Hôm nay là chiều cuối năm, cô An đang sửa soạn lễ vật cúng ông bà thì chuông điện thoại reo. Cô cầm điện thoại lên, lắng nghe “Anh Hoàng đây!” “Dạ! Em đang nghe anh” “Tối nay em có đi đâu không?” “Em định đi chùa. Có chuyện gì vậy anh?” “Anh đến thăm em được không?” “Anh thăm em trong bao lâu?” “Tùy em cho phép. Càng lâu càng cám ơn em” “Nhưng mấy giờ anh đến?” “Anh đến ngay bây giờ. Có gì cho anh ăn không?” “Thịt kho trứng, dưa giá, canh chua...” “Có cháo đậu xanh, tôm kho tàu cho em không? Em thích mấy món đó lắm mà” “Không. Em ăn chung với anh được rồi” “Sao em biết anh sẽ đến mà nấu những món anh thích?” “Anh không đến thì em để đó. Hễ nhớ anh thì em nấu và dọn lên bàn. Coi như cúng giỗ người quá cố!” “Mấy bữa nay anh phải lo cho mấy đứa nhỏ. Làm giấy tờ nhập học. Rồi chuyện nhà cửa, mua sắm vật dụng, gạo cơm mắm muối. Ôi thôi! Đủ thứ, vì vậy anh không thể đến em được. Cho anh xin lỗi” “Đừng để ý đến chuyện đó. Em sẽ hâm thức ăn, dọn ra, anh đến là có sẵn cho anh” “Khi nào em nấu những món anh thích, nhớ gọi anh. Đừng dọn lên bàn rồi đem đổ” “Em không còn cái quyền đó nữa. Anh cứ nói lẩn thẩn” “Anh gác máy nghe” “Dạ. Bye anh!”
Pages
▼
Sunday, November 21, 2021
Ngôi Nhà Xưa - Phạm Thành Châu
Hình minh họa
Cô An mở cửa, dõi mắt
ra đường, chờ đợi. Miền đông bắc Hoa Kỳ đến tháng hai mà tuyết vẫn còn rơi. Con
đường vào xóm trắng xóa, vắng ngắt. Ánh đèn đường làm tuyết phản chiếu nhau,
không gian sáng hẳn lên. Tuyết bay ngang, bay dọc theo từng cơn gió. Chúng
giống như những sinh vật có cánh trắng bay từng đàn. Gió rít qua các cành cây
trụi lá, bám đầy tuyết, nghe vi vu, tưởng như từ rất xa, vọng đến tiếng những
con sói cùng hú lên một lúc.
Cô An rùng mình, đóng
cửa lại, vào nhà, choàng thêm áo ấm rồi ra ngồi ở phòng khách, nhìn qua cửa sổ.
Tuyết vẫn lặng lẽ rơi. Một lúc sau, ánh đèn từ xa lấp loáng rồi xe Hoàng dừng
trước nhà cô. Cô mở cửa. Hoàng ra khỏi xe, kéo cao cổ áo khoác, dò dẫm từng
bước. Tuyết ngập đến đầu gối.
Cô An cởi áo khoác cho
Hoàng. Cô giũ áo cho hết tuyết bám rồi treo lên mắc áo. “Ngoài trời lạnh lắm,
phải không anh? Tuyết ngập đường.” “Trong xóm xe cào tuyết chưa vào nhưng ngoài
đường, xe ủi tuyết chạy lên chạy xuống, cào sạch tuyết, xe chạy dễ lắm. Sao mắt
em bị sưng đỏ lên như thế? Em phải đi bác sĩ” “Lúc tối có con gì bay vào mắt.
Bây giờ đỡ rồi” Hoàng nhìn quanh. Trên một tủ kính lớn và thấp, được thiết trí
như một bàn thờ. Có hình cha mẹ cô An. Hai chân đèn, một lư hương bằng đồng,
mấy cây nhang đang cháy, như những chấm than hồng, mùi nhang thoang thoảng. Gần
cửa, có một bàn nhỏ, trên để bánh trái, bình hoa và xôi chè. Một chén gạo dùng
để cắm nhang, với hai cây đèn sáp, có lẽ chuẩn bị cúng Giao Thừa. Bao nhiêu năm
qua, đêm cuối năm nào cô An cũng chuẩn bị lễ vật như thế, rồi Hoàng ăn mặc tươm
tất, nhân danh gia chủ ra cúng Giao Thừa để rước năm mới vào nhà. “Em rước ông
bà lúc chiều à? Cho anh cúng Giao Thừa với em nghe!” “Không được đâu. Anh đến
ăn cơm với em, khoảng mười một giờ, mời anh về. Anh phải đón Giao Thừa với vợ
và các con anh. Mà anh cũng chỉ được ăn một chén cơm thôi. Ở đây anh ăn no, khi
về nhà anh ăn ít, vợ anh sẽ nghĩ rằng anh đi ăn với bồ no rồi.” “Sáng mồng một
Tết, cho anh đến xông đất và mừng tuổi em chứ?” “Sáng mai em đi chùa sớm.” Cô
An mời Hoàng ngồi vào bàn, cô ngồi đối diện. Hoàng nhìn cô, nói như kể lể: “Năm
nay, không được ăn Tết với em, anh rất nhớ em, nhớ lại biết bao kỷ niệm. Những
ngày ở trên đảo, thiếu thốn, cực khổ nhưng chúng ta thật hạnh phúc. Những buổi
chiều, ra bãi biển ngồi chuyện trò, tâm sự rồi cùng bàn đến tương lai, khi rời
đảo, đến một xứ sở tự do nào đó, chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một cuộc đời
mới. Đêm Giao Thừa đi chùa lễ Phật, chúng ta cầu xin đức từ bi chứng giám tình
yêu của hai đứa, thề sống bên nhau trọn đời “Sinh đồng tịch, đồng sàn...” Cô An
ngắt lời “Cũng vì vậy mà sáng mai, em phải đến chùa, xin Phật Tổ giải trừ lời
thề đo.” Cô bới cơm, mời Hoàng “Mời anh ăn cơm.” “Mời em” Hoàng bưng chén cơm
lên rồi đặt xuống, thở dài. “Bao nhiêu năm sống với nhau, bữa cơm nào em cũng
mời anh. Giao Thừa năm nào anh cũng lì xì mừng tuổi em, hôn em. Chúng ta chúc
nhau biết bao nhiêu lời tốt đẹp...” “Đừng nhắc đến những chuyện đó nữa. Anh
định làm xiêu lòng em. Phải không? Anh không hi vọng gì đâu. Mời anh ăn cơm”
“Anh nuốt không vô. Anh chỉ mong em thông cảm cho anh. Mấy đứa con cần anh bảo
lãnh để có một tương lai tốt đẹp hơn… Hay chúng ta thử bàn nhau một giải pháp.”
“Anh bỏ qua chuyện đó đi. Em mời anh ăn cơm, bữa cơm cuối cùng, thì anh nên quên
hết để vui với em. Anh nói chuyện gì vui cho em cười đi! Còn cái giải pháp của
anh, em biết anh muốn em tiếp tục làm nhân tình của anh, để anh đi đi, về về,
thỏa mãn đủ thứ, trong khi đó anh vẫn sống với vợ con anh. Chỉ nghĩ đến thôi,
em đã ghê tởm anh!...” “Anh chỉ mong em, thỉnh thoảng, cho anh được gặp em. Để
được nhìn thấy em, để bớt nhớ em.” “Cảm ơn tình cảm của anh đối với em. Nhưng
sao nãy giờ anh chỉ nói về phần anh? Anh chỉ nghĩ đến anh mà không nghĩ đến em?
Cuộc đời em sẽ ra sao? Nhưng thôi, em cũng chẳng cần phải nói về em. Em mời anh
đến hôm nay, rồi chúng ta sẽ mãi mãi, không còn gặp nhau nữa.” “Có cách nào cho
anh được đến thăm em một lần nữa không? Sáng mai, sau khi em đi lễ chùa về?”
“Sáng mai thì không được, nhưng sáng mồng bốn Tết, đúng mười giờ sáng, mời anh
đến.” “Cho anh đến chiều mồng ba Tết để anh cúng đưa ông bà với em.” “Ông bà,
tổ tiên em không còn chấp nhận anh vào gia tộc em nữa đâu. Họ cũng bị anh đánh
lừa như em. Sáng mồng bốn, đúng mười giờ, anh nhớ đến.” “Em cho anh được đến
với em trong bao lâu?” “Khi nào chán thì anh ve.” “Em có cho anh hôn em không?
Cho anh mừng tuổi em, chúc em những điều tốt đẹp...” “Mồng bốn thì ông bà đã về
trời cả rồi, chẳng vị nào thấy để có thể giận anh được. Lúc đó thì anh muốn làm
gì tùy thích. Mời anh ăn cơm.” “Em cho anh đến thăm em thì bao nhiêu chén cơm,
anh cũng ăn hết, mà dù em không cho anh ăn gì cả, anh cũng thấy no.””
Anh thân yêu,
Hy vọng anh đến nhận
thư em đúng mười giờ. Đó là lúc máy bay cất cánh. Chị đưa thư nầy là chủ mới
của ngôi nhà chúng ta. Em đã bán nhà cho chị ta. Em không đủ sức chịu đựng được
cảnh em vào ra một mình trong ngôi nhà lặng trơ, vắng vẻ, lạnh lẽo nầy nữa. Khi
không còn là chủ nhà, em phải ngồi viết thư cho anh ở trước hiên trong lúc chờ
taxi đến đón ra phi trường.
Từ ngày anh rời bỏ em,
em cố gắng tạo cho mình một cuộc sống mới, không có anh bên cạnh, nhưng em đã
thất bại. Dù biết anh không về, em vẫn bị những thói quen đánh lừa. Buổi chiều,
tan sở, là em tất bật đi chợ, về nấu nướng, bày lên bàn, đem khăn tắm, áo quần
vào phòng tắm cho anh... Rồi, như mọi khi, em lại nhìn chừng ra đường, chờ nghe
tiếng xe anh dừng trước nhà, em chạy ra mở cửa... Nhưng anh đang ở nhà khác
rồi. Đâu có về mà mong chờ.
Nằm trên giường
một mình, em như quẩn trí. Chưa bao giờ em thấy chiếc giường rộng đến như vậy.
Rộng mênh mông! Em lăn qua, trở lại, vẫn không đụng được mép giường. Mọi khi,
em nằm phía trong, quay vào đụng vách, quay ra có anh. Bây giờ thì nó như sa
mạc. Em ôm gối mền ra nằm ở phòng khách, nhưng rồi em cũng không thể nào chợp
mắt. Nhiều khi, trong đêm khuya, chợt nghe một tiếng động nào đó, em tưởng anh
quay về, em ngồi bật dậy... (Thôi, em không muốn kể lể thêm)
Từ khi biết anh đã làm
hồ sơ bảo lãnh vợ con anh qua, em tự nhủ lòng, mình phải thật cứng rắn, thật
cương quyết rời bỏ anh càng sớm càng tốt. Mà không muốn rời anh cũng không
được, vì em là người ngoài cuộc rồi. Vậy mà em cứ nấn ná cho đến hôm nay, đến
giây phút mà em nhận chân được là mình đã thực sự bị bỏ rơi. Em không ngờ hai
tiếng “bơ vơ” nó quật ngã em quá sức tàn nhẫn, quá sức nhanh chóng.
Không phải em đánh lừa anh
khi hẹn anh hôm nay đến đây, nhưng anh cần nhận một số giấy tờ về nhà cửa, để
chứng minh với vợ con anh rằng, chẳng ai bòn rút tiền bạc, tài sản của anh. Em
chưa hề biết đến một xu trong số tiền anh làm ra trong suốt bao nhiêu năm. Vì
lúc trước em mua nhà mà chỉ trả tiền lời, nên khi bán nhà, bao nhiêu tiền là
của nhà băng cả.
Em chỉ mang theo một va li
nhỏ. Tất cả vật dụng trong nhà, em để nguyên cho chủ mới, những gì họ không
thích thì vất bỏ. Em đã dặn chủ nhà. Không cho anh bước vào nhà nầy. Anh không
được mang đi bất cứ thứ gì trong nhà. Ngay cả em, cũng không mang theo bất cứ
vật dụng nào có bàn tay anh đụng đến.
Anh đừng tìm em vô ích. Mà
anh cũng chẳng cần nữa.
Chắc chắn anh đã quên câu “Đồng
tịch, đồng sàn” gì đó rồi! Giờ đây, khi em nhận ra những lời giả dối của anh
thì đã trễ.
Trong em, anh vừa là người
em yêu, yêu đến ngu muội, anh vừa là một nghệ sĩ, tài tình đến độ khi anh giở
cái mặt nạ đểu cáng ra thì em đã thành miếng giẻ rách, bị anh vất đi mà không
thèm nhìn theo.
Trời u ám, tuyết bay lất
phất mà em vẫn phải mang kiếng đen. Mắt em đỏ và sưng lên. Em âm thầm khóc mấy
ngày nay. Kể cũng buồn. Khi xách va li bước ra, em quay nhìn lại ngôi nhà lần
cuối. Em như nghe rõ từ trong nhà vọng ra tiếng cười nói của anh và em, tiếng
nhạc, tiếng ca từ máy hát... Người em như không còn sức lực nữa, em muốn ngã
qụy.
Hình như taxi đang đến. Em
phải chấm dứt mấy giòng chữ nầy để kịp đưa cho chị chủ nhà. Chị ấy sẽ trao thư
nầy cho anh.
Không hiểu sao, em muốn
được ôm anh mà khóc quá!
Anh ơi! Anh ơi!...
Anh thương yêu của em! Vĩnh biệt anh
*
Mười năm sau, cô An về thăm
nhà cũ, vào đúng đêm ba mươi Tết Âm Lịch. Mười năm. Tất cả đã lắng xuống, chỉ
còn lại cảm giác chua chát, cay đắng. Năm nay, tuyết vẫn còn bay trong đêm, mái
nhà, con đường vẫn còn ngập truyết trắng, như ngày cô từ giả nơi nầy.
Cô không có ý định về đây,
nhưng một lần cô thử gọi một cô bạn, hóa ra, mười năm sau, bạn vẫn ở chỗ cũ,
cùng thành phố với cô ngày xưa, số điện thoại vẫn vậy. Cô bạn mừng rỡ, mời cô
về ăn tết với gia đình cô ta. Khi đến nhà bạn, cô chỉ trả lời vắn tắt là cô
đang sống ở một tiểu bang miền trung tây Hoa Kỳ, ở đó không hề có một người Á
Châu nào ngoài cô và gia đình người bạn đã rủ cô về đó. Cô vẫn sống một mình
trong căn phòng trọ. Cô cười bảo “Đi làm về là rút vào phòng, lặng lẽ như một
người tu hành”.
Tối nay, trong lúc gia đình
bạn chuẩn bị đón giao thừa thì cô mượn xe bạn, lái đến trước ngôi nhà cũ, tắt
máy, ngồi nhìn cảnh vật chìm trong màn tuyết đang rơi nhẹ dưới ánh đèn đường
vàng vọt. Chẳng có gì thay đổi, nhà cô vẫn vậy khiến cô tưởng chừng như mới rời
nơi đây tuần trước. Vẫn ánh đèn từ phòng ăn chiếu qua cửa sổ, vẫn thềm nhà nơi
lần cuối, cô ngồi chờ taxi đến đón cô ra phi trường.
Cô nhớ lại, khi cô mua căn
nhà nầy thì hàng xóm là gia đình những ông bà già người Mỹ trắng bản xứ. Họ kể
với cô rằng. Trước kia, đây là rừng. Người ta đến chia lô, làm đường, xây nhà
giá rẻ. Những người Mỹ trắng đầu tiên đến mua nhà và ở cho đến tuổi về hưu. Lúc
bấy giờ, cách đây hơn năm mươi năm, họ là những người trẻ, vừa tốt nghiệp đại
học, có việc làm, lập gia đình, sinh con đẻ cái. Lũ trẻ lớn lên, cũng đi học
như họ, cũng tốt nghiệp và có việc làm. Khi chúng lập gia đình, chúng đi làm
xa, có nhà riêng, cả năm không về thăm cha mẹ được một lần. Chúng như những con
chim khi đã rời tổ thì không hề quay lại. Cha mẹ chúng, già nua theo thời gian,
vẫn ở đấy. Ngôi nhà cũng cũ kỹ theo, mấy cây rừng trước nhà, sau vườn, cao
thêm, sum sê hơn. Những người già sống âm thầm, ít giao thiệp với ai, chỉ thỉnh
thoảng một đôi vợ chồng ngồi trước hiên nhìn ra đường. Thường thì người chồng
chết trước, cảnh càng hiu quạnh. Mùa thu, lá vàng rụng, những bà già tóc bạc ra
nhặt lá trước sân. Lẽ ra, họ được sống ở viện dưỡng lão, có người săn sóc,
nhưng họ vẫn thích sống trong ngôi nhà do công sức vợ chồng đóng góp từ ngày
đầu về với nhau. Nhiều người bị con cái đưa vào nhà dưỡng lão, thấy ai vào cũng
năn nỉ “Tôi nhớ nhà. Xin đưa tôi về nhà. Tôi muốn chết trong nhà của tôi”. Bao
nhiêu năm sống trong ngôi nhà thân yêu, nơi nào cũng đầy ắp hình ảnh, âm thanh
của những người ruột thịt. Vật dụng mỗi người vẫn được giữ nguyên. Họ hi vọng
các con về thăm, chờ đợi người chồng quá cố sẽ về đón họ cùng nhau vào cõi hư
vô. Rồi thì họ tàn rụi. Nhiều người đã chết lặng lẽ trong nhà cho đến khi hàng
xóm nghe mùi hôi, bèn gọi cảnh sát. Lũ con về bán nhà chia tiền. Đời sống xứ Mỹ
thăng tiến, chúng không bao giờ ở trong những ngôi nhà cổ lổ, thiếu tiện nghi
như thế. Chúng sống trong những biệt thự to lớn, sang trọng. Người mua những
ngôi nhà cũ, giá rẻ đó thường là những di dân mới đến xứ Mỹ. Người Á châu,
người Nam Mỹ. Họ làm những việc lao động chân tay, lương thấp. Họ chỉ về nhà
buổi chiều, mở đèn, nấu nướng ăn uống rồi tắt đèn ngủ sớm. Sáng hôm sau, dậy đi
làm.
Khi cô An mua nhà trong xóm
đó thì những người Mỹ già đã vơi đi một nửa. Mười năm sau, cô An về thăm nơi
xưa, có lẽ những người Mỹ già đã chết hết, nhưng những người nhập cư đã mua nhà
như cô vẫn còn ở đấy, để lặp lại một chu kỳ mới. Sống với nhau, làm lụng, sinh
con đẻ cái, già đi rồi biến mất trên thế gian.
Trong ánh đèn đường tù mù,
cô nhìn ngôi nhà cũ của mình, tưởng tượng và như thấy rõ từng căn phòng, từng
lối đi, nhất là căn bếp, nơi cô thường xuyên vào đó lo cơm nước mỗi khi đi làm
về. Cô như nghe được, mỗi buổi chiều, tiếng xe hơi ngừng trước sân, tiếng đóng
cửa xe, và người đàn ông vung vẫy chùm chìa khóa bước lên thềm, và cô mở cửa
đứng chờ. Rồi tiếng vật dụng, chén bát va chạm nhau. Cô dọn lên bàn bữa ăn
tối.…
Tiếng đàn ngỗng trời gọi
nhau trong bầu trời tối đen. Cô ngạc nhiên, sắp hết mùa đông mà chúng vẫn còn
bay về phương nam để tránh rét? Bao nhiêu năm, tiếng ngỗng gọi nhau vẫn thế,
nhưng với cô, giờ đây, như âm vang từ quá khứ chua xót khiến cô đau lòng. Cô
ngồi thẩn thờ nhìn cảnh vật ảm đạm dưới màn tuyết đang phủ trắng những mái nhà,
những con đường vắng ngắt.…
Những ngôi nhà đang chờ mùa xuân về.
Nhưng cô thì không. Cô
không còn mùa xuân nào nữa. Cô thở dài, nhìn đăm đăm ngôi nhà ngày xưa của cô.
Tuyết đang rơi nhanh và nhiều, phủ trắng xóa hàng cây, con đường, trên nóc xe
của cô. Trong nhà vẫn còn đèn sáng. Cô tưởng tượng vợ chồng chủ nhà, vừa ăn tối
xong, ra ngồi ở phòng khách, trước lò sưởi, xem truyền hình, ca nhạc như cô và
người đàn ông đã từng ngồi ở đó. Ấm áp, bình thản, hạnh phúc. Cũng có thể họ
đang sửa soạn lễ vật để đón chúa Xuân trong giây phút giao thừa sắp đến… Cô
nhắm mắt lại. Cô đã quên thân phận mình trong hiện tại, hoàn toàn chìm đắm
trong hồi tưởng. Cô nhớ rõ cảm giác vui sướng khi đưa người tình đến ngôi nhà
mới mua.
Ngôi nhà cũ, nhỏ như bất cứ
ngôi nhà giá rẻ nào ở xứ Mỹ, chỉ có ba phòng. Cô hãnh diện khoe “Phòng nầy của
anh và em, hai phòng nầy, cho bạn bè khi họ ghé thăm. Và sau nầy dành cho các
con.” Người đàn ông ôm hôn cô “Đây không phải là ngôi nhà. Đây là tổ ấm của đôi
chim uyên ương” Cô ngước mắt “Chim uyên ương là chim gì, anh?” “Đôi chim nầy
không bao giờ rời nhau, như anh và em. Khi một con chết, con kia kêu gào, than
khóc rồi chết theo với bạn tình.” Cô như linh cảm một điều gì. Cô thở dài “Em
chết trước, nghe anh!” “Sao vậy?” “Để được anh than khóc, kêu gào vì nhớ thương
em. Em chết, anh có khóc không anh?” Người đàn ông lại hôn cô: “Bỏ chuyện đó
đi. Bữa nay anh đãi em đi ăn một nhà hàng sang trọng để mừng ngày chúng mình về
sống chung trong ngôi nhà mới…” Cô sung sướng “Nhà mới mua. Anh!” Rồi từ đó,
hai người sống với nhau như bất cứ đôi vợ chồng bình thường nào. Buổi sáng, cô
dậy sớm, làm điểm tâm cho cả hai, buổi chiều, tan sở làm, cô tất bật đi chợ,
nấu ăn, dọn lên, chờ người đàn ông ngồi vào bàn…
Bỗng nhiên, cô mở bừng mắt.
Rồi như trong cơn mộng du, cô kêu lên “Chết rồi! Sao mình về trễ quá vậy nè?
Chưa lo cơm nước gì cả!” Cô mở cửa xe, bước xuống đường, xăm xăm vào sân, bước
lên thềm nhà, đưa tay mở cửa, nhưng cô bỗng khựng lại, đứng ngớ ra một lúc rồi
quay người về lại xe, nổ máy.
Cô đưa xe ra đường lớn. Cô
không biết mình đang đi đâu, về đâu?
Phạm Thành Châu
Chuyện tưởng tượng chỉ xảy ra ở VN thôi, qua mấy xứ này phải sửa lại là đàn ông chứ quý bà ở đây cứ leo lên đầu đàn ông mà cà chứ làm gì có bà nào ngồi than khóc.
ReplyDelete