Pages

Wednesday, July 4, 2018

Tôi Đi Làm Việc Ở Trung Đông (Phần 2) - Nguyễn Văn Tới


Kéo mũ trùm đầu và cái zipper lên cho đỡ lạnh, tôi bước hẳn ra ngoài đường, tuyết vẫn rơi nhẹ và đều, ngọn đèn trên cao chiếu xuống một thứ ánh sáng trắng soi rõ những viên sỏi lát đường; tôi hít thật sâu không khí trong lành cho đầy lá phổi vì bên trong phòng có vẻ ngộp và vì lạ giường, trằn trọc mãi không ngủ được. Tôi trở lại vùng đất đầy biến động này lần nữa, lần này là thị trấn B., một tỉnh lỵ cao nguyên phía đông bắc đất nước Afg. Nơi đây có một phi trường quân sự khá lớn là nơi tôi làm việc trong 3 tháng  tới.

Nhiều người Việt Nam mình có con em gia nhập các binh chủng quân đội Hoa Kỳ để bảo vệ lý tưởng tự do cho đất nước và giữ gìn an ninh, hòa bình cho thế giới và nhiều nước đồng minh. Tôi chắc, ít nhiều, họ được con em kể cho nghe cuộc sống người lính viễn chinh Mỹ ra sao; riêng tôi chỉ muốn kể lại cuộc sống và làm việc qua nhãn quan một nhân viên dân sự Mỹ gốc Việt đang làm việc cho quân đội ở nước Cộng Hòa Hồi Giáo vùng Trung Đông.

Lần này máy bay quân sự không còn chỗ nên tôi cầm sự vụ lệnh (LOA) và đáp máy bay dân sự hãng Delta Airlines, quá cảnh Atlanta, Georgia mấy giờ đồng hồ. Chuyến bay nửa đêm đưa tôi đến xứ sở cối xay gió Hòa Lan (Netherlands), và đáp xuống phi trường Schipol, Amsterdam. Chỉ có 3 tiếng chuyển tiếp nên không thăm thành phố được, dầu sao tôi cũng đã đến đây một lần vào năm 2000 rồi. Ai đã từng du lịch đến Phố đèn đỏ Amsterdam (Red Light District), chắc biết cái cảm giác lạc bước Đào Nguyên như Lưu-Nguyễn thiên thai mà quên mất đường về. Bất cứ ai trước khi đến khu đèn đỏ, ngọn xanh ngọn tỏ, đều hiểu điều này, phải chuẩn bị “đánh Đông dẹp Tây”, và “bình định thiên hạ”, không thì ở nhà với bu em cho nó khỏe. Các quan Tàu và Ta từ thiên đường XHCN cũng thường đến đây để thưởng thức hàng “tươi sống” và để xài bớt những đồng tiền dơ dáy kẻo dấu lâu trong kho nó bị mốc meo. Thôi “em chả” dám kể dài dòng sợ các cụ tiên chỉ trong làng mắng. Bậc trượng phu nào coi Vợ bằng vung, muốn biết thì bay đến đây để được “rờ tận tay, day tận mặt”.

Tôi lại tiếp tục bay đến Kuwait vào khoảng 10 giờ đêm hôm sau. Vì đi máy bay dân sự nên cái gì cũng tự lo. Liên lạc với xếp nơi sẽ đến, họ dặn dò sau khi lấy hành lý, kiếm cái bàn ngồi ở quán tên… cứ thoải mái uống mấy ly cà phê cũng được và chờ. Cái đất nước kỳ cục này càng nói thì càng chán! Visa của tôi còn hiệu lực mà nó cũng không “ke”, khi tôi xếp hàng qua hải quan, trình giấy, nhân viên trả lời tiếng Anh với toàn những âm “R” nghe đến “R-R-R-R-RUNG” cả màng nhĩ mà chẳng hiểu anh ta nói cái chi, làm chợt nhớ đến ông thủ tướng cờ lờ mờ vờ của XHCN VN khi  đọc diễn văn rất là “phong cách” Lờ Sờ Vờ Mờ (Lịch sự văn minh) và nghiêng đầu rất đúng “quy trình”, chứ chả phải Lờ Đờ Vờ Vờ (Lù đù vờ vịt) như các chú đâu. Này nhé, lãnh đạo nước anh rất giỏi diễn đạt khi đọc “đít cua”, đầu thì cắm xuống, nếu nhỡ mà rời “phao”(tờ giấy viết sẵn) là “chìm” liền. Thương các chú lắm anh mới bảo ban, lộ ra anh bị buộc tội “tiết lộ bí mật quốc gia” là chết chắc. Các chú Kuwait còn phải học hỏi nhiều phong cách lãnh tụ của nước anh. Phải gởi chuyên viên qua học văn minh lịch sự  và nghệ thuật nói chuyện trước công chúng của các quan Việt Nam. Có học cả đời anh nghĩ các chú cũng chả sánh vai được với các đỉnh cao trí tuệ của nuớc chúng anh đâu. Khi họ phát biểu là phải có công thức, quy trình, và lập đi lập lại nghìn lần thì dù có nói phét cũng thành sự thật, chứ các chú Kuwait, mặt như cái thớt, nói thì nhát gừng, lại cứ đánh lưỡi cong cớn cả lên thì thánh cũng chả hiểu các chú muốn nói cái gì. Thôi thì lần này anh bỏ qua, nhưng không có lần sau nhé.

Tôi phải hỏi lại 2, 3 lần, anh ta cáu, đứng dậy chỉ về hướng cầu thang và phán “VISA OVER THERE RRRRRRRRRRR”. Cái ngôn ngữ mỏi tay và biểu cảm trên khuôn mặt mới thật là dễ hiểu làm sao! Khi lên cầu thang thấy quen quen, 6 tháng trước tôi có đến chỗ này rồi. Lại lấy số thứ tự và chờ, lại những khuôn mặt nặng như đá… rồi cũng xong. Xuống cầu thang trở lại chỗ anh chàng lúc nãy, không thèm ngó tờ giấy, chàng ra hiệu cho đi qua. Tôi nhờ một nhân viên người Ấn Độ lấy dùm 2 cái túi quân trang và hành lý và đẩy tới quán cà phê trong khi tôi quải cái ba lô theo sau, biếu $5, anh mừng lắm, anh nói nếu chờ bạn thì cứ để hành lý trên xe, không sao cả. Trong bài trước tôi có đề cập các nước dầu hỏa Trung đông nhiều tiền lắm bạc này, tất cả mọi việc tay chân, họ mướn người từ các nước nghèo như Ấn, Bangladesh, Philippines, Indonesia hay Malaysia, Tibet, Nepal, Uzbekistan hay các nước Trung Á qua làm công và đứng bán hàng. Người Kuwait chỉ làm chủ, còn không họ ở nhà không đi làm vẫn có con sen người hầu đầy đủ. Đối với công nhân từ các nước cộng sản, họ vẫn e dè lắm vì người cộng sản đi đâu cũng mang tiếng có bàn tay “diệu thủ thư sinh” (ăn cắp) và không thật thà. Ở đây ai phạm tội ăn trộm, họ chặt tay.

Ở Trung Đông một thời gian, tôi nhân xét thấy đời sống dân chúng ở các nước dầu hỏa nói chung, và Kuwait nói riêng, khá sung sướng, từ những bộ lạc du mục nghèo đói nay trở thành một nước giàu có văn minh nhờ “vàng đen” nên họ làm biếng chỉ lo hưởng thụ và không chịu làm việc. Dầu sao dân họ vẫn sướng và tự do hơn dân các nước cộng sản gấp vạn lần mà lãnh tụ luôn rêu rao là thiên đường XHCN.


Mấy cô Ả Rập uống Starbuck xài I-phone, trong quán cà phê ở phi trường Bahrain, Kuwet.

“Cứ kiên nhẫn chờ, khi nào thấy 1 người đàn ông Mỹ trẻ, mặc đồ dân sự, tay cầm laptop, ngồi xuống uống cà phê, đó là người sẽ đưa anh về trại”.  Uống hết 1 ly cà phê và 2 chai nước mà chẳng thấy ai. Chờ cho đến gần 0200 giờ sáng mới thấy người được mô tả lừng lững đi vào. Vừa ngồi xuống là có khoảng 4 người, nãy giờ cũng ngồi đồng cà phê như tôi, ùa đến nhanh như chớp. Tôi có thấy họ sau khi lấy hành lý và đoán chắc cũng là người Mỹ đi công tác như mình, quả đúng y chang. Dân Mẽo đi công tác qua Trung Đông hầu hết làm việc cho quân đội hoặc quốc phòng. Vì có kinh nghiệm, chỉ nhìn lối ăn mặc và hành lý, nhất là cái ba lô cũng đoán được là họ vì tôi cũng sắm 1 cái ba lô y chang kiểu mẫu, chỉ khác màu mà thôi. Tôi cũng đến trao đổi và trình thẻ. Anh mời mọi người theo ra bãi đậu xe có tài xế đang chờ sẵn trong 1 chiếc mini-bus. Chúng tôi về đến trại Arfj. khoảng 0300 giờ sáng. Dọc đường về trại, tuy màn cửa vẫn phải buông kín như thường lệ, lần này tôi bớt lo âu căng thẳng nên hé màn quan sát, ban đêm mà xa lộ Kuwait vẫn nhộn nhịp xe cộ ngược xuôi trên 4 làn đường mỗi bên. Những dãy cột đèn chiếu sáng xa lộ cách nhau chừng 70 mét và không hề có 1 sợi dây điện nào lòi ra, chứng tỏ họ cũng có hệ thống xa lộ tiên tiến, đẹp đẽ, êm ái không thua gì các nước Âu Mỹ. Dọc đường bảng chỉ dẫn tất cả đều được viết bằng 2 thứ tiếng Ả Rập và Anh, và đặc biệt thành phố của họ đèn thắp sáng choang, có khi còn hơn các thành phố ở Mỹ.

Sau thủ tục nhập trại, đóng dấu phiếu ăn, tôi nhận giường xong, lấy quần áo đi tắm cho tỉnh táo. Trở lại phòng mà lạnh run vì thời tiết bên ngoài khoảng 10 C, leo lên giường nằm đó mà ngủ không được, nhìn đồng hồ 0430 sáng, ráng nhắm mắt cho đỡ mệt nhưng không tài nào ngủ được cho đến 0900 sáng phải ngồi dậy vì tiếng ồn ào xung quanh. Đây là trại tiếp liệu và chuyển tiếp cho lính tráng đi hoặc về nên lúc nào phòng ngủ tập thể cũng có người ra vô, khó mà ngủ thẳng giấc. Sáng hôm đó, lên văn phòng ghi danh bay đi B., nước Afg., họ hỏi có ULN number không? No ULN number, no flight. Tôi không có vì tự bay bằng đường dân sự nên phải tự kiếm cách để kiếm ra hay nhờ ai đó làm cho một ULN. Bỏ bu rồi, chắc phải kẹt lại trại này cả tuần chứ chẳng chơi! Tự nhủ, có lo cũng chẳng làm gì được, vì số ULN phải được cấp trước ở Mỹ còn không thì chờ dài cổ cho đến lúc gặp may mà cái may coi bộ không dễ dàng gì khi người ra vô tấp nập như thế này. May sao, tôi gặp một anh trung sĩ Mỹ da màu trực văn phòng, thấy tôi bối rối, anh hỏi có cần giúp gì không? Tôi trình bày, anh lục trong cuốn sổ tay và cho tôi số phone và tên của một sĩ quan, dặn dò chỉ được gọi vào giờ nhất định thôi. Ngó đồng hồ, còn lâu mới tới giờ, nên tôi đứng tán gẫu, biết anh đến Mỹ năm 12 tuổi từ vùng Carribean Nam Mỹ. Anh tâm sự có người bạn thân Nam Hàn cũng trong quân đội nên anh tưởng tôi cũng người Hàn. Nhờ cùng cảnh ngộ là dân nhập cư với nhau, tôi gặp hên.  Ông thiếu úy mà tôi gọi cho biết còn 1 chỗ trong chuyến C-17 vào trưa mai, ông sẽ dành cho tôi chỗ đó, sau khi bảo tôi viết xuống ULN number mà ông ta sắp đọc cho nghe. Hôm sau, ra phi trường, tôi “check-in’ với người lính trẻ đang ngồi làm việc, anh nói chuyến bay không thay đổi, cứ việc đi chơi hay ăn uống trong trại, nhưng phải trở lại phòng đợi trước giờ “lock-down”, nếu không thì ráng chịu.

Đi bộ ra phi đạo, leo lên chiếc vận tải cơ C-17 mới thấy nó lớn cỡ nào; bên trong là những containers chứa hàng và 2 chiếc xe chiến đấu MRAP còn khá mới, hai hàng ghế hai bên dựa lưng vào thành máy bay dành cho hành khách khoảng 17 người gồm lính tráng và duy nhất tôi là dân sự. Mất 4 giờ bay, ngủ gà gật, cuối cùng tôi cũng đến B. Air Field, Afg. Máy bay đáp xuống phi trường trời đã về đêm; cái hay và tài của phi công Mỹ là họ đáp ban đêm không cần đèn pha chiếu sáng mà chỉ cần “night goggle” (kính nhìn ban đêm) và trải qua nhiều huấn luyện, phi công đáp xuống thật nhẹ nhàng. Người ra đón chở thẳng đến nhà ăn, sau đó đến văn phòng làm việc nhận nhiệm sở mới vì tôi đã được phân chia làm việc ca đêm nên người đón khuyên tôi nên ráng thức để hôm sau về ngủ dễ hơn. Buông người vào trong chiếc ghế bành thoải mái, bỏ một hộp Keurig (cà phê) vào máy, nhấn nút, nhấp một ngụm cà phê nóng mới thoải mái làm sao! Bên ngoài, nhiệt độ xuống -2 C.

Chẳng biết ai báo cho tụi dân địa phương biết gã Mít nhà mình mới đến, chỉ 5 ngày sau chúng nó đã làm dàn chào tôi bằng 1 loạt đạn pháo vào trại. Khác với lần trước ở K., sau 10 ngày chúng mới đánh hơi ra. Tụi này láo lắm nhé, không ai dạy bảo nên chúng không biết thế nào là kính lão đắc thọ, thấy bậc cao niên đến đất nước thăm mà chúng không cho “senior citizen discount” mà lại bắn đại bác dàn chào như thế này thì thật là quá lắm, phải dạy chúng nó 1 bài học mới đỡ bực.

Bữa chúng bắn, loa hệ thống báo động có kêu đấy chứ, “Incoming”(địch bắn vô) 3 lần, thằng tôi đáp lại bằng tiếng ngáy “I’m snoring”(tao đang ngáy) cũng 3 lần chẳng kém, thêm đang bị jetlag (múi giờ khác biệt) nên cứ vờ không nghe, không thèm lăn xuống giường hay chạy ra bunker nữa mà cứ nằm trên giường tiếp tục kéo gỗ say sưa mặc cho ngoài kia súng đạn tơi bời vì tôi đơn giản nghĩ là giày dép còn có số, huống chi con nguời phải không qúy vị? Khi nào “Giời” gọi thì dạ chứ lúc này buồn ngủ lắm dzồi, chẳng phải thưa bẩm mất thời giờ.

Của đáng tội, tiếng nổ kỳ này nghe khá xa mãi ở đâu đâu lận, mà phòng ngủ của tôi lại sát bức tường T-wall bảo vệ nên thấy vững bụng mà an giấc nồng văng vẳng đâu đây tiếng hát mơ màng của Khánh Ly “Đại bác đêm đêm, dội về thành phố, người say giấc nồng vẫn ngáy ro ro…”.

Xin giải thích 1 chút về hệ thống bảo vệ C-RAM của phe ta, đây là 1 hệ thống phòng thủ rất tốt nên tôi ỷ lại mà không thèm chui vào hầm. Ngoài các bức tường cao gần 20 feet che chở xung quanh, trại chúng tôi còn có Iron Dome Defense System giống như quốc gia Do Thái đã từng bảo vệ đất nước nhỏ bé của họ một cách hiệu quả khỏi tất cả đạn pháo hay hỏa tiễn từ các nước lớn như Iran. Năm 2012 Iron Dome tiêu diệt 400 trái pháo từ trên cao bắn vào dân cư Israel. Dưới đây là chữ viết tắt của C-RAM và hệ thống bảo vệ trại.

Hệ thống C-RAM là loại vũ khí đặc biệt khi radar báo có đạn pháo, hỏa tiễn địch đang bắn tới, giàn súng Phalanx trong trại sẽ bắn lên hằng loạt đón đường và phá hủy chúng trước khi chạm đến mục tiêu. Khẩu Gatlingun này bắn 75 viên/1 giây và tiếng nổ y như tiếng bò rống thật to và điếc tai.
Mời mọi người coi video sau đây để thấy sự thật và việc thật hơn. Một lần nhìn hơn ngàn lần nghe/đọc: https://youtu.be/w4PXou0aGiE

Trại cấp cho chúng tôi 1 chiếc bán tải (pick-up truck) với crew cab chở được 5 người để đi lại. Đó là 1 chiếc Tata do Ấn Độ chế tạo mà tôi gọi là chiếc “tà tà” vì quả thật nó rất tà tà, không đi đâu mà vội.  Mỗi lần đề máy mà không nghe gì hết, chỉ một sự im lặng đến chết người, thì phải kêu thằng ngồi kế bên “get out”, khi cái ghế nhẹ đi vì không ai ngồi lên “đầu” thì xe mới chịu nổ máy, rồi lại mời thằng đi chung, get back in, xin vui lòng an tọa, vui thì nó nổ mà buồn thì nó im. Ôi cái xe Ấn Độ! Tôi chưa bao giờ chạy xe hơi do các chú Ba chế tạo nên không thể so sánh em nào “khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” hơn em nào. Đặc biệt xe Toyota chiếm đa số, không phải dân Mít ta mới là người khoái xe Nhật, mà các chú Ả Rập cũng rất chịu xe của các ngài Nhật Lùn vì nó bền và chịu được sự văng vật của tài xế và chịu mưa nắng nóng lạnh bất thường của miền đất này.

Ăn uống thì khỏi nói, đồ ăn thì đổ đi không hết mà tôi chỉ dám ngày 2 bữa tắm rửa ngày 1 lần (nhà ăn mở cửa 4 bữa/ngày), vì ăn ít thì ốm o, ăn no thì óc ách, ngủ không được. Cứ ăn vừa đủ thì không bệnh tật chi mà lại ngủ ngon, còn tắm quá 1 lần ngày thì sợ cảm lạnh. Quần áo, mùng mền thay ra thì bỏ vào túi lưới có tên và số của mình, đem vào nhà giặt nhờ các nàng xứ Kazahkstan, Kosovo, Serbia, hay Macedonia bỏ vô máy giặt dùm, 3 ngày sau trở lại lấy, mọi thứ được các nàng gấp gọn gàng phẳng phiu. Nói về các nàng từ mấy xứ sở này, phải công nhận họ rất đẹp, trắng trẻo dễ thương, có 3/4 nét tây phương và 1/4 nét Á Châu. Chắc họ rủ nhau về làm cho phòng giặt hay sao mà toàn là nghe họ nói chuyện ríu rít bằng ngôn ngữ của họ mà không lẫn 1 sắc dân nào khác. Đúng là buôn có bạn, bán có phường. Cũng như mấy anh Ấn Độ làm ở nhà ăn vậy. Mấy anh Chà Và này, nấu cái gì cũng bỏ cà ri, thậm chí cá hấp, rau cải kho, họ cũng tẩm mùi cà ri. Mỗi lần nhìn thực phẩm họ nấu, tôi ngán đến tận cổ, không dám đến gần.

Ban quản lý trại đã chấm dứt mướn người địa phương vì sau vụ nổ bom năm ngoái tại khu chợ trời trong trại, họ sa thải hết người địa phương vì không dám tin mấy chú tối ngày mơ được 42 nàng trinh nữ “nâng khăn sửa khố” sau khi về chầu Allah. Thà sa thải lầm, còn hơn mướn lầm. Câu này nghe quen quen từ quê hương chùm khế ngọt của mình à nghen. Chuyện là một tên cuồng tín làm trong nhà bếp, ngày nào hắn cũng đem bánh trái từ nhà vào mời bạn bè ăn. Hắn khoe vợ làm bánh (home-made cake) ngon lắm nên đem vào chia xẻ với mọi người nên không ai nghi ngờ gì. Kéo dài vài năm, hắn có đủ thuốc nổ dấu trong bánh để làm 1 trái bom gây thương vong cho 1 số người, kể cả cái mạng bèo bọt của hắn.

Đây là 1 phi trường lớn của quân đội Mỹ ở đất nước này, nơi tôi làm việc.Sở dĩ chúng tôi được trả lương hậu vì đây là vùng đất đang xảy ra chiến tranh (war zone). Có thể với một số người thì tôi là người dại dột vì tránh vỏ dưa VN lại đi gặp vỏ dừa ở đây, nhưng tôi lại thích cảm giác mạnh, cảm giác của một cuộc phiêu lưu kỳ thú với những vùng đất mà chỉ nghe, biết qua kinh thánh và tin tức những bạo loạn chiến tranh trên TV, thì nay tôi đang ở giữa những vùng đất kỳ thú lẫn đau thương ấy. Kế văn phòng nơi tôi làm việc là một bunker (hầm tăng xê) để tránh đạn. Mỗi khi báo động vang lên, mọi người phải mang áo giáp, nón bảo vệ, và vào ngay hầm. Trần và vách hầm được đúc bê tông dày khoảng 15 inches và được che chắn thêm bằng bao cát.

Hầm bê tông tránh pháo kích, được che chắn thêm bằng bao cát.

Tết Mậu Tuất năm nay, hy vọng tụi cuồng tín không bắn vào trại thay cho pháo Tết vì tuần nào chúng cũng rình mò như VC ngày xưa, bắn phá gây sợ hãi trong dân chúng. Bắn riết rồi tôi chẳng còn phân biệt tiếng súng nào của ta hay địch. Nếu có bắn thì tôi cũng coi như tiếng pháo giao thừa đang về trên đất nước mình.
Nhìn căn hầm dưới đây làm tôi nhớ bài hát xưa: Đồn anh đóng xa ngoài biên, tuyết sương rơi đầy, anh không có mai vàng nên không biết Xuân về hay chưa?

Trong trại có những nhân viên dân sự được mướn từ Ghana hay Uganda Châu Phi mang súng tiểu liên AK đứng canh bên ngoài nhà ăn, nhà giặt đồ, và những khu buôn bán, họ có nhiệm vụ coi giấy tờ và thẻ của bất kỳ ai ra vô những tòa nhà đó. Tôi rất thích tác phong và kỷ luật của họ, hỏi ra mới biết họ cũng gốc lính mà ra. Trời lạnh căm căm, đôi khi tuyết rơi mà họ vẫn cứ phải đứng ngoài trời hằng giờ và canh giữ an ninh cho mình. Họ được quân đội Mỹ nuôi ăn và ở như tiêu chuẩn của 1 lính Mỹ. Chúng tôi ăn gì, họ ăn thứ đó. Chúng tôi ngủ trong nhà tiền chế, họ cũng thế. Vì vậy họ không thấy sự khác biệt của người đi làm thuê và công dân Mỹ. Đây là cách đối xử rất bình đẳng của chính phủ Mỹ làm cho họ không có cảm giác chủ và tớ. Và cũng như hầu hết mọi người trên thế giới, họ mong ước có ngày sẽ định cư và xây dựng một gia đình riêng của họ trên đất Mỹ: American Dream. Tôi hỏi sao không là Chinese Dream? Họ cười phá lên và nói China is number 10 với ngón tay cái trỏ xuống đất.

Những dãy nhà ngủ 2 tầng nhìn từ xa, có hàng rào kẽm gai và 2 lớp tường bê tông che chở. Xa xa là những ngọn núi tuyết…

Trời mùa Đông u ám nhiều ngày, tuyết vẫn nhẹ rơi, không liên tục, nhưng đủ làm người viễn chinh cô đơn ít nhiều, lạnh bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn.

Nhà tiền chế là những cái hộp sắt (made in Italy) được lắp ráp lại thành những căn phòng nhỏ dính lại với nhau, dành cho 2 người. Phòng được gắn máy điều hòa không khí, thiết bị báo khói, và đèn chiếu sáng đầy đủ. Phóng tắm và nhà tiêu ở cuối dãy. Nhân viên vệ sinh và bảo trì hằng ngày quét dọn và sửa chữa sạch sẽ. Những công nhân này đa số đến từ nước cộng sản Nam Tư cũ, nay được tách rời ra thành 5 nước độc lập nhỏ ở Đông Nam Âu Châu. Đây là một thì dụ điển hình nữa của sự thất bại chủ nghĩa Cộng Sản sau khi nó sụp đổ. Người dân các nước này đổ xô đi lao động hợp tác với các nước Tư Bản giãy hoài mà không chết, mà điểm đến làm thuê thích nhất là làm cho tên đầu xỏ Tư Bản đế quốc Mỹ vì “chúng nó giàu quá chúng mày ạ”! (Câu nói của Đỗ Mười sau khi chiếm miền Nam).

Đất nước này gần 35 triệu dân, được gọi là Islamic Republic of Afg. gồm nhiều núi non và sa mạc, là một miền đất bị khóa lại (land-locked country) không có lối ra biển và nghèo (per capita: $1888); tuy khí hậu khắc nghiệt nhưng không thiếu những thiên nhiên hùng vĩ, không thiếu những phong cảnh đẹp đến sững sờ; nhưng họ thiếu một sự lãnh đạo sáng suốt và một chất keo gắn kết dân tộc. Cứ tưởng tượng đây là nơi nghỉ dưỡng trượt tuyết thì còn gì bằng, hoặc có thể là nơi tổ chức Winter Olympic trong tương lai. Hầu hết người dân sống rải rác theo lối du mục hay từng bộ lạc, từng làng nhỏ, họ chăn cừu và nuôi lạc đà, nông nghiệp không đáng kể nhưng họ lại bị những giáo sĩ cuồng tín cai trị và gieo vào đầu họ những tư tưởng hận thù giống như các chế độ cộng sản trước đây. Họ quan niệm phương Tây, nhất là Mỹ, đều là kẻ thù, các tôn giáo khác là những kẻ lạc giáo (infidels) cần phải giết chết. Về giáo dục thì chỉ 38.2% dân biết đọc và viết, hầu hết là đàn ông. 

Ở trại này, chúng tôi nghe báo động mỗi tuần. Có 4 loại báo động từ thấp đến cao. Thấp thì không cần phải vào hầm hay mặc áo giáp mà chỉ cần đâu ở yên chỗ đó cho tới khi loa thông báo “All clear” thì mới được di chuyển. Một hôm đang nằm coi phim trong phòng sau giờ làm việc, tôi nghe loa báo động “IDF Attack, Take cover” 3 lần, vội bỏ ống nghe ra khỏi tai và mở cửa coi việc gì xảy ra? Thấy ai nấy vội vàng trở về phòng và đóng cửa lại. Tôi mới hay là trại đang bị bắn vô mà ở rất xa không ảnh hưởng gì đến nơi  đang ở. IDF= Indirect Fire, kiếm chỗ làm “anh hùng Núp” ngay kẻo vỡ gáo vì đạn lạc hay miểng văng.

Cuộc sống xa gia đình và ở trong trại lính thì đương nhiên không thoải mái như ở nhà, thiếu thốn nhiều thứ. Thiếu tiếng âu yếm của vợ ra lệnh “nhờ” đi rửa chén, giặt đồ; hay nhớ cái máy massage đấm lưng mà thường tôi là operator chứ không phải nàng. Nhiều cái rất đời thường nay chỉ còn trong mơ.

Bạn ơi, nếu tất cả mọi người di dân đều co cụm, bảo thủ, và lo đi cày cho cuộc sống cơm áo, gạo tiền thì ai là người đóng góp thêm cho quê hương thứ hai này, quê hương mà đôi khi họ phải đánh đổi bằng mạng sống để có được. Nhớ lại trước chuyến đi, tôi phải vào khám răng và chụp X-ray trong phòng mạch một cô nha sỹ gốc Đại Hàn. Cha mẹ cô cũng là những người di dân như tôi. Cô hỏi sao tôi lại chọn đi nơi nguy hiểm như vậy, sao không ở nhà yên ấm với vợ con? Hay vì đồng lương cao? Không do dự, tôi trả lời “I owe this country”, tôi thiếu nợ đất nước này. Câu trả lời làm cô và cô phụ tá im lặng 1 hồi lâu và tôi thấy trong mắt họ có vài giọt lệ long lanh. Họ chúc tôi lên đường bình an và cố gắng trở về an toàn.

Là một con người bình thường, ai cũng muốn có 1 cuộc sống hạnh phúc, yên bình cùng gia đình, không ai muốn phải xa những người thân thương mà đi vào vùng lửa khói, vào những chỗ hiểm nguy. Bản thân tôi cũng có những lúc suy sụp tinh thần vì những bực bội tại chỗ làm việc, vì sự thiếu thốn tiện nghi, vì những cô đơn vây bủa từng ngày. Những suy nghĩ tiêu cực như đang sung sướng không muốn, lại đâm đầu vào chỗ khổ rồi than! Rồi tôi tự hỏi sao mình lại ích kỷ trong khi biết bao nhiêu người lính trẻ đang đối diện với nguy hiểm hằng ngày trên chiến trường, với những IED (Improvised Explosive Devices) bom mìn gài trên đường. Họ bỏ lại một phần thân thể trên những vùng đất lạ cho quê hương hiệp chủng quốc Hoa Kỳ được an ninh, thịnh vượng.

Tôi phải tự động viên để tôi yên tâm làm việc trong điều kiện thiếu thốn như thế này và ước mong những hy sinh nhỏ bé của mình góp một chút gì đó cho quê huơng mà tôi đã chọn sẽ là nơi tôi nằm xuống khi thân xác mình trở về với cát bụi. Các bạn ơi, thà nhóm lên một ngọn lửa nhỏ còn hơn để cô đơn lạnh giá bao trùm không gian này.

Sau chuyến công tác này chắc dừng bước lãng du thôi vì bắt đầu thấy mệt mỏi rồi, muốn xả bỏ, muốn buông xuôi về nhà ăn cơm cà pháo mắm tôm với bu nó và ngắm xương rồng saguaro nở hoa mà vui. Nhưng than ôi, đã nắm được cái gì đâu mà buông!

Viết xong vào đêm 30 Tết năm Mậu Tuất 2018.  
Nguyễn Văn Tới

1 comment:

  1. Job nguy hiểm quá! Đóng góp bao nhiêu cũng đủ rồi, thôi về với bu nó đi cho ấm áp tuổi đời còn lại.
    Bài viết rất ly kỳ, thú vị, lôi cuốn người đọc.
    Cám ơn tác giả. Chúc bình an.
    NPN

    ReplyDelete