Pages

Sunday, November 11, 2018

Ấn Tượng ......Saigon - Tạp Ghi Huy Pương


Ðể nhớ Huỳnh Hữu Cầu, Vĩnh Cảnh, Ðặng Ngọc Hồ, Bửu Thụ, Tôn Thất Cẩn…những bạn bè, kẻ còn, người mất!

Mùa hè năm 1954 sau khi hiệp định Geneve được ký kết, người Pháp lên tàu về nước, ngôi trường Khải Ðịnh ở Huế, nguyên người Pháp khi trở lại Việt Nam, sử dụng như một đồn binh, được giao lại cho phía Quốc Gia. Chúng tôi là những học sinh vừa xong niên học Ðệ Tứ tại cơ sở Việt Anh, đầu đường Hoàng Hoa Thám, sau này là trường Trung Học Nguyễn Tri Phương, phấn khởi tiếp thu, đồn lính Tây, quét dọn để trương bảng Trung Học Khải Ðịnh, chỉ dành cho các lớp Trung Học Ðệ Nhị Cấp, trong khi các lớp em út, từ Ðệ Thất đến Ðệ Tứ còn ngồi lại chỗ cũ.

Ðể tiết kiệm ngân khoản cho việc chỉnh trang lại ngôi trường, Giáo sư Nguyễn Văn Hai, năm đó là Hiệu trưởng Trường Khải Ðịnh, phát động phong trào kêu gọi học sinh vào mùa hè tình nguyện đến làm vệ sinh và quét vôi các lớp học. Sau đó để tưởng thưởng cho các học sinh đã vất vả suốt mấy tuần lễ, thầy can thiệp với toà Lãnh Sự Mỹ ở Huế và cơ quan USOM, dành cho chúng tôi một chuyến máy bay C.47 đi Saigon, ăn ở tự túc, khi nào muốn về lại Huế thì đến USOM xin vé máy bay.

Bạn đọc cũng hiểu cho niềm hãnh diện và sự nô nức của chúng tôi, trước chuyện được đi Saigon. Không dễ dàng như các bạn ở miền Nam, Saigon đối với chúng tôi, những cậu học sinh mới lớn của một tỉnh miền Trung xa xôi, vẫn là một điều gì đó cao sang, lộng lẫy như câu chuyện trong mơ, không bao giờ với tới. Từ những năm Ðệ Ngũ, tập tễnh làm văn chương, chúng tôi chỉ biết được Saigon qua hình ảnh của những tấm carte-postale và những tuần báo văn nghệ như Ðời Mới, Thẩm Mỹ…mỗi trưa thứ Năm đã đến Huế bằng những chuyến bay Air Vietnam, có mặt ngay sau đó trên sạp báo của nhà sách Bình Minh trước cửa chợ Ðông Ba.

Tôi không có bà con, anh em gì ở Saigon chỉ có địa chỉ một thằng bạn hồi học Ðệ Ngũ, đổi vào học Saigon, ở nhà ông chú, nhưng nghe được đi xa, thì cũng đi liều. Ðến Saigon, xe bus USOM đổ ở đường Tú Xương, tôi với Bửu Thụ thuê xe xích lô máy về thẳng địa chỉ nhà ông chú Huỳnh Hữu Cầu ở đường Bùi Quang Chiêu, thường được gọi bằng cái tên “Hẻm Cá Hấp,” gần chợ Bến Thành.

Hương vị của Saigon
Ấn tượng đầu tiên của tôi, một thiếu niên mới lớn, với Saigon, khi ra khỏi sân bay Tân Sơn Nhứt là nhà cửa, đường sá, xe cộ, to lớn, rộn rịp, khác xa hẳn với thành phố Huế của tôi, nghèo nàn và êm ả. Dần dần, ngấm vào hồn là đèn xanh đèn đỏ và âm thanh của tiếng xích lô máy nổ giòn giã vào những đêm khuya. Và mùi của Saigon, đó là mùi xăng nhớt trong khói xe, và mùi mỡ dầu ngọt ngào từ những quán ăn đủ loại bên đường.

Bữa ăn đầu tiên người bạn đãi tôi là một dĩa cơm sườn nướng mỡ mòng vàng tươm, điểm mấy lát dưa leo, cà chua và một lá rau xà lách, kèm theo một ly đá lạnh. Ðây là lần đầu trong đời, tôi được “sở hữu” một miếng sườn heo như hôm nay, và ngạc nhiên cũng lần đầu biết đến cái ly cối trà đá, một đặc điểm của Saigon bình dân trong quán xá hay trong bữa cơm gia đình.

Ông chú bạn tôi là một thương gia chủ mấy chiếc xe đò chạy đường Banmethuot-Saigon, trong nhà thợ thầy, người làm công và cả khách đi xe vào ra tấp nập. Ðến bữa ăn, tôi cũng tự nhiên gia nhập ngồi vào bàn ăn với mọi người, không người nào thắc mắc về sự có mặt của tôi, và trong bàn ăn, ngoài bạn tôi, tôi cũng chẳng biết ai. Tôi cho đó là đặc điểm “dễ dãi” của người Nam Bộ nói chung, và Saigon nói riêng, khác hẳn với phong cách của Bắc và Trung Kỳ.

Trời Saigon lúc ấy vào mùa Hè, và hình như suốt 12 tháng, tháng nào của Saigon cũng là mùa Hè, chúng tôi trải chiếu và ngủ trên sân thượng của ngôi nhà, với bầu trời đầy sao. Bên kia đường Calmette là Dancing Văn Cảnh với đèn màu nhấp nháy, ánh sáng thay đổi chiếu loang loáng đến chỗ chúng tôi nằm, đêm nào cũng nghe tiếng nhạc vũ trường xập xình và tiếng trompette the thé cho tới nửa đêm. Sau nửa đêm khi đèn tắt, tiếng nhạc ngưng, thì dưới đường phố, tiếng nổ giòn giã của những chiếc “xích lô máy” lại nghe rõ mồn một trong đêm.

Xe nước mía. nguồn: pbase.com

Trên đường đi cùng bạn tôi ngạc nhiên nhận ra Saigon sao có nhiều người ăn xin, ăn mặc rất tươm tất, mặc áo quần trắng, có khi đội nón “feutre,” chặn đường chúng tôi, chắc là vì bản mặt ngây thơ, để ngửa tay xin “Cậu cho đồng bạc ăn cơm!” Nếu tôi sốt sắng móc túi cho thanh niên kia một đồng, thì tôi sẽ được nài nỉ: “Xin cậu thêm một đồng mua tờ báo lót lưng ngủ đêm nay!” Tôi thương hại định móc túi, thì thằng bạn vội vã kéo tay tôi đi và chửi tôi: “Ðồ ngu! Ðừng đem tâm hồn Huế của mi mà áp dụng nơi này!”

Xe nước mía Viễn Ðông, và những chiếc  khay nhôm “phá lấu” để trên cái chân xếp bằng gỗ bên lề đường Bonard là những cái gì quá đỗi lạ lùng với một thiếu niên ở tận “ngoài nước Huế” rất đỗi nhà quê, vào Saigon lần đầu. Tôi được thằng bạn kéo lại chú ba Tàu bán “phá lấu,” hỏi tôi muốn ăn gì, gan, mề gà, tim, lá sách hay ruột heo. Thằng con trai Huế như tôi, chưa bao giờ phơi bày sự ăn uống của mình ra giữa đường sá, chỗ đông người qua lại như hôm nay.

Người bán lấy một cái tăm tre, ghim vô miếng mề gà, quệt lên trên đó một ít tương đỏ và đưa cho tôi, tôi ngần ngại cầm lấy miếng “phá lấu,” ngập ngừng đưa lên miệng, trong khi con mắt thì láo liên nhìn quanh để xem có ai quen đang nhìn mình và thấy mình đang đứng ăn phá lấu ở góc đường Bonard- Pasteur không?
Cũng lần đầu tiên trong đời, gã thiếu niên 17 tuổi từ Huế vào, được uống một ly nước mía ngọt ngào với những miếng nước đá nhỏ của tiệm Viễn Ðông ở góc đường này.

Ở một tỉnh nhỏ miền Trung với cái “kiểu cách đặc biệt, cổ kính của xứ Huế, cái ăn, cái mặc luôn luôn được giấu kín, không bao giờ được phơi bày ra trước mắt thiên hạ như quang cảnh hôm nay tôi thấy ở Saigon. Phải ba năm sau, xe nước mía mới hiện diện trên đường Trần Hưng Ðạo, Huế và cái khay “phá lấu” luôn luôn là một nét đặc biệt của Saigon- Cholon.

Ly nước mía, ly trà đá, và cà phê đá phải chăng cũng là một đặc điểm của Saigon, một xứ nhiệt đới. Saigon, mà những người không nhà có thể ngủ qua đêm trên ghế đá công viên, ở vỉa hè hay trước những cửa tiệm đã đóng cửa.

Có thể nói Saigon là một thành phố không ngủ, với tiếng còi xe, tiếng động của các loại động cơ của các loại xe máy, xe xích lô, xe lambretta. Ánh sáng hình như chưa bao giờ tắt với “Saigon ngọn xanh, ngọn đỏ…” nhấp nháy ở mỗi đầu đường.

*****
Âm thanh của Sàigòn

Ở Sàigòn , ngày cũng như đêm, không lúc nào là chúng ta không nghe tiếng nổ giòn giã của những chiếc “xích lô máy,” tiếng xe lam chở khách đang chạy trên đường, lúc nào cũng có thể gọi là giờ cao điểm, tấp nập trên đường phố và muôn vàn tiếng còi xe nhấn liên tục để giành đường. Nhưng Sàigòn  từ những buổi sáng tinh mơ, từ những vùng ngoại ô chúng ta cũng có thể nghe được tiếng vó ngựa gõ trên đường nhựa của những chuyến xe ngựa (thổ mộ) chở hoa quả hay những gánh hoa tươi vào trung tâm Sàigòn . Và trong buổi chiều chập choạng tối, tiếng chim nghe rộn rã, xao xác lúc về tổ trong những vòm cây xanh, cao ở trên đường Hồng Thập Tự hay nơi “Vườn Ông Thượng,” còn được gọi là “Vườn Bờ Rô”( từ chữ Jardin des beaux jeux) hay sau này bỏ chữ Tây, chúng ta gọi là “Vườn Tao Ðàn!”.

Lắng sâu vào đêm, sau những âm thanh của đường phố, lời rao của những con hẻm, những ngóc ngách, chồng chất lên nhau ba lần con số, là những tiếng rao hàng khi lanh lảnh, khi ngọt ngào nghe từ giọng rao và cả vị ngọt từ món hàng được rao: “Ai ăn bột khoai… đậu xanh… bún tàu… nước dừa… đường cát hôn!” Ðã sống ở Sàigòn ai cũng đã nghe qua âm thanh loảng xoảng của chùm kim loại va vào nhau thay lời rao của một anh “tẩm quất” mù, hay tiếng lóc cóc của hai thanh gỗ gõ vào nhau của một xe mì leo lét ánh đèn vào buổi khuya, tối, mà một lần chúng ta đã nghe qua trong phim Kiếp Hoa do nữ tài tử Kim Chung đóng vai chính. 

 Bến xe buýt Công Quản Sàigòn xưa

“Ðèn Sàigòn  ngọn xanh ngọn đỏ…” Cũng lần đầu tiên trong đời từ một thành phố nhỏ, tôi biết thế nào là ngọn đèn giao thông ở mỗi đầu đường, chớp đổi từ xanh sang vàng rồi đỏ. Mỗi đêm khuya, khi xe cộ đã thưa thớt, đèn trở sang màu vàng, chớp tắt liên hồi. Ở Huế những ngày ấy, phía hai đầu cầu Trường Tiền đã có đèn xanh đèn đỏ, nhưng được một cảnh sát viên đứng ngay đó điều khiển bằng cách bật công-tắc để thay đổi màu đèn.

Taxi Sàigòn  là một hình ảnh đặc biệt. Chỉ có Sàigòn  mới có loại xe taxi Renault 4CV (4 ngựa) sơn hai màu xanh trắng. Những chiếc xe so trông còn nhỏ hơn là những chiếc xe mini thời nay. Một lần lên xe, tài xế bẻ cần hộp số là đã $6.00. Xe chỉ chở được ba người, nhưng phần lớn tài xế taxi cũng “thông cảm” cho chúng tôi, tuổi học sinh, khi đứa thứ tư ngồi tụt xuống ở ghế sau để cảnh sát khỏi trông thấy.

 Xe Lam thuở trước

Chúng tôi còn nhớ đến những chiếc xe Huê Kỳ Plymouth cổ lỗ đậ
u dài dài trên đường Nguyễn Huệ cạnh những kiosque bán hoa để cho khách thuê đi đám cưới. Saigon còn có những chiếc xe Traction 15 Citroen màu đen chuyên chở khách Sàigòn – Chợ Lớn với chú lơ xe luôn gào: “Chú Hai! Dì Ba! Chợ Lớn, Chợ Lớn đây!”

Có lẽ trên trái đất này chưa có một thứ tiền tệ nào mà dân chúng có quyền xé đôi tờ bạc một đồng để thành hai tờ, mỗi tờ 50 xu cho tiện việc trao đổi mua bán, trong khi đồng kẽm 50 xu không đủ để lưu hành. Ðây là một trong những cái tuỳ tiện, đơn giản mà dễ thương của xứ Nam Kỳ trước hiệp định Geneve 1954. Không có một văn bản nào của Bộ Tài Chánh quy định, ngăn cấm hay đồng ý cho việc xé đôi tờ bạc. Sau đó đất nước cũng bị xé đôi, hơn một triệu người miền Bắc di cư vào Nam. Bộ mặt của Sàigòn  chắc hẳn có thay đổi, kể cả nền văn hoá, chuyện ăn uống. Ðây là lúc món Phở Bắc du nhập vào Sàigòn mạnh mẽ, đánh bạt hủ tiếu Nam Vang vốn là một món ăn quen thuộc của Sàigòn .

Tôi không nhớ nhiều đến những quán cà phê sang trọng của Sàigòn  mà nhớ mãi những quán cà phê, khách ngồi co giò trên chiếc ghế đẩu, bình cà phê trên bếp lửa của những buổi sáng tinh sương đốt  bằng những thanh củi. Và cũng lần đầu tiên tôi nghe và biết thế nào là món “cà phê dĩa!”
Một chuyện mới lạ nữa đối với tôi là hai rạp chiếu bóng thường trực (mà chúng tôi hay gọi là ciné permanente) rạp Bonard trên đường Bonard trước cửa chợ Bến Thành gần bệnh viện Sàigòn , sau ngày Bonard đổi thành đường Lê Lợi thì rạp hát đổi thành Vĩnh Lợi để khỏi trùng tên với rạp Lê Lợi, cũng chiếu thường trực trên đường Lê Thánh Tôn sau lưng chợ Bến Thành.

Thập niên 1950, xe thổ mộ được vào thành phố.

A! Thì ra đây là một cái rạp hát chiếu một phim liên tục từ 9 giờ sáng cho đến 12 giờ đêm, mua vé vào lúc nào cũng được ở chết trong đó hay coi nửa phim bỏ ra cũng chẳng sao. Nên thường là chúng ta coi đoạn kết trước đoạn mở đầu, y như thời xưa giở cuốn tiểu thuyết, nóng lòng xem đoạn kết trước để xem hai nhân vật cuối cùng có lấy nhau không?

Vào thời đó, những năm đầu thập niên 50, phần lớn phim chiếu là những cuốn phim đen trắng, cũ khoảng một hai năm, nhưng là những cuốn phim nổi tiếng như “La valse dans l’hombre” (Waterloo Bridge) do Vivien Leigh và Robert Taylor đóng vai chính hay coi “Tant qu’il y aura des hommes” (From Here to Eternity) để nghe Montgomerey Clift thổi kèn truy điệu. Những phim này chúng tôi xem đi xem lại cả chục lần!
“Cinema permanent” là nơi cho những cặp tình nhân hẹn hò hay cho tụi học sinh trốn học, trong rạp không thiếu những cô cậu, áo dài hay sơ mi trắng tay ôm cặp. Ở rạp Bonard lại là nơi cho những cặp đồng tính gặp gỡ trong bóng tối đồng loã của rạp hát, và đã có người bị sờ soạng bất ngờ.

Có một điều gây ấn tượng lâu đời cho tôi, là ở rạp Vĩnh Lợi, sau năm 1954, người ngồi bán vé ở guichet là một thiếu phụ đặc biệt luôn luôn mặc áo dài đen và quấn ruban đen mà tôi có cảm tưởng như là một người quả phụ đang để tang chồng. Năm, bảy năm sau, khi tôi bước vào đời, đi nhiều nơi, một ngày trở lại Saigon, tôi vẫn thấy người đàn bà ấy ngồi sau ô cửa bán vé. Cuộc sống ở đây hình như không có gì thay đổi, sao dời và vật chẳng hề đổi.

Về thời tiết, Huế có những mùa mưa ba bốn ngày không dứt “Trời mưa ở Huế sao buồn thế! Cứ kéo dài ra đến mấy ngày.. (Nguyễn Bính) nhưng trời Saigon thì “chợt mưa chợt nắng,” nên có những lần “đụt mưa” chớp nhoáng và mưa tạnh, trời hửng nắng. Trong khi thế giới có bốn mùa thì Saigon chỉ có hai mùa Mưa và Nắng.
Và cũng nhờ khí hậu Sàigòn  quanh năm ấm áp, nên kẻ không nhà có thể ngủ trên hè phố, bến xe quanh năm. Trời thì lúc nào cũng đầy sao, tiếng động thân quen không bao giờ dứt.

 Rạp chớp bóng Lê Lợi

Saigon là một nước khác!

Ngày mới vào Sàigòn , tôi có đến thăm một  ông bác lấy vợ Sàigòn , khi ông bỏ xứ đến đây làm ăn từ hơn hai mươi lăm năm trước. Bà bác giới thiệu tôi với mấy bà hàng xóm đến chơi:
– “Ðây là thằng cháu ổng ngoài “nước Huế” vô thăm!”

Thì ra tôi là dân “nước Huế” mà trong này là xứ Ziệc-Nam, hai nước có phong tục, văn hoá khác nhau. Người ta nói Tây nó chia để trị. Lớn lên tôi không tin lập luận này, chẳng qua mỗi nơi có một chính thể khác nhau. Nam Kỳ là thuộc địa, nằm dưới sự cai trị trực tiếp của Pháp và dưới quyền Thống đốc Nam Kỳ người Pháp. Trung Kỳ là xứ của triều đình nhà Nguyễn chịu sự kiểm soát bảo hộ của Khâm sứ Trung Kỳ. Hai chính phủ Nam, Trung này không có quyền hành gì đối với nhau. Vả lại, hồi xưa việc đi lại xa xôi, khó khăn, ai ở nhà nấy nên ít biết đến nhau. Ở Sàigòn  đi Phnom-Penh còn gần hơn đi Huế, thì hỏi sao người ta không nghĩ Huế là một nước khác.

Cái văn hoá “cơm hàng cháo chợ” như khay phá lấu, xe nước mía và dĩa cơm tấm đã gây ngạc nhiên cho một thiếu niên “nước Huế” mới vô Sàigòn  đã đành, hôm giỗ ông bác, tôi mới “thất kinh rụng rời” khi thấy trên bàn thờ chỉ độc bày một nồi ca-ri gà và mấy khúc bánh mì cùng với hai chai bia “Con Cọp.” Nếu bữa kỵ này tổ chức ngoài “nước Huế” thì trên bàn thờ sẽ có 15 món, mỗi món bày trong những cái dĩa hay cái cái tô nhỏ xíu, lúc ăn phải rón rén, nếu gắp mạnh tay hai lần là hết dĩa. Ðó chính là sự khác biệt văn hoá, và tôi thấy bắt đầu thích Saigon với phong cách “ăn gì cúng nấy,” “nghĩ sao nói vậy,” chứ không kiểu đãi bôi, đò đưa, “mời mà lạy Trời đừng ăn” như người xứ ngoài. Sàigòn  quả là một nước khác!

Nữ sinh Sàigòn ngày trước

Hồi học lớp Ba, tôi đã biết đến bài tập đọc  “Sàigòn ” hay “Hòn Ngọc Viễn Ðông” trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, và không ngờ có ngày được bước chân tới xứ này.
Tôi chỉ sống ở Huế 17 năm nhưng 30 năm với Sàigòn, vì đã phải trừ đi 7 năm xa Sàigòn đi Bắc.

Tôi nghĩ Saigon bao giờ cũng là nỗi mơ ước của cả nước. Bạn bè tôi ngày đó ai cũng muốn đi và sống ở Sàigòn. Huế của tôi với mưa lụt, đói nghèo, dân tình khó khăn, lòng người ít cởi mở, nhưng sự chịu đựng vốn đã quen, nên thường ít ai muốn bỏ xứ mà đi.
Quả là Sàigòn đã để lại trong lòng tôi những ấn tượng khó quên, và chắc hẳn cuộc đời tôi đã thay đổi với mưa nắng Sàigòn .
Sau những ngày ở Sàigòn trở về, có lần cha tôi đã nói với tôi: “Tao thấy mi thay đổi quá nhiều!”
Trong bao nhiêu năm nay, tôi vẫn hy vọng Sàigòn không thay đổi, để ngày trở về tôi có thể thấy lại những góc phố, con đường xưa…..


Huy Phương

No comments:

Post a Comment