thiệu đến nhạc sĩ Phạm Duy, những bài thơ
của chàng được phổ nhạc, công chúng mới biết đến. Đêm đại đội 32 sinh hoạt ở
sân đại đội, khi Hồ Văn Tiên hát lên bài THÀ NHƯ GIỌT MƯA, bọn tôi cảm thấy xúc
động quá, tuyệt vời quá và hãnh
diện vì trường mình cũng có một thiên tài. Cuộc đời nhà thơ rồi cũng
kết cuộc đau thương nơi xứ người.
- VC về ở đồn điền Bình Sơn nhiều lắm, có
cả xe tăng pháo lớn. Sắp có đánh lớn. Em đem má, bà ngoại tôi, và mấy đứa nhỏ
về ở với anh chị.
Chiều 26-4 tôi từ Thủ đức về nhà, gần đến
ngã ba Tân Vạn, súng nổ rền vang ở hướng Bến Gỗ, cầu Đồng Nai, trực thăng vần
vũ trên bầu trời. Ngày chủ nhật 27-4 nhà ba má tôi bắt đầu đào hầm trú ẩn. Đêm
đó đặc công VC từ Hóc Ông Che, men theo đường rầy xe lửa đánh chiếm cầu Gành và
cầu Rạch Cát. Họ muốn các cây cầu về Sài Gòn phải được nguyên vẹn. Người dân xã
tôi lần đầu và cũng là lần cuối cùng biết đến chiến tranh. Súng nổ rền vang,
mấy anh nhân dân tự vệ quăng súng chạy về trụ sở xã. Sáng hôm sau, lính từ Biên
Hoà, tiểu đoàn dù từ xa lộ tiến vào hành quân giải toả. Từng ổ đề kháng bị tiêu
diệt. Chiến xa M41 từ Tân Uyên chạy về, những người lính sư đoàn 18
thảm thương từ xa lộ kéo về tập họp ở ngã tư Chợ Đồn. Đêm 29-4, đêm cuối cùng,
pháo bắn dồn dập vào căn cứ Long Bình, về hướng cầu Đồng Nai. Pháo nổ liên hồi
như những hồi chuông vĩnh biệt. Bình minh 30-4, ngày đen tối bắt đầu. Lịch sử
sang trang
Đến thời kỳ mở cửa, sau 1986, vùng đất này
được giao về chính quyền tỉnh quản lý, hình thành 4 khu công nghiệp, trong đó
có một khu công nghiệp liên doanh với Thái Lan. Hạ tầng kỹ thuật được xây dựng,
các xí nghiệp được thuê đất 50 năm, tiền trả theo mét vuông. Tư bản nước ngoài
đầu tư vốn, máy móc, công nghệ kỹ thuật của họ. Công nhân tại chỗ, những lao
động nhập cư ở Bắc Trung Bộ vào, ở Tây Nam Bộ lên. Hàng hoá sản xuất được tiêu
thụ trong nước hoặc xuất khẩu. Lại có ưu đãi về thuế quan trong thời gian 3
hoặc 5 năm đầu. Các công ty nước ngoài có thế mạnh về vốn, các xí nghiệp quốc
doanh lần lần cạnh tranh không nổi. Điển hình, từ năm 1985 đến 1995, 3 nhà máy
bột giặt quốc doanh: Viso, ở cư xá kiến thiết Thủ Đức, Lix, ở Linh Xuân gần
trại heo, Net, ở khu công nghiệp Biên Hoà, đều sản xuất mặt hàng bột giặt lấy
hiệu Viso, Con Ngổng. Hàng hoá sản xuất không đủ cung cấp cho thị trường trong
Nam ngoài Bắc. Năm 1995, công ty UNILIVER nhảy vào thị trường Việt Nam. Đầu
tiên họ mua đứt nhà máy Viso Thủ Đức để độc quyền sản xuất bột giặt Viso. Sau
này thêm Omo là mặt hàng chiến lược của họ. Net và Lix chỉ gia công sản phẫm
cho UNILIVER. Một lần giảy chết. Sau đó nhà máy kem đánh răng Perlon, sau 1975
là quốc doanh sản xuất kem đánh răng hiệu P.S, đang có chổ đứng trên thị
trường, được mua lại với giá 5 triệu USD. Nhà máy của Perlon đối diện chợ An
Đông chỉ được phép sản xuất nước rửa chén và kem Hynos. Kem Hynos anh bảy chà
và đen là thương hiệu có tiếng trước 1975, nhưng bây giờ nguyên liệu, chất
lượng không bằng nên người tiêu dùng không chấp nhận. Ta tự đào lỗ chôn mình.
Cái mặt bằng đó giờ thành trường tiểu học Quốc Tế. Nhà máy kem đánh răng của
UNILIVER được xây dựng mới ở khu công nghiệp Củ Chi, sản xuất thêm thương hiệu
Close up truyền thống. 5 triệu USD để đổi lấy một thương hiệu. Từ ti vi, tủ
lạnh, xe hơi, đồ tiêu dùng gia đình của các thương hiệu nổi tiếng của Anh,
Pháp, Mỹ, Nhật, Hàn …Sự phát triển kinh tế thì đi đúng theo bài bản, từ việc
vận dụng các qui luật kinh tế của thế giới để áp dụng vào Việt Nam. Nhưng có
vươn tầm cỡ Hàn Quốc, Nhật Bản hay không là do cách quản lý và yếu tố con
người.
Ở Biên Hoà còn có thế mạnh về mặt hàng gốm
mỹ nghệ và vật liệu xây dựng như gạch ngói, đá, cát …
Sau khi người Pháp rút lui, hoà bình được
lập lại, các cơ sở gạch ngói phát triển thêm. Trước 1960, phương tiện sản xuất
còn lạc hậu. Máy nổ để ép gạch chạy dầu, không có điện. Mỗi chủ lò gạch mua vài
mẫu ruộng để lấy đất sản xuất. Đất sét được vận chuyển bằng xe bò, cách xa hàng
cây số. Sau này những chổ lấy đất làm gạch thành ao nuôi cá. Sau 1960, các
phương tiện cơ giới được nhập vào: xe tải ben, xe máy xúc, xe máy ủi...Những
công ty khai thác đất được thành lập, những đường dây cung cấp củi được hình
thành. Ở Chợ Đồn, cung cấp đất có chú Tám Chấn, cung cấp củi có bà Bảy Lâm, Bảy
Mén... Nhưng ông bà mình có câu "nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá ",
những người này phất lên một thời rồi cũng lụi tàn.
Giai đoạn từ 1965 -1972, các lò gạch ăn
nên làm ra. Ở khu vực Tân Vạn, Chợ Đồn, Hoá An, chỉ Chợ Đồn có rạp hát Phước
Chung. Các đoàn cải lương thường đến đây trình diễn. Chiều tối, xe tải của đoàn
hát đánh trống, thổi kèn chạy xuống Tân Vạn để rước khán giả miễn phí. Rồi chạy
ngược lên Hoá An, Tân Hạnh. Đoàn Thanh Hương, Văn Chung, của anh kép mùi Văn
Chung và cô đào Thanh Hương đến tập tuồng và khai trương ở đây. Đoàn
Trâm Vàng có cô đào trẻ Lệ Thủy, mới bước lên ánh đèn sân khấu, lúc đó chưa nổi
tiếng, cũng thường đến đây trình diễn. Đa số khán giả là dân lao động. Các lò
gạch là nơi ẩn thân của mấy anh chàng trốn quân dịch. Thỉnh thoảng mấy anh
chàng lính cao bồi của tiểu đoàn 58 bảo vệ phi trường đóng ở Hóa An, thường đến
xem hát cọp, gây sự với dân vệ. Ẩu đả xảy ra, thất thế, mấy anh chàng chạy về
đơn vị, kêu thêm đồng đội, lấy súng bao vây trụ sở xã. Xã trưởng phải điện báo
quân vụ thị trấn ở Biên Hoà, do trung tá Đầy, chồng cô đào Út Bạch Lan, nhờ
sang giải quyết. Đó là thời kỳ hoàng kim của vùng đất phía nam Biên Hoà. Ở phía
đông, phía bắc Biên Hòa là Hố Nai, Tam Hiệp, Tân Mai có thế mạnh về mua bán,
nhất là hàng lậu, hàng PX .
Chúng ta nằm trên những mỏ đá, mỏ cát. Nếu
khai thác bừa bãi, không tính toán khoa học sẽ là hiểm họa cho thế hệ sau này.
Nhưng không sao, ai chết mặc ai, tiền thầy bỏ túi .
Qua bao thăng trầm của thế sự, quê hương
Biên Hoà , vùng đất mới Phương Nam vẫn xứng danh trong Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Nước mắt, mồ hôi, xương máu của tiền nhân đã vun bồi cho mảnh đất
hoang vu này trở nên xanh tươi, trù phú. Nghìn năm qua, Bửu Long, Châu Thới vẫn
trơ gan cùng Tuế Nguyệt. Trăm năm dài, Cầu Gành, cầu Rạch Cát vẫn oằn mình cỏng
những đoàn tàu xuyên Việt. 60 năm lặng lẽ, nước sông Đồng đã
nuôi tôi khôn lớn nên người. Khi bưng chén cơm, hạt gạo trắng ngần, xin hãy
nhớ đến quê hương. Quê hương trong trái tim ta . "QUÊ HƯƠNG MỖI NGƯỜI
CHỈ MỘT, NHƯ LÀ CHỈ MỘT MẸ THÔI..." Bài hát vang vang từ cuối đông
buồn. Mầm sống mới vươn lên …
Xin cám ơn chị NPN đã đưa bài giới thiệu " Biên Hòa quê tôi" lên trang nhà.
ReplyDeleteQua bài viết, tôi ghi lại cảm nhận của bản thân về vùng đất mà 60 năm tôi đã sống và khôn lớn.
Tôi cũng rất tự hào, vì nơi làng Mỹ Khánh, Chợ Đồn, Bửu Hòa đã sản sinh 2 người con đi vào lịch sử dân tộc, bà Nguyễn Thị Tồn và Anh Trần Văn Ơn, chỉ cách nhà tôi hơn 500 mét...Trân trọng. ĐCL
Một câu chuyện lịch sử, một bài viết rất hay và thú vị với đầy đủ chi tiết về vùng địa linh nhân kiệt Biên Hòa. Tiếc thay trước 75 tôi chưa có cơ hội thăm viếng nơi đây.
ReplyDeleteCám ơn anh Đỗ Công Luận.
NPN
Xin cám ơn chị NPN đã chia sẽ.
ReplyDeleteHi vọng sẽ có ngày chị đến thăm Biên Hòa Quê Tôi. ĐCL
xin tác giả cho con được biết hiện tại con đang đi tìm mộ của người ông đã mât từ năm 1951, quê ở miền tây. Ông tên Trần Hưng Bo, tham gia quân đội Cao Đài , đóng quân ở Chợ Đồn Biên Hòa, năm 1951 bị ám sát chết và được chôn ở gần ngã 4 Chợ Đồn, nghe kể lại rằng hướng ngôi mộ đi từ ngã 4 Chợ đồn Đi về phía tay phải cách chợ không xa chừng vài trăm mét. Vậy tác giả cho con biết hiện giờ ở gần khu vực Chợ đồn còn có khu mộ hay nghĩa địa nào lâu năm hay không? Hay có khu nanof chôn cất dành cho những người theo đọa cao đài hay binh lính cũ k? Làm ơn giúp với
ReplyDeleteTôi là người sinh ra ở Chợ Đồn, 1951, và lớn lên ở nơi nầy.
ReplyDeleteTừ khỏang trước 1945 vài năm, quân đội Cao Đài có đóng quân ở đây, và hiện tại còn chùa Cao Đài, gọi là Thánh Thất. Sau hiệp định Genènve 1954, quân đội CĐ lần lượt bị giải giới. Chợ Đồn cũ ở hướng sông đã di dời về địa điểm mới, gần ngã tư Chợ Đồn, năm 1958. Tổng hành dinh của họ bị phá ra để làm chợ bán buôn. Ở khu vực ngã tư Chợ Đồn không có khu vực mồ mã nào. Từ hướng xa lộ, Tân Vạn, đi thẳng lên về hướng Tân Ba, cách ngã tư CĐ khoảng 500 mét, gần rạp hát Phước Chung, có khu vực mồ mã, chôn cất cũng lâu đời, gần đó có Đài Chiến Sĩ Trận Vong của họ đạo Cao Đài. Nhưng khu vực đó đã bị người dân lấn chiếm, san ủi cất nhà cửa nên chẳng còn ngôi mộ nào. Có thể là mộ nội tổ bạn chôn ở khu vực đó, có lẽ giờ cũng bị cào bằng, nằm dưới nền nhà của người dân. Nếu cần, thân nhân bạn lên đấy hỏi thăm họ đạo ở Thánh Thất, những người cao niên có thể biết thêm thông tin. Trân trọng. ĐCL
Bài viết của chú thật hay và nhiều chi tiết về Biên Hòa rất hữu dụng. Chú cho phép cháu share cho nhóm bạn thân Ngô Quyền của cháu trên mạng nhe. Ông Ngoại cháu là Lương văn Lựu ( đã mất ) và cháu là con của Trưởng Nữ Ông LVL là Lương Ngọc Dung. Cám ơn chú rất nhiều...
ReplyDeleteCháu quý mến,
ReplyDeleteBài nầy của chú viết đã hơn 5 năm, từ lúc chú bắt đầu làm quen với internet, cũng như tìm lại được bạn bè thân quen. Trong phần đầu của bài viết, nói về lịch sử BH, chú cũng dựa vào quyển " Biên Hòa Sử Lược " của bác Lương Văn Lựu, tức ông ngoại cháu. Nhưng chú chỉ viết theo trí nhớ, vì chú đã đọc 2 quyển sách nầy trước 1975, đến nay không có xuất bản lại. Bài viết nầy cũng đã có đăng trên Đặc San Xuân Nhâm Thìn 1952 của Hội Ái Hữu BH Cali, trang 56.Chú cũng là CHS NQ BH, và cũng là cộng tác viên của trang web ngo-quyen.org, nơi đó chú tìm lại được thầy cô và bạn bè. Chú sinh ra và lớn lên, cũng như chứng kiến sự biến đổi thăng trầm của BH, và hảnh diện về quê hương mình. Trong trang web aihubienhoa.com, mục Đất Nước BH, có mấy bài viết của tác giả Đinh Văn Tuấn, nói về BH, và khi đọc bài của chú, tác giả Đinh Văn Tuấn có gặp chú và tìm hiểu trao đổi.
Xin cám ơn sự quan tâm của cháu, và chúc cháu cùng quý quyến an vui. ĐCL