Pages

Monday, April 4, 2016

Hồn Tử Sĩ - Mimosa Phương Vinh

Viết cho tháng Tư đen. Một câu chuyện có thật đã xảy ra trong quãng đời đau khổ xưa của tác giả!
Mimosa Phương Vinh


Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.
Chinh Phụ Ngâm
                                               
Câu chuyện xảy ra rất nhiều năm trước khi tôi còn là một người đàn bà trẻ. Sau khi Miền Nam mất vào tay cộng sản chồng tôi bị bắt đi học tập cải tạo (đó là những danh từ mỹ miều mà họ đặt ra để đánh lừa mọi người chứ thật ra phải gọi là đi tù mới đúng). Chồng đi tù, tôi về nương náu nhà cha mẹ với đứa con gái chưa đầy hai tuổi và chẳng biết làm gì để sống.Tôi thử nạp đơn xin làm lại ở một ngân hàng thì bị từ chối. Gia đình tôi thật bi đát.

Cha bị học tập cải tạo tại chỗ. Nhà có bốn người con trai thì đi tù hết ba người chỉ còn thằng em út mười hai tuổi và năm con gái chưa đứa nào có chồng trừ tôi có chồng đi tù. Chúng tôi sống nhờ sự lanh lẹ của mẹ dù trước kia cha là công chức mẹ chỉ làm việc nội trợ. Sau bảy lăm cả nhà thất nghiệp mẹ bắt buộc phải ra chợ, bắt đầu là bán đồ đạt trong nhà sau đó những người hàng xóm gởi đồ đạt nhờ bán giùm dần dần mẹ trở thành một người buôn bán chợ trời bất đắc dĩ.

Mẹ tôi cũng chẳng được tự do để hành nghề, bởi mấy bà tổ trưởng, tổ phó trong xóm gặp mẹ cứ nói xa nói gần những lời sặc mùi xã hội chủ nghĩa đại khái như bà chưa chấp hành tốt đường lối của nhà nước ta nên còn mua bán linh tinh. Bà không biết hưởng quyền lợi chính trị của nhân dân mà nhà nước đã ban nghĩa là không chịu đi họp tổ dân phố mỗi đêm. Bà chưa biết giáo dục con cái tốt theo đường lối của nhà nước vì con cái không đứa nào có việc làm.

Mỗi lần nghe bọn họ chiếu cố đến gia đình mình quá mẹ chỉ cười trừ rồi nói giả lả cho qua chuyện:
- Tụi nhỏ cũng đang kiếm việc làm ngặt nổi lý lịch gia đình tôi không được trong sạch nên cũng có đôi chút khó khăn.
 - Bà không quán triệt đường lối của nhà nước, nhà nước ta bao giờ cũng khoan hồng cả ai làm tội người ấy chịu. Các con trai  bà có tội với nhân dân thì phải đi học tập cải tạo, càng học nhiều càng tốt chứ có sao đâu. Còn các con gái bà thì không bị ảnh hưởng gì, mà nói bà đừng buồn chứ các cô ấy còn bị ảnh hưởng đời sống phồn hoa giả tạo của Mỹ Ngụy nhiều quá cần phải được giáo dục.
Mẹ tôi hỏi:
- Bà nói vậy nghĩa là sao, các con gái tôi xấu xa thế nào mà cần giáo dục thêm và ảnh hưởng đời sống phồn hoa giả tạo của Mỹ ngụy là gì?
- Chẳng qua là lối ăn mặc của các cô ấy không phù hợp với thời buổi kinh tế mới này.
Mẹ tôi cười khẩy:
- Bà muốn nói tới mấy cái quần tây tụi nó hay mặc đó hả. Thời buổi này vải vóc khan hiếm không có việc làm lấy tiền đâu mà mua vải đen. Còn người Liên Xô, họ cũng là nước xã hội chủ nghĩa mà đàn bà họ cũng mặc quần tây đó thì có sao đâu?
- Họ khác mình khác.
- Chẳng có gì khác cả cũng anh em với nhau thôi!

Mẹ tôi về nhà hay kể chuyện cãi lý với mấy trong hội phụ nữ cho chúng tôi nghe thì cha thường la rầy:
- Mẹ con tụi bây nhiều chuyện quá. Còn bà coi chừng có ngày cũng vô nhà đá mà nằm thôi trong gia đình này đi tù chừng đó chưa đủ hay sao? Ăn thua làm chi với bọn trở cờ, gió chiều nào chúng theo chiều đó.

Cha nói đến ngôi nhà đá cổ của người Pháp xây từ lâu lắm rồi, sau năm bảy lăm chính quyền cách mạng trưng dụng để làm nơi thẩm tra và giam cầm những thành phần phản động trong phường ấp. Ai nghe đến ngôi nhà đá cũng rùng mình kinh sợ.
- Ở ngoài này có hơn gì trong nhà đá. Bữa hôm đi thăm nuôi  nghe nói  mấy đứa con phải làm trâu bò kéo cày lòng tôi đau đớn quá ông ơi. Tôi đâu có muốn sống ngặt nỗi còn mấy đứa con gái, tôi chết thì tụi nó ra sao đây. Thêm mấy đứa cháu nữa, khổ quá trời ơi là trời!
Rồi mẹ khóc òa lên làm bọn tôi cũng khóc theo, cha chặc lưỡi:
- Bởi vậy tôi mới khuyên bà là phải nhường nhịn chúng nó, sông có khúc người có lúc bà ạ. Vận nước tang thương ai ai cũng khổ chứ có riêng mình đâu!

Tôi nhớ có lần theo mẹ ra chợ trời bán mấy cái áo dài, áo đầm  không còn dịp để mặc nữa. Mẹ căn dặn tôi phải trông cho kỹ không thôi bọn gian sẽ đánh cắp và khi bán phải biết nói thách để họ mặc cả, tôi cứ nói giá mình muốn bán nên không ai thèm mua. Tôi đi theo mẹ được vài ngày thì bà kết luận:
- Con thật thà quá không buôn bán được đâu!
Tôi lại mắc cở cứ dấu mặt dưới nón lá nên mẹ khuyên:
 - Không có gì phải xấu hổ, mình không đi ăn cắp thì tại sao phải mắc cở. 
Tôi vâng dạ nhưng thấy làm sao ấy, mình đang lê la ở cầu thang chợ nơi mà ngày xưa mình hay qua lại dạo chơi.
 
Tôi ra chợ trời được vài lần rồi thôi vì mẹ nói tôi không có duyên bán hàng. Mẹ nói cũng không đúng lắm vì sau này khi chồng đi tù về sinh có thêm một đứa con nữa, tôi cũng phải lăn xả vào đời để nuôi hai con. Chuyện vợ người tù cải tạo của riêng tôi còn cái đoạn hậu tràn đầy nước mắt ít ai bì kịp.

Khi chồng đi tù hơn một năm thì có lệnh của phường đưa xuống tất cả phụ nữ có chồng đang học tập cải tạo trong thành phố Đalat được làm đơn bảo lãnh chồng về, thật ra đây cũng là một trò trấn an và lừa đảo của bọn họ thôi mà sau này tôi mới hiểu bởi vì tám năm sau chồng tôi vẫn chưa về.

Chị em mừng rỡ rủ nhau qua phường làm đơn. Khai lý lịch cũng chẳng có chi là khó nhưng đến tiết mục so sánh đời sống của gia đình hiện nay với đời sống trước năm bảy lăm thì tôi bí. Tôi bèn hỏi ý kiến ông tổ trưởng viết làm sao cho chồng mau được về. Ông tổ trưởng nói:
- Chẳng có gì là khó đâu cô cứ nói sự thật thôi!
- Sự thật như thế nào hả chú?
- Sự thật là như thế này gia đình tôi trước khi giải phóng rất khó khăn về kinh tế từ sau giải phóng nhờ ơn đảng và nhà nước đời sống có phần dễ chịu, no ấm hơn nhiều!

À ra vậy mà tôi ngu quá không hiểu. Trong buổi làm đơn bảo lãnh tôi quen chị Mai Linh cũng có chồng đi tù. Chị ăn nói có vẻ nhỏ nhẹ dễ thương, chị khuyên tôi nên vào tổ hợp thêu mà làm vì trong các tổ hợp họ không chú ý đến lý lịch, lương tiền không bao nhiêu nhưng tránh được những đôi mắt cú vọ của mấy bà phụ nữ trong xóm.

Trước năm bảy lăm tôi hầu như không biết ai nhiều vì nhà tôi ở trên một con đồi nhỏ khá xa với làng xóm bên dưới. Sau này khi vào tổ dân phố thì gia đình tôi phải sinh hoạt với mọi người trong xóm và trong những buổi sinh hoạt đó là những dịp tốt cho họ dòm ngó, phê bình. Có nhiều lần họ còn đề nghị cho gia đình tôi đi vùng kinh tế mới dù cha mẹ tôi có nhà cửa đàng hoàng và đã trú ngụ gần bốn mươi năm ở Đalat. Lần đó cha tôi phản ứng mạnh, ông nói thà chết chứ không bỏ cơ ngơi mà ông đã gầy dựng bao nhiêu năm cho người khác hưởng. Thấy cha  cương quyết quá họ đành chịu thua.

Chị Mai Linh nói đúng, vào tổ hợp thêu rồi thì sáng sớm tôi đi tối mịt mới về nên không bị chú ý nhiều nữa. Tôi lại lấy cớ hàng   ngày có hưởng quyền lợi chính trị trên tổ hợp rồi (họp hành!) nên thỉnh thoảng có thể từ chối quyền lợi ở địa phương.

Mỗi buổi sáng dậy sớm đón xe lam ra phố, chỉ cái việc dành một chỗ trên xe lam cũng quá khó khăn vì chẳng còn ai biết lịch sự hay lễ độ nữa. Mạnh ai nấy dành, mạnh ai nấy chen lấn nếu người nào lịch sự thì chỉ có nước đứng ở bến xe cả ngày.

Nhìn xung quanh mọi ngườì đều không che dấu được sự nghèo đói, bần hàn. Từng khuôn mặt biểu lộ niềm lo âu, khắc khoải trong khi đó chiếc loa phóng thanh gắn trên mấy cái cột đèn cứ ra rả nói về thắng lợi của vụ mùa đông xuân, vụ hè thu. Giọng những xướng ngôn viên gằn gằn từng câu ca ngợi xã hội chủ nghĩa, ca ngợi bác và đảng. Lâu lâu tin tức ngừng lại nhường  cho những giọng ca với  âm điệu the thé chói tai trong mấy bài hát đượm mùi tử khí. Tôi còn nhớ bài Cô Gái Vót Chông với câu “còn giặc Mỹ cọp beo có còn giặc Mỹ cọp beo” nghe mà phát khiếp. Họ có biết đâu dân miền Nam đã chán họ đến đầu đến cổ, ngươì dân tìm an ủi hạnh phúc khi lén nghe đài ngoại quốc và kể chuyện vượt biên.

Đi làm mỗi tháng được chưa đến 50 đồng mà tiền xe lam đã gần 80 đồng rồi, nếu làm đủ sản phẩm thì được 12  ký gạo mua theo giá nhà nước. Tôi cố gắng làm đủ chỉ tiêu để lãnh gạo phụ với mẹ tôi nuôi con, nuôi cháu vì anh em tôi đi tù chị dâu cũng dẫn mấy đứa cháu nội về ở chung trong nhà. Mẹ tôi thỉnh thoảng còn phải đi thăm tù nữa thật là đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

Thành phố Đalat là một thành phố du lịch nổi tiếng đẹp và thơ mộng bỗng trở nên héo hắt với những dãy phố đóng cửa im lìm. Nhiều hôm đang đi giữa phố lòng tôi bỗng quặn đau thương nhớ những ngày vui xưa. Còn đâu khu Hòa Bình với những chàng sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia hay Chiến Tranh Chính Trị trong y phục mùa đông màu rêu đậm khi loài hoa quỳ bắt đầu thắp vàng trên những ngọn đồi trong thành phố. Hàng cây anh đào ven hồ Xuân Hương trổ hoa hồng thắm và phiên chợ mùa đông dập dìu tài tử giai nhân trên Domaine de Marie.

Phố xá vui tươi nhộn nhịp với muôn ngàn màu sắc. Nữ sinh trường Bùi Thị Xuân hai má ửng hồng trong màu áo len xanh dịu dàng. Nữ sinh trường Việt Anh với màu tím hoa cà e ấp. Những thiếu nữ  Lycée Yersin với những bộ cánh Tây Phương sang trọng hợp thời. Học sinh nội trú Couvent des oiseaux, Franciscan, Nazareth, Lasan D’ Adran, sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh. Mọi người đổ xô ra khu phố Hòa Bình, Café Tùng, Mékong, nhà Thủy Tạ, đồi Cù trong những ngày cuối tuần tạo cho Đalat một sắc thái đặc biệt Tây Phương mà không  một thành phố nào ở Việt Nam có được.

Bây giờ không còn gì nữa cả. Một số người may mắn đi nước ngoài, một số nằm trong nhà tù. Đalat trở nên đói nghèo, khốn cùng. Cầu thang chợ lầu trở thành tụ điểm của dân chợ trời, mọi người rủ nhau ra đó để mua bán kiếm ăn qua ngày. Công an xua đuổi nơi này họ chạy đi nơi khác, họ trở nên lam lũ, tội nghiệp không sao tả được. Tôi đi qua phố Đalat nghèo nàn, héo hắt đó mỗi ngày và nhiều lần tôi phải cúi đầu để dấu giọt nước mắt xót xa thương cho thành phố quê hương, thương cho thân phận bất hạnh của mình.
Tôi nhớ thành phố xưa
 Đôi ta qua nhiều lần
 Nắng vàng trong phố ấm
 Ôi thương thuở đời xanh.

Trong tổ hợp đa số chị em có chồng đi tù cải tạo hoặc những học sinh, sinh viên học hành dang dở hoặc có lý lịch xấu nên không tìm được việc làm tốt. Trong đó cũng có thành phần theo cách mạng lập trường vững vàng, trung thành với đảng, nhà nước tuy nhiên đa số có chút chữ nghĩa nên dù sao cũng khá hơn thành phần tạp nham ở phường ấp.

Sau này nghĩ lại thờì kỳ đi thêu tôi mới thấy rằng không xã hội nào bóc lột sức lao động bằng xã hội chủ nghĩa. Làm việc một tuần sáu ngày, tiền lương một tháng không đủ để uống hai ly sữa đậu nành mỗi ngày. Tôi không hiểu sao mình có thể sống sót được trong cái môi trường eo hẹp, thiếu thốn đó cho đến được ngày thoát ra được. Phải công nhận quả thật con người có một sức chịu đựng vô cùng phi thường.

Một ngày kia phòng công thương nghiệp đưa chỉ thị xuống cho các tổ hợp phải thi đua công tác lao động xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi góp tiền mua dây khoai lang, đọt mì để đi khai đất trồng trọt (đúng là nghèo mà gặp cái eo). Vùng trồng trọt hoa màu khá xa ở khu rừng dưới thác Prenn. Nơi đó có những cánh đồng tranh hoang vu, đất khô như đá đang chờ những cánh tay yếu ớt của chúng tôi biến thành vùng hoa màu tươi tốt! Khoai sắn đó sẽ là của tất cả chúng tôi, ăn không hết thì đem bán hay đổi thực phẩm khác và những đợt thi đua lao động đó sẽ biến chúng tôi thành những con ngươì tốt đẹp của xã hội mới vân vân và vân vân.

Bao nhiêu là danh từ hoa mỹ, bao nhiêu ý kiến rồi tập hợp đọc diễn văn, giăng biểu ngữ, rồi hoan hô vang dậy trời đất. Nhất trí. Nhất trí. Cuối cùng kéo nhau đi vào trong chân núi trồng khoai  sắn cho lũ heo rừng phá vì trồng trọt mà không có ai trông nom thì làm sao thu hoạch được.Tuy nhiên điều đó chẳng nên bận tâm, miễn có bằng cớ báo lên cấp trên là được, rồi cấp trên sẽ báo cho cấp trên nữa. Kết luận hợp tác xã, tổ hợp ngoài việc thi đua làm hàng xuất khẩu còn tranh thủ trồng hoa màu để cải tổ đời sống thêm no ấm.

Một đám đàn bà, con gái nói cười inh ỏi trang bị nón lá, giày bata quần vải ú đen, cuốc thuổng và gô đựng cơm trưa đi qua phố Hòa Bình làm cho mọi người đứng lại ngơ ngác nhìn. Trông chẳng giống ai. Vài ba câu chửi bới vu vơ, vài ba lời mỉa mai trò hề của bọn muốn lập công nên vẽ chuyện hành người. Nếu dùng hai tiếng lao động thì ngồi trước khung thêu cũng là lao động rồi đâu cần phải vác cày, vác cuốc đi vào rừng mới là lao động thật sự. Ở đời người làm việc nọ, kẻ làm việc kia chứ. Tuy nhiên nếu có ai đưa ra ý kiến thì sẽ bị kết tội phản động, đi ngược lại chính sách của đảng đề ra. Cho nên mọi người chỉ còn cách là im lặng cho đời sống dễ dàng hơn.

Khi xuống hết dốc Prenn rẽ vào con đường đất đỏ dẫn vô rừng thì đám đông thưa dần vì kẻ trước, người sau không còn hàng ngũ nữa. Tôi và Hương, người bạn gái nhỏ hơn tôi đi hơi chậm nên khi vào sâu trong rừng thì ngó trước, nhìn sau chỉ còn hai chị em vừa đi vừa trò chuyện.

Buổi sáng trong rừng thật tuyệt vời. Không khí trong lành, mát dịu thoảng thoảng mùi thơm lá thông và những loài hoa dại không tên, gió thổi nhè nhẹ trên ngọn cây, lá cỏ và nắng buổi sáng óng ả chan hòa trên vạn vật. Ai đã từng ở Đalat, đã từng đi dạo trong những buổi sáng nắng ấm, từng đắm mình trong cái không gian vàng óng như tơ, không khí mát lạnh hiền hòa của vùng cao nguyên trong khi bên tai là tiếng rì rào bất tận của ngàn thông trong mới cảm nhận được cái đẹp tuyệt hảo nơi thành phố du lịch này. Tôi và Hương trong giây phút như tạm quên đi nổi đày đọa của đời sống hiện tại. Rừng thông bao la tắm mình trong nắng lụa, tôi ngửa mặt thở thật sâu không khí trong lành rừng núi và hạnh phúc bất chợt đến trong phút giây không hẹn:
- Buổi sáng đẹp quá chị nhỉ?
- Thật là tuyệt vời. Hai đứa mình cứ tà tà rồi đến đâu hay đó hơi sức nào mà vội vàng, dễ gì hưởng được một buổi sáng đẹp như hôm nay.
Hương gật đầu tán thành:
- Ðường nào cũng đến La Mã.
- Ðường nào cũng đến lao động là vinh quang chứ!
Chúng tôi cười phá lên thật thoải mái vì xung quanh chẳng có ai cả. Chúng tôi oang oang chuyện trên trời dưới đất cho đến một khúc quanh con đường bỗng mở rộng ra và bên ven đường ngỗn ngang những thân cây to nằm la liệt vì người ta hạ cây mà chưa kịp chuyên chở đi.


Ðang vui câu chuyện chợt nghe tiếng nói cười nói ồn ào của một đám đông nào sau lưng. Có người đồng hành trên quãng đường vắng này cũng hay tuy nhiên không ai bảo ai chúng tôi đều hạ giọng thấp xuống, đám đông càng lúc càng đến gần hơn, họ trò chuyện ầm ĩ và toàn đàn ông vì tôi không nghe giọng nữ. Chắc  một tổ hợp tác nào cũng đi lao động, tôi và Hương cố gắng đi nhanh hơn, khi đến gần chúng tôi vài người trong số họ buông lời trêu ghẹo bâng quơ:
- Đi đâu mà vội mà vàng …
Tôi không dám quay lại vì dù đã có chồng, có con nhưng cũng không tránh khỏi sự ngượng ngùng với những người khác phái nhất là họ rất đông. Họ không ngớt bàn cãi những vấn đề nào đó, lúc cười đùa vang trời, lúc giận dữ la lối om sòm. Tôi nghĩ rằng họ rất trẻ.

Khi đám đông phía sau đến rất gần chúng tôi, gần đến độ tôi có cảm tưởng rằng chân họ sắp dẫm vào gót chân mình thì không hẹn trước tôi và Hương cùng dừng lại và đứng qua một bên để nhường lối cho họ. Tôi cũng tò mò muốn biết họ thuộc tổ hợp nào, già trẻ lớn bé như thế nào mà ồn ào dữ vậy.

Nhưng thật là bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của tôi và Hương, phía sau chúng tôi chẳng có ai cả, chỉ là con đường đỏ quạch trống vắng giữa khu rừng xạc xào tiếng gió. Chúng tôi thảng thốt nhìn nhau, khuôn mặt Hương trở nên trắng bệch, hai con mắt thất thần hoảng hốt, đôi môi giật giật một cách kỳ lạ. Còn tôi nổi gai ốc khắp người và cảm thấy một luồng khí lạnh chạy dài xuống xương sống. Chúng tôi nắm chặt tay nhau, một sự im lặng đột ngột bao trùm xung quanh hai đứa. Tiếng trò chuyện nãy giờ vẫn theo gót chúng tôi đã im bặt.
Giọng Hương run run:
- Họ đông lắm mà, họ đâu cả rồi!
Tôi ú ớ:
- Không biết nữa, chị nghe họ gần sát chân mình nên tránh ra cho họ vượt lên.
- Em cũng vậy, họ còn chọc ghẹo tụi mình nữa chị có nghe không?
Tiếng tôi như tắt nghẹn:
 - Dĩ nhiên cũng nghe như Hương vậy, có một người nói giọng Huế.
 - Em nghe giọng Bắc nữa, có tiếng những người Nam càu nhàu điều gì đó.
Tôi nói tiếp:
 - Họ theo sau lưng tụi mình rất lâu nên chị không nghĩ rằng mình giàu tưởng tượng đâu!
 - Tưởng tượng sao được, chuyện rành rành đâu phải chỉ một người hai chúng ta đều nghe mà!
Ðột nhiên hai đứa cùng thốt lên:
- Họ là ma chứ gì nữa!
- Ma sao lại hiện ra ban ngày nhỉ!
Hai chúng tôi cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng và thỉnh thoảng nhìn lại phía sau xem có ai đuổi theo không. Chẳng còn ai nữa cho đến khi tôi và Hương đến tụ điểm, chúng tôi vừa thở không ra hơi vừa kể cho mọi người nghe câu chuyện ở khúc quanh đường rừng. Mọi người chăm chú nghe và góp ý:
 - Hay gió đưa đến tiếng nói của một nhóm người nào đang ở đâu đó trong rừng thông.
 - Cũng có lý nhưng tại sao tất cả lại ngừng bặt khi chúng tôi khám phá không có ai ở đằng sau cả. Họ còn trêu chọc chúng tôi mà!
Một ngươì hỏi:
- Hai bạn có nghe tiếng chân nện trên đất không vì chỉ người đi mới có âm thanh.
Tôi và Hương nghệt mặt ra vì có ai để ý đến những điều vớ vẩn như thế bao giờ.
Một lát sau chị chủ nhiệm gọi chúng tôi nói:
 - Chuyện xảy ra không biết thực hư thế nào tuy nhiên chúng ta không nên để câu chuyện này lan xa vì nếu nó đến tai các anh chị trên phòng công thương nghiệp thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến công tác trồng hoa màu của chúng ta. Họ sẽ nghĩ mình muốn phá hoại việc trồng màu của phòng đề ra. Các chị em khác sẽ hoang mang khi phải đi qua quãng đường rừng đó.

Chúng tôi ấm ức, lủi thủi nhập vào đám đông để làm việc nhưng đầu óc tôi vẫn bị ám ảnh vì sự việc đã xảy ra ban sáng. Hương cũng đượm vẽ suy tư, trầm lặng. Nắng càng lên cao trời trở nên nóng nực, người nào cũng mồ hôi nhễ nhại, tôi cảm thấy quá mệt mỏi nhưng vẫn cúi đầu làm việc. Tôi biết chắc rằng mình là một kẻ lao động tồi nhất ở đây nhưng không có sự lựa chọn nào khác hơn là im lặng vung hạ cán cuốc lên xuống mặc cho thời gian trôi đi trong vùng núi non hoang vu này.

Ðến trưa mọi người được nghỉ ngơi để ăn uống, tôi và Hương đến một chỗ vắng mở gô cơm mang theo vừa ăn vừa bàn tiếp câu chuyện ban sáng. Chị chủ nhiệm ngồi đằng xa thỉnh thoảng đưa mắt nhìn hai đứa.Tôi rủ Hương:
- Chị em mình xuống dưới đồi chơi, chị thấy có mấy cái chòi kìa.
Hương tán thành ngay:
- Phải đó em cũng thấy khát nước nhiều tụi mình đi xin nước uống đi.
Chúng tôi xuống con dốc ngắn với đám cỏ tranh mọc thật dầy, một con suối hẹp chắn ngang và bên kia là căn chòi bé xíu. Một người đàn ông bước ra hỏi:
 - Các cô cần gì?
Tôi nói:
 - Chúng tôi đi xin nước uống.
Người đàn ông đến gần nhìn tôi dò xét rồi nói to:
 -A, cô Phương phải không?
Tôi đang ngạc nhiên thì bỗng nhận ra đó là anh Tiến, anh của Kim Chi một người bạn gái đã có thời gian làm việc với tôi.
Tôi mừng rỡ:
- Anh Tiến sao lại ở đây? Còn chị đâu?
- Cô ta ở nhà còn tôi làm rẫy nơi đây, mời cô vào nhà nói chuyện.
Tôi theo anh Tiến vào nhà, nói là nhà chứ thật ra chỉ là một mái lá đơn sơ với cái sạp để trong góc, cái bếp đối diện với vài ba cái ấm nồi đen thui vì khói bếp. Anh Tiến đem mấy cái ghế đóng bằng gỗ thông thấp lè tè ra mời chúng tôi ngồi, anh nhìn tôi chăm chú rồi nói:
  - Cô đi đâu mà lạc lõng chốn khỉ ho cò gáy này.
- Ði lao động xã hội chủ nghĩa với tổ hợp.
Anh Tiến gật gù:
- À ra vậy, thỉnh thoảng tôi có gặp mấy người đi lao động như cô, họ trồng trọt quanh đây nhưng không bao giờ thấy họ thu hoạch hoa màu cả.
- Sao vậy?
- Vì trồng rồi bỏ thí đó cho lũ thú rừng phá thì lấy đâu mà thu hoạch. Tôi ở đây canh chừng luôn mà còn không trị nổi mấy con heo rừng huống chi các cô.
- Họ bắt đi thì mình phải đi thôi chứ làm sao mà cãi được.
- Thì đúng là vậy đó! Thời buổi khó khăn biết nói sao!
Tôi hỏi anh Tiến:
- Còn anh sao không phụ chị mà vô đây chi cho khổ?
Có lần tôi đến nhà Kim Chi chơi thấy anh Tiến phụ vợ làm bánh kẹo bỏ mối cho mấy cửa hàng ở Đalat. Anh Tiến là Trung Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đóng ở Qui Nhơn, anh từng bị bắt làm tù binh và được thả trong một cuộc trao đổi giữa hai bên, anh vẫn còn bị ám ảnh nặng nề bởi những năm tháng trong nhà tù cộng sản.
Anh Tiến nhún vai:
- Ở đây dĩ nhiên là buồn nhưng ít thấy mặt mấy ông bà cán bộ cán cuốc trong xóm, thấy họ hoài chẳng thích thú gì.
- Còn chị vẫn làm bánh kẹo chứ?
- Chứ không lấy gì mà sống, lâu lâu biếu xén cho họ một chút để yên thân mà nuôi lũ nhỏ. Còn chồng cô ra sao?                                       
 - Đang ở Suối Máu Biên Hòa, em đi thăm được một lần cách đây hai tháng cũng chẳng biết chừng nào họ thả. Năm ngoái họ cho qua phường làm đơn bảo lãnh cho chồng, em cũng làm rồi nhưng ngày về không biết được.
Anh Tiến thở dài:
- Cũng phải ráng mà sống, cả miền Nam chứ đâu phải riêng mình.
Tôi nhìn ra vuông sân chan hòa ánh nắng trước mặt và nương rẫy của anh Tiến, cảnh trí trông vắng vẻ buồn thiu.
- Anh ngủ lại đây à?
- Thỉnh thoảng thôi, thường thì về đến nhà cũng tám chín giờ tối rồi hàng xóm chẳng ai thấy mặt. Sáng tờ mờ tôi đã ra đi, vậy mà tâm hồn mình lại bình an. Ở chốn núi rừng này cũng có cái hạnh phúc của nó chẳng ai dòm ngó. Cả ngày không có ai nói chuyện nên đôi khi tôi nói một mình, lâu ngày thành thói quen tôi cứ lẩm bẩm khi về nhà làm bà xã và các em sợ tôi bị khùng.
Rồi anh Tiến cười khằn khặc:
- Mà nói cho cùng sống với quân này riết rồi ai cũng khùng cả.
Tôi nhìn quanh hỏi nhỏ:
- Ở một mình chốn đèo heo hút gió này anh không sợ sao?
- Sợ gì?
- Thì sợ đủ thứ như ăn cướp, như ma chẳng hạn.
Anh Tiến lại cười ngặt nghẽo:
- Tôi có cái gì mà sợ bị ăn cướp, tôi không ăn cướp của người ta thì thôi chứ. Cộng sản đáng sợ hơn ma quỷ.
Tôi nhăn mặt:
 - Em kể anh nghe chuyện này, em và Hương vừa gặp ma.
 - Vậy sao?
Anh Tiến cười cười có lẽ anh ta tưởng tôi nói đùa.
Rồi tôi kể chuyện đã xảy ra với chúng tôi sáng nay, nghe xong anh hỏi lại:
 -Chỗ khúc quanh có nhiều cây bị đốn nằm la liệt phải không?
-  Đúng vậy!
Anh Tiến nói:
 - Những người làm rẫy ở đây đều biết nơi ấy có rất nhiều chuyện lạ. Buổi chạng vạng người ta hay gặp nhiều bóng người lãng vãng.
- Ai lãng vãng? Họ là ai vậy?
 -Tôi nghe kể lại vào khoảng năm 67, 68 có một số sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia và lính đi kích nơi đó đã đụng độ với Việt Cộng, trận chiến làm chết rất nhiều người của cả hai bên. Từ đó mấy ổng hay hiện ra nơi khúc quanh lắm, tôi đoán rằng mấy ông lính đó rất trẻ, đa số chưa vợ con nên thấy mấy cô đàn bà con gái bèn ra trêu chọc vậy mà.
Chúng tôi hét lên:
- Anh nói ghê quá! Người chết rồi mà còn chọc gái à?
- Chứ sao, họ chết khi còn quá trẻ với những ước mơ khao khát chưa thực hiện được nên họ còn lang thang, lẩn quẩn ở đó. Tội nghiệp, có khi họ chưa biết mình đã chết nữa cũng không chừng.
- Nhưng tại sao họ lại xuất hiện ban ngày, đâu phải là thời gian của họ?
- Ngày đêm gì, thấy người đẹp mấy ổng quên cả luật lệ cõi âm nên chạy ra chọc ghẹo. Đàn ông con trai mà!
Tôi kiếu từ anh Tiến để trở lên đồi, anh đưa chúng tôi qua con suối rồi nhìn tôi ái ngại:
- Thôi hai cô lên làm việc đi kẻo họ tưởng mình trốn. Mà Phương này, cô cũng chẳng nên làm cho quá sức vì không có thu hoạch đâu. Thật ra cũng chẳng có ai chờ sự thu hoạch chỉ làm cho có chuyện. Chán lắm, dù sao cô cũng ráng chịu đựng cho qua cơn khổ này!

Anh Tiến đoán đúng. Sau lần đó, chúng tôi còn đi thêm nhiều lần nữa rồi thôi. Trên phòng cũng không ai nhắc đến ngày thu hoạch hoa màu, dù hình ảnh của phong trào đi lao động xã hội chủ nghĩa vẫn treo trong cơ quan, trong hợp tác xã. Ðúng là đầu voi đuôi chuột. Những lần đi sau tôi và Hương đều cố gắng theo kịp đám đông khi rẽ vào khúc quanh có những thân cây nằm ngổn ngang kia! Tôi rất sợ nếu phải gặp họ thêm một lần nữa, dù thật ra họ chẳng làm hại gì tôi ngoài những câu trêu chọc bình thường của đàn ông, con trai khi gặp người khác phái. Tuy nhiên sự khác biệt của hai thế giới đã làm cho tôi kinh hãi.

Kỷ niệm về những ngày lao động ở đèo Prenn thường mang đến cho tâm hồn vốn đa cảm của tôi nhiều xúc động. Một người phụ nữ còn trẻ xa chồng, cô đơn và lạc lõng giữa một xã hội giả dối tráo trở, sự lo âu luôn đè nặng trên hai vai, con người sống thiếu thốn từ tinh thần đến vật chất. Những buổi chiều mệt lã trở về sau một ngày đày đọa thân xác, đi qua những đồi thông vàng óng ánh nắng hoàng hôn bỗng dưng vang vọng đâu đó giọng ca của Tôn Thất Niệm trong bản Chiều Vàng của Nguyễn văn Khánh.
“Trên đồi thông chiều đã xuống rồi, mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng. Riêng mình ta ngồi ngắm quanh trời ngậm ngùi nghe tiếng chim chiều gọi đàn, buồn xa vắng buồn lòng thầm nhớ đến người chiều vẫn trên đồi cùng ta …Ta nén đau thương gắng bước hoài, chiều chiều nhớ ai khôn lòng nguôi.”

Ai đã từng ở Đalat chắc không thể nào quên giọng ca Tôn Thất Niệm, một giọng ca trầm ấm, truyền cảm khó có ca sĩ nào bì kịp dù ông là một ca sĩ tài tử của đài phát thanh Đalat. Khi đã nghe ông hát bài Chiều Vàng rồi thì khó có thể nào quên được. Tiếng hát Tôn Thất Niệm hòa quyện, lãng đãng với tiếng gió vi vu qua đồi thông, với sương mù là đà những sáng mai lạnh cóng hay những đêm co ro trong chiếc áo Manteau trên khu phố Hòa Bình. Tiếng hát tuyệt vời đó đã ra đi không bao giờ trở lại sau cuộc đổi đời của miền Nam và của thành phố mù sương. Cái đời sống với đầy bất trắc trước mắt hằng đêm xô đẩy tôi vào những cơn mộng dữ, tôi đã phải sống trong từng ngày tháng tuyệt vọng, mõi mòn.

Những năm tháng dài u uẩn đó rồi cũng ra đi như giòng sông nặng nề chảy cuốn theo rác rưới nhọc nhằn. Bây giờ thì tôi đã quá xa Đalat. Xa những chiều vàng trên đồi rong chơi hay là những chiều rã rời, thất thểu về nhà. Người tù cải tạo năm nào, người đã trao tặng cho tôi những ngày tháng cô đơn tuyệt vọng trong chờ đợi mỏi mòn rồi cũng như một loài chim trời cất cánh bay đi tìm một vùng trời nào đó. Tôi như kẻ bị đánh cắp môt thời tuổi trẻ mình và khó bắt đầu lại trong những tan hoang đổ vỡ của đời sống. Dù rằng tôi đã ra đi, đã chối bỏ cái nơi chốn mà đáng ra mình phải yêu thương và bám víu cho đến hơi thở sau cùng đó là quê hương.



Khi tôi viết những giòng chữ này, tháng tư sắp trở về với mọi người trên trái đất này. Tháng tư oan khiên, tàn khốc sắp trở về với dân tộc Việt Nam. Tháng tư tang thương đã xô đẩy con người vào hỏa ngục trần gian trong đó có tôi, người đàn bà vô danh tiểu tốt trong hàng triệu người dân miền Nam Việt Nam. Tôi, một trong những người bất hạnh chịu nhiều hệ lụy trong cuộc dâu bể tang thương của đất nước, tôi đã sống một thời gian rất dài hình như không có nụ cười thật sự nếu cười không có nghĩa là một động tác phô bày hàm răng. Những buổi sáng mở mắt ra đã thấy buồn co thắt con tim và những ngày dài thấp thỏm lo sợ triền miên.

Cái quá khứ đau khổ ấy vẫn ám ảnh tôi một cách dai dẳng, sâu đậm và tôi vẫn tự nhủ rằng hãy quên đi để hưởng lấy những hạnh phúc mình đang có mà nhiều người hằng ao ước. Tôi đang được sống trên nước Mỹ. Mình đang hạnh phúc nhưng có thể nào mình sẽ chôn vùi tất cả vào nấm mộ không tên rồi mặc cho thời gian mang tất cả vào hư vô quên lãng. Rồi cũng xong một kiếp người.

Nấm mộ không tên đã cố vùi lấp mấy chục năm nhưng khi đến tháng Tư lòng tôi bỗng bồi hồi như đang sống lại với cảm giác khổ sở, đơn độc ngày xưa. Tôi đang đi trong phố xưa Đalat, thành phố im lìm câm nín và những con người qua lại với khuôn tràn đầy phiền muộn và đói khổ. Giọng hát nào the thé cất lên làm không gian tê tái nhuốm thêm màu sắc thê lương, chán chường. Con đường đi sâu vào khu rừng trong những ngày lao động xã hội chủ nghĩa, những buổi trở về mệt mõi, rã rời, những buổi họp dân phố ban đêm với từng khuôn mặt hằn nét thù hận, giọng điệu chì chiết đanh thép. Họ đã tuyên truyền những gì tôi không còn nhớ hay chẳng cần phải nhớ.

Còn những linh hồn tử sĩ trên khúc quanh của khu rừng thông ngày đó. Họ đã chết rất trẻ khi những ước mơ, khao khát riêng tư chưa trọn vẹn. Có những người chưa biết đến vòng tay hay nụ hôn của một người tình. Có thể rằng họ chưa biết rằng mình đã chết như ngày nào anh Tiến nói. Họ không bao giờ già đi còn tôi người đàn bà trẻ thơ mà có lần họ buông lời trêu ghẹo nay tóc đã pha sương.

Ðứa con trai mà tôi sanh sau ngày chồng đi tù về nay đã xấp xỉ tuổi họ. Ðứa con trai tôi may mắn hơn họ vì đã lớn lên trên một đất nước Mỹ giàu mạnh chưa biết mùi vị của chiến tranh nhưng con trai tôi hoàn toàn giống họ với những mơ ước của tuổi trẻ và nhất là lòng ưu ái, thích thú khi gặp người khác phái. Nhìn con, tôi càng cảm thương hơn những người lính trẻ miền Nam đã hy sinh, đã đổ máu cho nền tự do của quê hương. Linh hồn họ hình như còn vất vưởng đâu đó và những hoài vọng của họ cũng chẳng ai cần biết đến.

Bao nhiêu năm tháng trôi qua, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Người mẹ với cánh tay bao dung che chắn đời tôi trong những ngày khốn khổ giờ đã nằm yên nghỉ trên ngọn đồi tĩnh lặng trong thành phố quê hương, bên cạnh cha người đàn ông đã chia sẻ với mẹ gần sáu mươi năm trên con đường trần gian với vạn nỗi trầm luân này. Anh em chúng tôi mỗi người mỗi ngã trong những xứ sở xa lạ nào chưa một lần đoàn tụ dưới mái nhà xưa. Mái nhà có giàn hoa tím trước cổng và cây hoa ngọc lan hương thơm ngan ngát, mái nhà tôi vào ra suốt thời tuổi nhỏ và là nơi tôi về nương náu quãng đời giông tố trong trái tim yêu thương của mẹ hiền.

Tôi chưa trở về Ðalat lần nào để thăm viếng. Nhiều người nói Ðalat bây giờ thay đổi nhiều và đẹp lắm nhưng cũng có nhiều người nói những lời hoàn toàn ngược lại bây giờ Đalat nhà cửa xây cất vô trật tự, thiếu thẫm mỹ và không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày xưa nữa. Tôi chỉ nhớ ngày tôi ra đi Ðalat vô cùng nghèo nàn, héo hắt như con đường Phan Ðình Phùng sình lầy nước đọng sau những cơn mưa.

Dù sao tôi cũng muốn về Đalat một lần, đi trên đồi thông để hồn chìm lắng trong giọng ca dĩ vãng. Ði qua vùng bờ hồ để nhớ những ngày giông bão, đọa đầy cũ. Tôi ước mong sẽ có một lần trở lại khu rừng nơi có những oan hồn tử sĩ lẩn quẩn để thắp lên nén hương hoài niệm, tạ ơn những anh hùng vô danh đã hy sinh cho nền tự do của miền Nam. Trong đó có những oan hồn, yểu tử phía bên kia thì cũng cầu xin cho họ sớm siêu thoát vì dù sao họ cũng chỉ là nạn nhân của một chủ nghĩa đầy tham vọng không tưởng mà thôi. Trong thế giới người chết chắc chẳng còn thù hận nữa.

Họ đã chết thế là xong, chỉ trách cho những người còn sống đã từng thấy, đã từng đi qua con đường thê lương, đoạn trường của một dân tộc mà vẫn mang tâm trạng mù lòa. Họ làm như đã quên đi tất cả hay tệ hại hơn còn muốn sơn phết tân trang lại những thối rữa của quá khứ mà đã có một thời họ đâm đầu chạy trốn.

Có những kỷ niệm quá đau thương, quá tàn nhẫn biết phải chôn lấp chúng nơi đâu trong ký ức. Xin một lần ngậm ngùi đọc lên một đoạn thơ trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của bà Đoàn thị Điểm và xin trang trọng gởi một chút tâm sự mộc mạc đến những ai vẫn còn mang trong tâm hồn vết hằn đau thuở nọ để gọi là chút duyên tri kỷ của những người đồng điệu/.

* Chinh Phụ Ngâm Khúc do bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm từ nguyên tác của Tiên Sinh Đặng Trần Côn.
  
Mimosa Phương Vinh

1 comment:

  1. Nhìn lại ngày này năm xưa vẫn còn thấy hãi hùng. Khổ nhứt là thân phận người đàn bà đã gánh chịu biết bao cơ cực đọa đày nuôi con nheo nhóc nuôi chồng khổ sai!
    Cám ơn chị Phương Vinh. Cầu chúc chị thân an tâm lạc tuổi chiều.
    NPN

    ReplyDelete