Cô dâu Huyền, 1972.
1. Về Những Người Thầy...
Hôm nay đọc bài “Thầy Tôi” trên báo,
tôi chạnh nhớ lại mình cũng có một vị Thầy không phải dạy ở nhà trường,
vì tại Việt Nam từ tuổi ấu thơ, tôi chưa bao giờ được cắp sách đến
trường.
Tôi vốn sinh ra trong gia đình nghèo ở làng Bến Lá, tỉnh
Quảng Trị. Năm lên 8 tuổi tôi đã rời xa gia đình vào Huế ở giúp việc
(gọi là ở đợ) cho gia đình ông Đỗ Trí, Trung úy Trưởng Ty An ninh ở
Thành Nội Huế cho đến năm 1962.
Trong nhà có một cậu Gia sư tên
là Phú, đến ở trọ dạy kèm để chờ ngày thi Tú tài. Châu là cô bé 11 tuổi
con gái đầu lòng của ông bà Trí, nhỏ thua tôi ba tuổi.
Một bữa
nọ, Châu không thuộc bài, tôi bồng đứa em nhỏ của Châu ngồi chơi trước
thềm, tôi trả bài dùm cho Châu. Cậu Phú nhìn ra thấy tôi và hỏi rằng
“Hoa ơi, làm sao em thuộc bài?”- Thì em nghe Cậu giảng đêm hôm qua mà.
Thế là từ dạo ấy cậu Phú thương tình âm thầm đưa bài vở của Châu học cho
tôi sao chép.
Để đáp lại công ơn cậu Phú, tôi giặt áo dùm, đôi lúc thấy bữa ăn còn lại ít quá, tôi nhường lại phần ăn của mình cho cậu ấy.
Ngày tháng trôi qua tôi không nhớ rõ là bao. Nhưng một ngày buồn lại đến!
Cậu
nói là cậu đi nhập ngũ, chúc Hoa dùng chút vốn liếng chữ nghĩa ấy mà
tiến lên với đời nhé. Cậu còn dặn là hãy đọc truyện nhiều là em biết chữ
thôi! Rất tiếc ngày ấy tôi không xin địa chỉ Cậu, và hỏi quê quán Cậu ở
đâu. Cậu dáng người cao, da ngăm, hơi rỗ một tí.
Cậu ơi, hiện
giờ Cậu ở đâu? Có còn sống không, hay đã bỏ mình ngoài chiến trận như
bao anh hùng khác? Cậu là bậc Thầy rất vĩ đại của em, Cậu có biết không?
Em mang theo hình bóng Cậu suốt cả cuộc đời mình.
Khi Cậu đi rồi
em cũng thôi ở nhà ông Trí, về quê học may. Năm 1966 quê em lại chiến
tranh khói lửa. Ba em lúc ấy ở Tiểu Đoàn 22 Pháo Binh, nên gia đình em
vào Tam Kỳ. Ở đó, em gặp được người Thầy thứ hai là Chị Lý Thị Bích
Thuỷ.
Quán may em ở gần trường dạy đánh máy chữ. Không có hàng
may, em thường đứng trước trường nhìn vào mà ước mơ... mình cũng được
như họ.
Vài ngày như thế trôi qua, một hôm em đang mơ màng thì
một bàn tay đặt nhẹ trên vai em, “Ê bồ, sao ngày nào cũng đứng nhìn vậy?
Em mắc cỡ bỏ chạy, thì Chị Thuỷ níu lại hỏi cho rõ chuyện. Tủi thân, em
oà khóc... Từ đó Thuỷ làm bạn, và trả tiền cho em đi học. Vài tháng sau
em được Thuỷ xin cho đi làm Thơ Ký đánh máy cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại
Chu Lai. Trước khi đi làm, Thuỷ dạy cho em, thuộc hết vần ABC và đếm từ
One đến One hundred.
Năm 1968, Chị Thuỷ và Huyền (tức là Hoa, tên em hồi đó) mất liên lạc!
Năm
2000, khi từ Mỹ về thăm Việt Nam, Huyền có vào Chu Lai và tìm được Chị
Toàn. Chị cho địa chỉ Thuỷ ở Fort Lauderdale. Về lại Mỹ, Huyền hết sức
vất vả mà cũng không tìm ra được Thuỷ!
Với tâm nguyện của Huyền,
ước mong một phép lạ, cho Huyền gặp được hai người Thầy mà Huyền đã mang
theo hình bóng từ 40-50 năm nay. Mỗi lần đi đâu đông người Việt, Huyền
không quên hỏi tên của hai vị, nếu không gặp được hai vị trong những
ngày còn lại cuối cuộc đời, Huyền vẫn mãi mang theo hình bóng hai vị
Thầy khả ái đến kiếp hậu lai. Hiện tại, nếu còn thở Huyền vẫn còn hy
vọng...
Ngoài ra, nhắn tin: Em Đỗ Thị Minh Châu, bây giờ em và
gia đình ở đâu? Chị không biết tên của Mẹ em, chỉ biết tên và cấp bậc
của Ba em mà thôi! Châu rất đẹp, ông bà Đỗ Trí, người Bắc di cư 1954,
cũng rất đẹp và rất phúc hậu. Đọc câu chuyện nầy, ai có biết tin, xin
cho Huyền tin để được liên lạc.
Tự truyện này cũng là lời nhắn tin rất tha thiết, mong được hồi âm.
Trương Thị Thu Huyền
(tức Hoa)
724.667.2345 (cell)
Và bà mẹ thành công, với hai con là bác sĩ.
2. Và “Nước Mỹ Ngày Ấy”
Ngày ấy là ngày 15 tháng 2 năm 1972, tôi ôm hai đứa con thơ, theo chồng về Mỹ.
Vùng
đông bắc Hoa Kỳ lúc ấy đang cuối mùa Đông, chưa sang Xuân nên trời vẫn
còn lạnh, mà từ quê nhà mới qua, tôi đâu có biết nó lạnh đến cỡ nào.
Chỉ
mấy ngày sau khi ngủ đủ sức rồi là tôi háo hức đòi chồng tôi đưa đi
chợ. Sửa soạn thật đẹp, với quần ống bát, áo vải mỏng, bông hoa loè lẹt,
guốc Việt Nam cao gót... Vừa từ trên gác bước xuống gặp bà mẹ chồng
ngay dưới cầu thang, bà la lên hoảng hốt, “Ôi! Chúa ơi! Con tưởng là con
đang ở Việt Nam ư? Con có biết ngoài trời chỉ có 10 độ F thôi không?”
Không
hiểu hết điều bà nói, thấy anh chồng gãi đầu gãi tai lúng túng, tôi vội
kéo tay anh ra khỏi nhà cho gấp kẻo đụng lỡ hai đứa con nhỏ khóc lên
thì sợ mẹ chồng đổi ý, không cho đi.
Anh bảo tôi đứng tại cửa để
anh đi lấy xe, khi xe đến trước cửa, tôi vội chạy ra, không may té một
cái đau quá trời đất nhưng cũng gượng đứng dậy bước tới xe được. Anh
chồng lo bật máy sưởi trong xe không thấy tôi bị té. Khi vào trong xe
rồi nó lạnh run lập cập, chồng tôi phải cởi áo ấm của anh ấy choàng cho
tôi, lại tới phiên anh ấy run lập cập.
Xe ra đến phố rồi anh bảo
tôi ngồi trong xe để anh vào trong Sear mua áo lạnh cho tôi. Khoảng mười
lăm phút sau, thấy anh đi ra với cái áo ấm, tôi chê bai đủ điều nhưng
anh bảo thì mặc cho đỡ đi rồi mai mốt đi mua áo đẹp hơn.
Anh chạy
xe một vòng quanh phố. Tôi hỏi sao anh đi đâu mà không đưa em đi phố?
Anh bảo đây là phố. Ôi, Trời đất ơi, phố xá chi lạ vậy? Sao không thấy
người đi, sao không thấy phố mở cửa, sao vắng hoe vậy, sao nghèo nàn quá
vậy? Anh có đùa với em không? Anh nhìn tôi với vẻ thất vọng. Cuối cùng
tôi làm mặt giận, tôi nói thôi đưa em đi chợ.
Lại nữa, tôi cảm
thấy hụt hẫng vô cùng khi bước chân vào siêu thị. Toàn là đồ hộp, cá thì
không thấy, chỉ thấy toàn là thịt bò, thịt heo, thịt gà, gói gói lại
hết, và cũng rất ít, không phải như siêu thị bây giờ, rau rợ thì cũng
chỉ vài bó loe hoe, thấy buồn hiu buồn hắt! Thế thì hình ảnh mà tôi
thường xem trong phim ở đâu? Hay tôi đang lạc vào quê hương xứ sở nghèo
nàn của nước nào? Đang thất vọng não nề, chân cẳng thì lạnh tê buốt vì
đi đôi guốc vụng về mà người ta ai đi ngang qua cũng nhìn mình một cách
quái gở.
Trong lúc đang tức bực thất vọng thì một bà lão mỉm cười và hỏi:
- Cô từ đâu đến?
- Thưa bà tôi đến từ Việt Nam.
Bà ấy nhìn tôi rồi mỉm cười hỏi lại:
- Việt Nam ở đâu?
Ôi,
đúng lúc cho tôi xả bỏ cơn tức bực tức vô lối ấy. Bà không biết Việt
Nam ư? Tôi huơ tay múa may nói thật to, với số vốn tiếng Anh ít ỏi, lại
phát âm theo giọng Quảng Trị cho mọi người đang vây quanh nghe: Việt Nam
mà bà không biết, Việt Nam của tôi lớn lắm bà biết không, ai mà không
biết Việt Nam, sao bà không biết vậy hả? Thế là chồng tôi cuống lên, kéo
tay tôi đi thật nhanh, ra ngoài cửa rồi anh ấy nhấc bổng tôi lên, liệng
vào xe và cho nổ máy xe chạy thật nhanh về nhà, không nói lời nào hết.
Còn
tôi thì tức tối quá nên khóc bù loa, và đòi anh hãy đưa tôi về lại Việt
Nam, ngay bây giờ, tôi không muốn ở đây nữa. Anh tấp xe vào đoạn đường
vắng và dỗ dành. Tôi vẫn trách móc anh đủ thứ, cuối cùng thì anh nói
rằng, thôi được em không muốn ở đây thì 4 tháng sau khi anh mãn hạn công
tác tại Việt Nam rồi, chúng ta đi xứ khác. Ở Mỹ có nhiều nơi cũng đẹp
lắm. Thôi em nín đi đừng khóc nữa kẻo về nhà Ba Mẹ thấy thế ba mẹ buồn.
Nghe thế tôi cũng yên tâm, lau nước mắt bước vào nhà.
Mẹ chồng
hỏi sao, con có thích không? Tôi bỏ chạy lên gác nằm khóc. Anh phải lo
cho hai đứa nhỏ, và nói gì với Mẹ tôi cũng không biết, nhưng khi tôi đói
bụng xuống nhà lục đồ ăn thì thấy mẹ chồng mặt mày buồn hiu. Tôi ân hận
lắm, nên lại ôm bà, và bà cũng ôm tôi thật chặt. Bà nói chi nhiều lắm
tôi không hiểu hết được.
Ngày hôm sau chồng tôi đưa cho xem quả
địa cầu và chỉ cho tôi thấy vị trí của Việt Nam trên đó. Anh chỉ tay,
nói đây là nước Mỹ, đây là nước Tàu, đây là nước Nga… và đây là Việt Nam
của em nè. Tôi lại nổi cơn điên lên, cái tự ái lại cao hơn bình thường
và thầm nghĩ, anh xỉ nhục tôi, nên tôi liệng quả địa cầu cái rầm trong
phòng khách. May cho tôi khi ấy chỉ có hai đứa em và mẹ chồng ở nhà
thôi. Bà mẹ chồng tưởng đâu tôi sẩy tay, chứ không biết đứa con dâu của
bà hung dữ như quỷ sứ.
Sau đó, có những lúc cả nhà đi vắng tôi
lấy quả địa cầu ra xem lại. So với nước Mỹ thì VN ta chỉ tương đương với
tiểu bang Texas. So với nhiều nước thì... mà thôi, tôi mỉm cười và tự
bào chữa cho mình: Ừ, thì quê hương tôi nhỏ bé như thế đấy, nhưng ở đó
có tới bốn ngàn năm văn hiến chứ bộ. Bây giờ đôi khi nghĩ lại ngày ấy,
tôi thấy mình hồ đồ mà tự thẹn với mình.
Tuy ở Mỹ tại Tiểu bang
Pennsylvania nhưng nhà chồng tôi chỉ là một gia đình gốc Tiệp Khắc di
dân rất nghèo, lại sống tại vùng quê, nhà này cách nhà kia rất xa. Trong
nhà chỉ có một buồng tắm, một toilet thôi, nên 8 người mà một buồng tắm
thì rất bất tiện. Ngoài vườn cũng có một cái nhà vệ sinh như bên Việt
Nam mình vậy, mùa hè thì đàn ông đi ngoài đó nhiều hơn. Áo quần giặt
xong những ngày có nắng cũng phơi bên ngoài như ở quê nhà, nhìn ra bên
ngoài thì chỉ thấy bò và bò, ôi chao là buồn!
Thế rồi một tháng
trôi qua, chồng tôi phải trở lại Việt Nam, bởi với công tra làm việc đã
ký, anh ấy còn bốn tháng nữa mới hết hạn. Tôi và hai con ở lại với nhà
chồng.
Trước ngày rời nướcMỹ, anh nói với mẹ chồng tôi là nhờ mẹ thường ngày đừng để vợ con đi lấy thư, kẻo có chuyện nguy hiểm.
Số
là bên kia đường của nhà chồng tôi là một gia đình hàng xóm có người
con trai tử trận tại Việt Nam. Chồng tôi người hàng xóm biết tôi đến từ
Việt Nam, ông ta có thể giết tôi để trả thù cho con họ. Vì thế, hàng
ngày cha chồng tôi thường ra lấy thư.
Sau nhiều ngày lo sợ khi
nhìn sang nhà hàng xóm, tôi nghĩ rằng mình phải đối diện với sự thật một
lần. Tôi bỏ công lôi cuốn tự điển Anh Việt - Việt Anh của Lê Bá Kông mà
tôi mang theo khi về Mỹ, ghép lại thành từng câu và học thuộc lòng. Sau
đó, tôi lấy hết can đảm tự mình sang nhà hàng xóm, xin gặp bà chủ nhà.
Tôi tỏ bày với họ như vầy:
“Thưa bà, tôi xin chia sẻ niềm đau mất
mát với bà. Xin bà đừng ghét tôi, vì tôi cũng có cha và em trai đang
đánh giặc ngoài chiến trường. Cha và em trai của tôi cũng có thể chết
sống trong tích tắc bất cứ lúc nào. Mẹ tôi và biết bao bà mẹ Việt Nam
khác nữa cũng chỉ là nạn nhân trong cuộc chiến nầy như bà. Quê hương tôi
cũng khổ đau lắm, riêng tôi rất yêu thương và quý trọng người Mỹ, đã
nhân danh tự do, giúp đất nước tôi chận đứng làn sóng đỏ từ phương Bắc
đổ xuống. Nếu không vì cộng sản Nga Tàu thì quê hương tôi không có chiến
tranh, nhân dân tôi sống yên yên và người Mỹ đến đó chỉ là khách du
lich…
Tôi chưa kịp nói hết những gì mình đã học và muốn bày tỏ
nỗi lòng, thì hai ông bà đều sang ôm tôi vào lòng khóc nức nở, tôi cũng
khóc với nỗi đau của họ và nỗi đau của chính mình !
Vậy mà, không
hiểu sao, ngày hôm sau nhiều người đến gõ cửa nhà mẹ chồng tôi để gặp
thăm tôi, họ là những người của xóm Mount Jackson này đến để đón chào
người con dâu Việt Nam đến với xóm làng họ.
Thế là từ đấy tôi
không còn lo sợ và lẻ loi nữa, khi thì người này đến chở đi ăn kem, khi
thì người khác mang chút quà lại cho hai con nhỏ của tôi. Mỗi khi có ai
đưa đi đâu thì nhiều người xúm lại hỏi han thân thiện.
Với khu xóm vậy là tôi yên ổn, nhưng với chính mình và gia đình nhà chông thì còn nhiều sóng gió.
Khi
còn ở Việt Nam, công ty của anh ấy cho biết rằng ai có vợ Việt hãy đưa
gia đình rời khỏi trước Tết âm lịch, đó là tin “mật”. Sau đó là trận
chiến Mùa Hè Đỏ Lửa xảy ra ngay trên quê hương tôi. Sau này, khi đã tới
nước Mỹ, tôi mới hiểu vì sao… Thì ra chính phủ Mỹ đã sắp đặt bỏ rơi miền
Nam Việt Nam. Ôi còn đau đớn nào bằng. Quê hương tôi giờ đây là Đại Lộ
Kinh Hoàng, là Mùa Hè Đỏ Lửa... Khi hiểu ra điều này, tôi oán trách nước
Mỹ. Tôi ghét luôn cả người chồng của tôi, cả gia đình dòng họ, xóm làng
của họ luôn.
Cũng cùng thời gian này, cha chồng tôi thấy tôi,
lúc nào cũng như gây chiến tranh với ông. Ông đã không thích tôi từ đầu,
bây giờ lại càng khó chịu hơn. Tôi cũng không vừa gì với ông, hai bên
cứ căng thẳng như thế. Hàng ngày cha chồng tôi phải ra thùng thư lấy
thư. Một hôm, ông cầm thư vào không chịu đưa cho tôi, mà còn la lối um
sùm, nào là thằng con bất hiếu, nó xem vợ lớn hơn cha mẹ nó, gửi thư cho
vợ hàng ngày mà không gửi cho cha mẹ. Tôi thì cũng hỗn với Ông. Tôi nói
thẳng rằng, ông độc tài quá, ông đã bỏ xứ Tiệp Khắc cộng sản sang đây
rồi mà ông cũng không bỏ được máu cộng sản trong ông, là ích kỷ và độc
tài. Thì mày cũng thế, mày là con cháu Hồ Chí Minh tàn tệ đấy thôi, ông
đáp lại. Thế là trận chiến bùng nổ dữ dội, tới mức có lúc tôi đã phải
gọi người bạn bên Dayton, Ohio sang chở tôi về bên đó cho đến ngày chồng
tôi về lại Mỹ. Câu chuyện nầy dài dòng không thể kể hết. Nhưng cũng may
là tôi có được bà mẹ chồng tuyệt vời, bà luôn coi tôi như là đứa bé
không hơn không kém nên hết lòng che chở.
Chuyện “chiến tranh”
giữa cha chồng và tôi sau cùng được thu xếp tốt đẹp. Tôi là người đứng
ra xin lỗi ông, bởi lúc nầy tiếng Mỹ của tôi cũng tạm được đề giải bày
uẩn ức của mình với ông, và cũng cám ơn ông bà đã sinh ra người con trai
mà hôm nay là người chồng tốt của tôi, người cha mẫu mực của hai đứa
con của tôi. Sau khi biết nói lời xin lỗi, tôi đã được ông tha thứ. Dần
dà, tôi còn được ông đặc biệt thương yêu còn hơn hai nàng dâu bản xứ của
ông.
Cũng từ đấy, tôi bắt đầu vào đời với công việc làm ăn bận
rộn vất vả để tự nuôi sống cho chính gia đình nhỏ bé của mình, nuôi hai
con một gái một trai, ăn học, rồi lo cho chúng vào đại học, vào y khoa.
Cả hai đều học hành đến nơi đến chốn và tốt nghiệp bác sĩ.
Ngoài
việc lo làm ăn nuôi con, tôi còn lo giúp đỡ gia đình bên quê nhà, nào là
lo nào là lo cho mẹ tôi bịnh bán thân bất toại, rồi lo cho các em đi
vượt biên, bao nhiêu lần không được, lại lo cho cuộc sống trong thời
gian chờ đợi bảo lãnh đoàn tụ… Rồi một ngày, các em và gia đình của
chúng cũng được sang Mỹ đoàn tụ, tất cả 15 người giờ thì hơn 30 rồi. Kế
tiếp là những đứa cháu ngoại như thiên thần xuất hiện. Thế là tôi chẳng
còn thời gian để dời đi xứ đẹp, xứ ấm, phố phường đồ sộ nữa, mà lạ thay
hạnh phúc từ đó vững mạnh và vươn cao.
Quảng Trị vẫn in dấu trong
tôi, tôi vẫn nhớ thương nơi chôn nhau cắt rún... Nhưng tại quê hương
mới, gia đình chúng tôi đã như cây cổ thụ, gốc rễ đã mọc ra chằng chịt
bám vào mảnh đất này. Mẹ chồng tôi năm nay 91 tuổi vẩn khỏe và rất minh
mẫn, vẫn thương yêu tôi như ngày nào. Người chồng quê mùa chất phác, mà
khi qua chiến đấu tại chiến trường Việt Nam khi chỉ mới học xong high
school năm xưa bị tôi hờn trách, hôm nay vẫn còn bên cạnh cuộc đời như
chuyện tình “đôi dép”. Con gái mở phòng mạch tại đây. Thằng con trai hơn
40 tuổi không lấy vợ vì bận rộn với công việc và không thích ràng buộc.
Gần
10 năm nay vùng quê Mỹ nghèo của tôi nay đã có được Walmart và Highway
376. Trong nhà đã có microwave để hâm nóng thức ăn, mà hồi đó, 43 năm
trước không có.
Kể từ 1972 khi đứa con gái từ quê nhà Quảng Trị
một mình phiêu bạt qua đất Mỹ, lòng ngổn ngang trăm mối. Thời ấy, số
người Á Đông tại nước Mỹ còn rất nhỏ, đâu được như ngày nay, riêng cộng
đồng người Việt đã có tới hơn một triệu bảy trăm ngàn người.
Viết
đến đây tâm hồn tôi cảm thấy tràn ngập tình thương và biết ơn với nguời
chồng khác chủng tộc, cũng như với người Mỹ, nước Mỹ quê hương thứ hai
của mình. Xin đa tạ anh, nguời bạn đời yêu quý, và xin tạ lỗi với nước
Mỹ ngày ấy bị tôi trách móc, hận thù.
Trương Thị Thu Huyền
No comments:
Post a Comment