Đây là một câu chuyện có thật
của một người bạn. Xin gởi đến các độc giả của Người Phương Nam để tùy
nghi cảm nhận hay suy gẫm.
Mimosa Phương Vinh
Người chết có
linh hồn không, thật ra đó là một câu hỏi không có sự trả lời chính xác.
Nhiều tôn giáo đã đưa ra nhiều lý thuyết để chứng minh cho câu trả lời này,
và đã có nhiều cá nhân bằng chính những kinh nghiệm của mình đã cố thuyết
phục mọi nguời về sự bất tử của linh hồn con người.Và những diễn biến phía
sau cái chết luôn luôn là một câu chuyện đầy hấp dẫn, lý thú. Cái thế giới
siêu hình, huyền hoặc, âm u, mơ mơ ảo ảo đó tự lúc nào đó đã trở thành một
phần của đời sống con người. Có thể cái thế giới mù sương đó không quan
trọng bằng cuộc sống cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc, địa vị hay
danh dự …..Nhưng có những lúc nào đó những sự mơ hồ, huyền hoặc, vô hình kia
đã chi phối, ám ảnh và bám chặt vào đời sống con người một cách khắc nghiệt
như mạng luới mỏng manh, tơ tóc cuốn chặt bám riết con mồi vô phương đào
thoát.
Một chiều cuối
thu trời lạnh và âm u, sau khi lăng quăng trong những cửa hiệu xem thiên hạ
mua sắm tôi trở về nhà bằng con đường băng qua khu rừng nhỏ. Rừng cây mùa thu
vàng rực hay đỏ thẫm trông thực đẹp mắt và mặt đường dát đầy lá khô xôn xao,
lay động theo từng cơn gió nhẹ từ đâu đâu thổi đến. Quả thật đời sống đã có những
hình ảnh thật nên thơ và tuyệt vời mà con người thì đôi khi quá tất bật cùng
cuộc sống nên không nhận ra những tặng phẩm mà tạo hoá đã ban cho mình. Nếu
chiều nay tôi không về sớm vì sở không có việc làm có lẽ tôi đã mất một chiều
lang thang trong cửa hiệu nghe lại những nhạc khúc xa xưa một thời tuổi trẻ ở
thành phố quê hương tuyệt vời trong ký ức, và cũng mất một cơ hội đi trong
rừng lá thu để nhớ âm điệu bài thơ Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Nhà cửa vắng vẻ,
buồn thiu vì các con tôi đi vắng. Tôi ngồi một mình trong phòng khách nhìn
hình cha mẹ trên bàn thờ, đó là hình cha mẹ tôi khi còn rất trẻ mà người anh từ
Washington đã gởi qua, anh nói thờ hình cha mẹ khi còn trẻ cho đẹp. Ngày xưa cha
mẹ tôi cũng có bàn thờ ông bà rất lớn ở giữa nhà và cha tôi đã khá hào phóng
chi tiêu tiền bạc cho những ngày giỗ tết. Đó là những dịp cho mẹ tôi trổ tài
nấu nướng món ngon, vật lạ và bọn chúng tôi rất sung sướng vì được ăn uống
thả ga cho đến hai ba ngày sau. Mỗi năm bốn cái đám giỗ chính của ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại và nhiều đám giỗ khác ở ngày tảo mộ, tất niên,
tân niên ... Ngày nay, tôi chỉ làm một đám giỗ cho cha mẹ và đó cũng là dịp tôi mời bạn bè đến tụ
họp, nói chuyện trên trời dưới đất, thường đám giỗ được tổ chức ngày thứ bảy
và kéo dài đến nửa đêm mới xong. Anh em tôi một bọn chín người, thường ai
cũng có bàn thờ cha mẹ trong nhà dù có mấy người đã lấy chồng Mỹ, chồng Tây.
Những lúc buồn
phiền tôi hay thắp nhang cho cha mẹ và kể lể cho các người nghe về những khó
khăn của tôi. Các người có nghe hay không tôi cũng chẳng biết. Có lẽ nhiều
người sẽ cho là tôi mê tín, dị đoan tuy nhiên điều đó cũng chẳng sao, miễn là
tôi có thể giải tỏa những uẩn khúc của mình trong một lúc nào đó.
Một lần đã lâu
lắm khi còn ở Việt Nam tôi làm ăn thất bại, tiền bạc hết sạch và có cơ đổ nợ,
trong cơn tuyệt vọng tôi chỉ còn biết cầu nguyện. Ngoài việc cầu nguyện các
đấng tối cao trong mọi tôn giáo tôi cầu nguyện đến mẹ tôi và một đêm thấy mẹ
về trong cơn mơ, bà ngồi đầu giường vuốt tóc tôi mỉm cười an ủi, trấn an
tôi là mọi chuyện sẽ qua. Nụ cười của bà đã đưa tôi ra khỏi cơn tuyệt vọng.
Ngày tôi làm lễ
đính hôn với chồng, hôm sau tôi lên nhà thăm mẹ chồng thì bà vui vẻ nói:
- Hôm qua me
nằm mơ thấy cậu con về. Cậu mừng vui lắm, ông bảo là me đã chọn được dâu hiền.
Tôi không hiểu
chuyện đó có thật không, mấy chục năm trôi qua rồi, tôi và ông chồng đã đi
đến chuyện xa nhau. Nhiều năm trước có dịp về Houston thăm gia đình anh chồng, ông đưa cho tôi hai bức ảnh của
hai cụ được phóng lớn và nói :
-Thím và chú xa
nhau lâu rồi, nhưng còn mấy đứa nhỏ. Nếu thím đi thêm bước nữa tôi không dám
nói, nay thím vẫn còn ở vậy xin đem hình hai cụ về cho các cháu biết ông bà.
Tôi nhận hai
bức hình vì nể ông anh chồng đã giúp đỡ cho mẹ con tôi nhiều và vì bố mẹ
chồng đã qua đời nên tôi luôn xem ông như cha mẹ.Tôi đến được nước Mỹ là cũng
do công sức của ông ta đã dùng quyền huynh thế phụ dàn xếp mọi việc. Anh chồng
tôi rất nặng nghĩa gia đình, giòng họ và nhất là với con trai tôi mang cùng
họ của ông. Đứa con trai lớn lên không có cha bên cạnh, gặp nhiều thiệt thòi nên
đem lòng oán hận người cha không có trách nhiệm với con cái. Nhiều lần con
trai tôi đòi đổi họ, tôi đem việc này nói cho anh chồng tôi nghe. Ông bảo :
-Thím phải
khuyên nhủ cháu, làm như vậy là mắc tội với tổ tông, giòng họ mình. Con cái
làm nên cũng là nhờ giòng họ thím ạ!
Ông bà giòng họ nào có lỗi gì đâu!
Tôi bèn thờ
luôn hai cụ và luôn cầu nguyện cho cháu hai cụ.
Thỉnh thoảng
tôi nói với con trai khi cháu còn bé:
- Ngày xưa ông
nội đi dạy học, bác Khoa cũng đi dạy học nên
chắc con cũng
nên theo nghề này.
Tôi ngạc nhiên
khi nghe con trai tôi nói :
- Con đồng ý với
mẹ là vì con cũng thích nghề này! Đó là ước
mơ cuả con.
Và cháu đã đi
con đường đó dù đó không phải là việc dễ dàng cho một người di dân trên đất
Mỹ.
Chị Trang bạn
tôi không bao giờ tin vào sự cúng giỗ, dù chị là
một người Phật
Giáo, chị lý luận :
-Nếu mình tin
vào thuyết luân hồi thì cha mẹ mình qua đời đã lâu, nay cũng đã đầu thai kiếp
khác thì giỗ cúng để làm gì!
Chị nói cũng có
lý quá đi chứ!
Tuy nhiên sau
khi nghe câu chuyện của gia đình Thùy Giang thì tôi trở nên sợ hãi và nghĩ
rằng có một thế giới thần bí, siêu hình nào đó mà mình chưa khám phá ra thì cũng
không thể đưa ra một kết luận chắc chắn nào cả.
Thùy Giang là
một nguời con gái khá đẹp, nước da trắng hồng và tính nết rất cởi mở. Cô sinh
ra trong một gia đình có đông anh em trai và cô là con gái độc nhất. Thuở trước
khoảng năm 1930 đến 1940 Đà Lạt thuộc
về Hoàng Triều Cương Thổ, nhưng đất rộng người thưa, những nguời dân ở các
nơi đến Đà Lạt lập nghiệp muốn chiếm đất bao nhiêu cũng được và đóng
thuế thì rất là nhẹ.
Bác Khương ba
của Thùy Giang khai phá đất trồng rau cải, cây ăn trái và sau này trồng hoa
hồng để bỏ mối cho các chợ hoa ở Sàigon. Cha tôi là công chức nên gia đình
tôi ở trên thành phố cho gần trường học. Khi chúng tôi đã có nhiều anh em,
nhà cư xá chật chội nên cha quyết định về ngoại ô mua đất làm nhà gần gia
đình Thùy Giang vì cha và bác Khương là bạn bè thâm giao.
Tôi và Giang có
nhiều kỷ niệm vui đẹp của tuổi thiếu nữ. Chúng tôi hay dạo chơi trong những
khu vườn ở ngoại ô để hái hoa dại hay lội dưới giòng suối trong những khu
rừng thưa. Hai đứa có lúc đèo nhau đi Honda trên đồi Cù hay đi xuống Trại
mát, Trại Hầm hái mận, hái mít. Có lúc đi thơ thẩn vào dinh vua Bảo Đại hay
vào rừng thông hái nấm, ngắm hoàng hôn phía chân trời xa. Tôi chưa bao giờ
cãi nhau hay giận hờn Thuỳ Giang vì cô ta rất là xuề xoà, dễ chịu và hình như
có những người sinh ra để được sống sung sướng về vật chất ( trong đó có
Giang), tôi không dám nói sung sướng về tinh thần vì những biến cố đã xảy ra
cho cô sau này.
Năm 1973 bác
Khương trai qua đời, gia đình chôn bác ở một góc vườn và làm một cái mộ giả
cho bác gái. Sau 75, đời sống khó khăn không ảnh hưởng đến gia đình Thùy
Giang vì cô ta kết hôn với Quốc Dũng một cậu con trai nhà giàu không dính dấp
đến chế độ cũ, cô sinh một nguời con trai đặt tên là Quốc Sơn và dĩ nhiên đứa
con độc nhất đó rất sung sướng, hạnh phúc bên cha mẹ giàu. Quốc Dũng làm cho
công ty du lịch ở Đà Lạt và Thùy Giang cũng làm cho một công sở nào đó. Trong
thời gian mười năm sau 75 Thùy giang có hai người anh em qua đời. Một vượt
biên mất tích và một bị bắt vì một lý do mù mờ là tụ họp bất hợp pháp.
Châu em trai
Thùy Giang bị bắt đưa đi cải tạo ở trại Đại Bình, đáng lẽ cũng chẳng đến nổi
phải chết, vì gia đình khá giả và Đại Bình là một trại tù gần Đà Lạt nên
dễ thăm nuôi. Khổ nổi Châu là một người tuổi trẻ ngay thẳng và đầy nhiệt
huyết nên mang họa vào thân. Khi người cộng sản lập tòa án nhân dân công khai
ở rạp Hoà Bình để xử những thành phần phản động, họ đem những phạm nhân ra để
chứng tỏ luật lệ nghiêm minh và công bằng của mình. Đến khi họ kêu án Châu mấy năm tù về tội phản động vì
tụ họp bất hợp pháp và hỏi Châu có điều gì xin xỏ để được khoan hồng không
thì Châu dõng dạc nói to trước toà án nhân dân:
- Tôi chỉ xin hỏi
mấy ông rằng tại sao các ông không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Ba Lê mà
các ông đã ký kết.
Cả hội trường sững
sờ, dân chúng xôn xao la ó, chánh án đập bàn rầm rầm mà vẫn không ổn định
được trật tự. Sau đó mọi người tự động giải tán và Châu phải trả giá bằng một
viên đạn bắn vào đầu với nhiều bạn bè cùng chết trong một ngày lao động nào
đó khi tù nhân quá khát nước thấy một dòng suối nên chạy ào đến để uống. Họ đổ
lỗi những người tù muốn trốn trại. Khi Châu chết, gia đình phải dấu bác
Khương gái và nói với bác là Châu đã vượt trại đi Mỹ rồi. Bác Khương gái luôn
luôn trách thằng con tệ quá đi Mỹ đã lâu mà không thư từ về cho đến ngày bác
qua đời.
Khi bác Khương
gái qua đời, chính quyền không cho chôn trong khu vườn nhà bên cạnh chồng.
Gia đình phải an táng bác gái trong nghĩa địa gần nhà. Đời sống khá yên ổn cho
gia đình Thùy Giang sau đó nhiều năm. Tuy nhiên những năm sau này thì đất đai
trở nên có giá ở Việt Nam nói chung và Đà Lạt nói riêng. Đất nhà bác Khương
thì quá mênh mông rộng lớn nên các con bác cắt đất bán dần dần cho cán
bộ, Việt Kiều, tiền lên đến bạc triệu, bạc tỷ nên đời sống anh em Thùy Giang
rất là sung túc, ai cũng có nhà riêng rộng lớn với đầy đủ tiện nghị. Thỉnh
thoảng tôi có nói chuyện với các em tôi qua điện thoại hỏi về Thùy Giang và
chúng tôi đều kết luận rằng cô ta là một người sung sướng, giàu sang từ trứng
nước.
Mộ phần bác
Khương trai vẫn ở một khu đất rất rộng thuộc một góc vườn cùng với ngôi mộ
giả khá đồ sộ của bác gái. Các con thấy cha mẹ chôn xa cách nhau đã hơn hai
mươi năm nên có ý định sẽ cải táng mộ bác trai gần bác gái nơi nghĩa trang,
hơn nữa khu đất có mộ phần sẽ khó bán hay xây cất. Sau khi đã họp bàn nhiều
lần họ nhất định mời thầy cúng về giúp đỡ trong việc cải táng, họ bốc mộ bác
Khương trai đem vào chôn cạnh bác gái.
Tuy nhiên không
hiểu tại sao ông Thầy cúng lại bàn rằng: sau khi chôn bác trai xong thì phải
đào mộ bác gái lên, xốc xốc vài lần rồi chôn lại chỗ cũ như là một sự cải
táng. Có nguời cho là điều lạ nhưng thầy cúng cho rằng như vậy mới đúng
nguyên tắc. Anh em và Gia đình Thùy Giang đều là những người có nếp sống
phóng khoáng tây phương nên không có ý kiến gì cả. Họ nghĩ là mình đã làm một
điều tốt đẹp, chôn cất cha mẹ gần nhau, giải quyết được khu đất rộng ở góc
vườn cho sự mua bán xây cất. Mọi người đều vui vẻ bằng lòng nhưng sự việc
không đơn giản sau việc cải táng như mọi người nghĩ.
Sau một tháng,
người con dâu trưởng vợ anh Hoàng sanh bệnh rồi chết sau một tuần liệt
giường. Anh Hoàng buồn bã nhớ vợ và chết sau đó ba tháng. Mọi nguời đều nhen
nhúm một ý nghĩ nào đó về sự cải mộ cho cha mẹ nhưng họ không nói ra hay nếu
có nói thì cũng với sự không tin tưởng tuyệt đối vì họ là những người tin vào
khoa học và thực tế hơn những điều huyền hoặc, mông lung.
Vài tháng sau
Huy là em kế của Thùy Giang lăn ra chết vì viêm gan cấp tính, mọi người tin
rằng Huy ưa ăn nhậu nhiều thì chết vì bệnh gan là đúng rồi. Nhưng chỉ một
tuần sau con rễ của Huy bị chết vì tai nạn xe cộ thì cả nhà trở nên hoảng hốt
thật sự. Cả gia đình rối loạn lên vì không biết ai sẽ là nạn nhân kế tiếp. Họ
đi coi thầy và thầy bói cho rằng bác Khương gái giận vì họ đào mả bác lên xốc
xốc rồi chôn lại. Đó là sự “động mả” mà bà con mình hay dùng những tiếng
nầy để nhiếc mắng nhau cho thỏa lòng căm ghét khi giận dữ. Anh em Thuỳ Giang
trách cứ, la mắng ông thầy cúng thì ông chỉ im lặng và trơ mặt ra. Ngay những
người không tin vào dị đoan, mê tín cũng thấy đó là một điều khó coi, dị hợm
khi làm cái việc lay động chiếc hòm bác Khương gái một cách thô lỗ như vậy. Nhưng
dù sao cũng là việc đã rồi.
Mọi người trong
gia đình vào mộ sì sụp bái lạy xin cha mẹ tha thứ tội nhưng câu chuyện không
ngừng ở đó vì chỉ hai tháng sau Quốc Dũng chồng của Thuỳ Giang lăn ra chết vì
một căn bệnh rất mơ hồ.Trong gia đình mọi người trở nên rối loạn hoảng
hốt bởi sự ám ảnh của việc cải táng. Trước kia bác Khương là người Phật Giáo
nhưng cũng không phải là người sùng đạo lắm, còn các con của bác thì sau này
cũng không theo một tôn giáo nào nhất định cả, nhưng sau những cái chết của
anh em và chồng Thùy Giang nhất định đến chùa, đến nhà thờ để xin giúp đỡ cầu
nguyện. Các thầy có đến nhà để cầu an cho gia đình nhiều lần sau đó.
Một thời gian
ngắn sau Thùy Giang bị bệnh nặng phải đi giải phẩu, mọi người tin tưởng rằng
cô không bao giờ qua khỏi nhưng rất may mắn là cô đã thoát được nhưng sau đó
Thùy Giang mang tật nơi chân phải đi khấp khểnh.Tôi tin tưởng rằng những rủi ro, khủng khiếp sẽ rời xa gia đình
cô mãi mãi và mọi việc hình như đã chấm dứt rồi. Và tôi cũng đã viết ra câu
chuyện về gia đình Thùy Giang.
Buồn thay, vài
năm sau khi viết câu chuyện này ra tôi mới hay tin sự nghiệt ngã vẫn chưa
buông tha bạn tôi vì người vợ trẻ của Quốc Sơn (con trai độc nhất của Thùy
Giang) cũng đã qua đời bỏ lại người chồng dở điên, dở khùng trên cuộc đời.
Tất cả có phải là hậu quả của một sự cải táng và tất cả sáu người trong gia
đình đã ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ và Thùy Giang bạn tôi phải khập khểnh
cô đơn ở lại trong cuộc sống với quá nhiều kỷ niệm buồn.
Tôi suy nghĩ
rất nhiều về câu chuyện cải táng ghê sợ kia, nếu đó là một sự trùng hợp vô
tình của đời sống thì quả thật cuộc đời này có những sự ngẫu nhiên quá lạ
lùng và kỳ bí. Còn nếu đó là một hậu quả của một nguyên nhân thì có phải
nguyên nhân là sự cải táng hay động mả không. Cha mẹ nào chẳng thương con,
không lẽ vì sự giận hờn mà bác Khương gái lại bắt đi những người thân thuộc
của bác trong khi họ là những người vô tội. Kẻ có tội chính là ông thầy cúng
nhưng không nghe nói đến sự không may nào đã xảy đến cho ông ta cả.
Có người hay
nói đến giòng họ và mồ mả ông bà, họ tin rằng con cháu trở nên hiển đạt hay
bần cùng cũng tuỳ thuộc vào cửu huyền, thất tổ. Tôi không biết nhiều về điều
này nên không dám bàn đến, tuy nhiên câu chuyện của gia đình Thùy Giang cũng
có ảnh hưởng phần nào đến những việc làm và ý nghĩ của tôi. Tôi hay hướng về
bàn thờ cha mẹ và hai cụ nội để thầm cầu xin những điều may mắn cho các con
tôi, thỉnh thoảng tôi hỏi các em về mồ mả của cha mẹ ở quê nhà. Tôi nghĩ là
mẹ tôi rất vui khi nằm trên khu đồi bên cạnh ba tôi và bên dưới là đồi thông
ngút ngàn. Ngày còn sinh tiền bà hay nói: khi mẹ chết, mẹ thích nằm trên
đồi thoáng rộng và nghe tiếng gió reo vi vu. Mẹ tôi xứng đáng được thỏa ước
nguyện sau cùng vì lòng bà bao giờ cũng trang trải hào phóng, độ lượng cho
con cái và những người xung quanh.
Câu chuyện của
linh hồn con người mãi mãi vẫn là những bài toán không bao giờ có đáp số, và
người ta không có ai thật sự đã gạt bỏ cái thế giới vô hình, mờ ảo đó ra khỏi
cuộc sống của mình. Có phải thế hay không? Mỗi người sẽ có mỗi câu trả lời
khác nhau. Tôi chỉ viết lên một câu chuyện thật của gia đình Thùy Giang bạn
tôi. Câu chuyện có lúc đã là một đề tài nóng sốt của dân chúng trong thành
phố ngàn thông/.
Mimosa Phương Vinh
|
Thế giới tâm linh có những điều huyền bí mà người trần mắt tục chúng ta không thể nào hiểu nổi. Cho dù khoa học có chứng minh thế nào đi nữa thì mình vẫn tin là có một thế giới siêu hình, phải không chị Phương Vinh?
ReplyDeleteCám ơn chị Phương Vinh.
Mến chúc an lạc.
NPN