– Gió đông gió tây,
gió nào đã đưa cậu tới đây?
– Chẳng có gió đông,
chẳng có gió tây, chỉ có “gió chướng” thôi. Gió chướng đã mang tôi tới đây để
gặp tên bạn “khỉ gió” thuở còn tắm truồng đấy!
– Cậu lúc nào cũng ăn
nói “khó tiêu”. Dễ có trên ba chục năm không gặp cậu. Thú thật đi, có phải cậu
đến đây để thăm bà bé không? Tôi không mách bà xã cậu đâu. Đừng lo.
– Cậu đoán đúng mới có
một nửa. Đúng, tôi vừa đi thăm viếng một người đàn bà.
– Ai thế ? Tôi có biết
người đó không ?
– Có thể cậu biết. Bà
mẹ tôi ấy mà.
– Cậu không đùa đấy
chứ. Mẹ cậu đã mất ở Việt Nam. Tôi cùng bạn bè đã gửi lời chia buồn từ ngày nảo
ngày nào rồi. Hay là mẹ của mẹ bầy trẻ? Nhưng mà bà xã của cậu mồ côi mẹ mà!
– Không, bà mẹ nuôi,
bà Steinberg mà tôi đã có lần nói với cậu khi mới tới thành phố này đó. Nhớ
không? Đây là lần đầu tiên tôi đi tảo mộ. Tôi ở bên bà suốt buổi sáng nay rồi
đi ăn trưa với lão luật sư già của bả.
– Nhớ, nhưng tôi chưa
hề nghe nói cậu là con nuôi của bà triệu phú từ tâm này. Ê, đừng thấy sang bắt
quàng làm họ nhé. Khi cậu rời khỏi nơi đây thì bả cũng đã qua đời. Tôi nhớ rất
rõ.
– Hồi đó tụi mình chưa
an cư nên tuy ở gần mà như nghìn trùng xa cách, chả mấy khi được ngồi tâm sự
như bây giờ nên cậu không biết. Chuyện dài lắm, tôi sẽ kể cho cậu nghe. Bây giờ
tụi mình đi kiếm cái gì lót dạ đã.
Buổi tối hôm đó, đôi
bạn tri kỷ đối ẩm, nói chuyện “cổ tích”.
*
Năm tôi đến đất nước
này, chu kỳ suy thoái kinh tế bắt đầu. Việc làm hiếm hoi, nhưng chính phủ vẫn
mở rộng vòng tay nhân ái tiếp nhận người tị nạn. Cậu có bà xã giỏi giang, đi
làm nuôi chồng con. Cậu chỉ lo nội trợ, đưa đón con cái đi học, có thì giờ rộng
rãi dồi mài kinh sử. Còn tôi, độc thân tại chỗ, vợ con còn kẹt lại Việt Nam,
một cảnh hai quê. Vừa mong mau chóng ổn định cuộc sống vừa mong đủ điều kiện
tài chánh bảo lãnh gia đình.
Chưa bao giờ tôi nghĩ
có ngày phải đi ăn mày chính phủ Gia Nã Đại. Mỗi tuần sắp hàng ngửa tay nhận
chi phiếu bảy chục đô la, rồi còn bị cô thư ký người Việt nói xỏ xiên, thúc
giục tìm việc. Tôi đã cảm nhận tất cả ê chề nhục nhã của kiếp tha hương.
Rất may mắn, tôi đã
gặp cậu và được cố vấn nên sau vài lần xin việc bị từ chối khéo, tôi điền đơn
tại bệnh viện Montford theo đúng lời cậu chỉ dẫn. Lý lịch khai rất gọn, phần
học vấn bỏ trống, không ghi tốt nghiệp đại học Việt Nam. Xin làm Pharmacy
Attendant, công việc sai vặt trong khoa Dược.
Bà trưởng phòng nhân
viên bệnh viện đọc hồ sơ, ngước mắt nhìn tỏ vẻ thương hại rồi nói, được rồi,
anh cứ về, khi nào có chỗ trống sẽ gọi phỏng vấn.
Vừa định đứng dậy thì
bà ra dấu cho tôi ngồi xuống, ngập ngừng… Tôi biết bên hospice, nhà an dưỡng
của bệnh nhân cận tử, đang cần một orderly nam, tức y công đàn ông. Nếu anh
không ngại tôi sẽ giới thiệu. Đang đói việc, tôi bằng lòng ngay, bất cứ việc
gì.
Y tá trưởng của
hospice vui mừng đón nhận tôi.
Bà cho biết công việc
không nặng nhọc nhưng đòi hỏi sự nhẫn nại hơn bình thường. Chỉ phục vụ một bệnh
nhân đặc biệt và khó tính. Gia đình bệnh nhân này là ân nhân của bệnh viện, đã
hiến tặng toàn bộ xây cất và các trang thiết bị cho hospice nên tên của người
chồng quá cố, “J.D. Steinberg” được vinh danh trên bảng đồng.
Bà thành thật cho biết
đã có 2 nữ y công bị trả lại vì bệnh nhân không hài lòng và thêm một nữ nữa bỏ
việc vì không chịu nổi áp lực.
Tuy nhiên lương bổng
rất hậu hĩnh. Bệnh nhân này sẵn sàng trả thêm tiền thưởng tương đương với tiền
lương của bệnh viện.
Bà muốn thay đổi, đề
nghị tuyển nhân viên nam, hy vọng nam có sức chịu đựng tốt hơn nữ.
Bệnh nhân là bà
Steinberg, khoảng gần bảy chục tuổi, bị ung thư buồng trứng, đã di căn, giai
đoạn cuối. Đẹp lão, mập mạp, tướng mệnh phụ. Bà tiếp tôi lạnh lùng, sau khi cô
chuyên viên trang điểm rút lui. Hỏi vài câu vắn tắt lấy lệ, rồi cho tôi kiếu.
Quả thật công việc rất
nhàn hạ, nhưng không thơm tho. Bác sĩ, y tá thăm bệnh và cho thuốc men theo
thời khoá biểu. Cô quản gia kiêm thư ký công ty của gia đình trình diện vào
buổi trưa mỗi ngày, đem thức ăn khoái khẩu của bà và quần áo mới. Tôi chỉ giúp
bà làm vệ sinh tiêu tiểu buổi sáng, ngay trên giường và đổ phân vào cầu. Buổi
chiều, sửa soạn bồn tắm, giúp bà làm vệ sinh thân thể và đẩy xe đưa bà đi dạo.
Ngoài ra, chùi rửa phòng, thay bọc trải giường, mang quần áo chăn mền qua phòng
giặt ủi…v…v… Thỉnh thoảng ghé mắt xem bà có cần sai bảo gì không. Khẩn cấp thì
phải chạy tìm y tá bác sĩ trực.
Tôi được sắp xếp cho ở
góc cuối phòng, ngăn bằng chiếc màn kéo, đủ kê chiếc giường đơn, ghế nằm và bàn
viết. Một ngày chỉ thật sự làm việc độ 3 hoặc 4 tiếng, ăn uống ở câu lạc bộ.
Thời giờ quá dư thừa nên tôi mượn sách chuyên môn của thư viện đọc, mơ một ngày
nào đó sẽ lấy lại được bằng hành nghề.
Một buổi tối, bà rên
khò khè đau đớn, tôi chạy lại thì nghe bà quát, đi lấy cho ta cái “donut” ngay.
Ta cảm thấy khó chịu quá!
Tôi cuống quít nói,
thưa bà giờ này quá khuya, e không có tiệm bánh donut nào mở cửa, bà có thể chờ
đến sáng sớm mai không?
Bà nổi quạu, phán, đồ
ngu! Xuống bảo y tá trực đưa.
Tôi răm rắp chạy báo
cáo bà y tá già. Bà cười ngặt nghẽo, đưa cho tôi cái vòng cao su mầu cam trông
giống như ruột xe vespa, bảo, đấy, donut là cái này này.
Tôi vỡ lẽ, té ra donut
cũng là tên gọi của cái vòng đệm cao su, dùng để kê dưới bàn tọa cho êm.
Mấy ngày sau, khi đã
hơi khoẻ, bà ngoắc tôi lại, ra lệnh, ê thằng Tầu con, xuống kêu con nhỏ làm tóc
lên chải đầu cho ta. Hôm nay ta có khách lại thăm.
Bị chạm nọc nhưng tôi
vẫn đủ bình tĩnh, khẽ thưa, xin bà đừng gọi tôi là Tầu con. Tôi đã 36 tuổi rồi
và là người Việt Nam không phải Tầu.
Trái với sự mong đợi
của tôi, bà tỏ vẻ thân thiện, ngồi thẳng dậy, tròn mắt, hỏi lại, Việt Nam? Việt
Nam? Con trai của ta chiến đấu ở Việt Nam và đã mất tích từ năm 1970, cũng trạc
tuổi của mi.
Tôi đi từ ngạc nhiên
này sang ngạc nhiên khác. Ngờ ngợ có sự liên quan tới Bác Sĩ John Steinberg mà
tôi quen biết khi còn trong quân đội.
Kể từ đó, mỗi khi có
dịp, tôi gạ gẫm bà kể thêm về người con trai. Bà rất hứng khởi.
Sự nghi ngờ ban đầu đã
dần dần sáng tỏ. Gom góp các chi tiết và đối chiếu các sự kiện, tôi đã chắc đến
99.99% John Steinberg, con trai của bà, và Bác Sĩ John Steinberg, bạn tôi, là
một người bạn quý.
*
Theo bà, John là một
đứa trẻ có nhiều cá tính ngay từ nhỏ. Thông minh, bướng bỉnh, tinh thần tự lập
cao. Nhiều tự ái, nóng tính, hơi cố chấp và đặc biệt xung khắc với cha.
Ông Steinberg muốn
hướng chàng thành một doanh gia. John, trái lại, xem Bác Sĩ Albert Schweitzer
là thần tượng. Ước vọng trở thành thầy thuốc giỏi, từ bỏ thế giới văn minh, đến
các xứ nghèo Phi Châu, mang tài năng và nhiệt tâm phục vụ không điều kiện.
Sau khi tốt nghiệp Y
Khoa McGill, lúc chuẩn bị nội trú chuyên ngành tại Bệnh Viện Ottawa thì xảy ra
một cuộc đấu khẩu dữ dội giữa hai cha con. John giận cha, bỏ qua Mỹ, tình
nguyện nhập ngũ. Được huấn luyện quân sự tại Fort Bragg và tu nghiệp chuyên môn
tại Womack Army Medical Center NC. Y Sĩ Đại Úy John Steinberg sau đó được gửi
qua Việt Nam, bổ sung toán quân y thuộc Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ,
đóng tại Nha Trang.
John vẫn thư từ liên
lạc với bà mẹ đều đặn. Cho đến một buổi chiều ảm đạm mùa thu năm 1970, ba sĩ
quan đồng ngũ của binh chủng gõ cửa báo tin con bà đã mất tích khi đang thi
hành nhiệm vụ, được ghi vào danh sách M.I.A.
Ông Steinberg bị nỗi
hối hận dầy vò, tự đổ lỗi cho chính mình, đã đưa đẩy con trai vào chỗ chết. Ông
qua đời ba năm sau.
*
Thời gian John công
tác, tôi đang làm việc tại bệnh xá gia đình binh sĩ cũng đồn trú Nha Trang.
Chúng tôi cùng đi làm
dân sự vụ thường xuyên tại các bản thượng hẻo lánh nên quen biết rồi thân nhau.
Thỉnh thoảng tụ tập ăn uống nhậu nhẹt tại các quán bờ biển hoặc đi nghe nhạc
phòng trà.
Khi tin John tử trận
bay đến phòng làm việc, tất cả ban quân y chúng tôi đều bàng hoàng. John và
toán dân sự vụ Việt Mỹ chết bỏ xác khi máy bay trực thăng trục trặc kỹ thuật,
đáp tạm xuống bãi đất hẹp gần nhánh sông chảy xiết. B40 bắn rớt ngay lúc vừa
cất cánh trở lại. Duy có một y tá Việt Nam tên Công thoát hiểm một cách kỳ
diệu. Hắn ngụp lặn, bơi ngược dòng nước, băng rừng suốt đêm đến được nơi an
toàn.
Quá hoảng loạn trong
nỗi kinh hoàng tột độ, Y Tá Công bị hậu chấn thương nặng, chuyển về khoa tâm
thần Tổng Y Viện Cộng Hòa điều trị vài tháng rồi được cho giải ngũ. Hắn vẫn đến
xin thuốc an thần và thuốc ngủ đều đặn nên từ đó anh em đổi biệt danh “Công
Ngủ” thành “Công Không Ngủ”.
Những năm cuối của
thập niên 70 và đầu thập niên 80, tôi hay lang thang khắp chợ trời. Tình cờ gặp
lại “Công Không Ngủ”. Hắn đã lột xác, trông bảnh bao, da dẻ hồng hào, ra dáng
công tử vườn. Hắn khoe buôn bán thuốc Tây, thu nhập khấm khá. Hắn bỏ một buổi
buôn bán, mời tôi đi nhậu ở tiệm ăn sang trọng trên đường Nguyễn Huệ. Đãi rượu
Martell và thuốc thơm ba số. Lúc đã ngà ngà, hắn nhắc lại chuyện cũ. Bật mí tất
cả những gì chưa từng bật mí.
*
Chiếc trực thăng chao
đảo vì phi công bị B40 xuyên nát cổ. Đủ loại súng thi nhau nhả đạn, mọi người
nhốn nháo chen nhau nhảy xuống. Đạn đan tròng tréo, có người rớt lịch bịch, có
người nằm xuống khi chân chưa chạm đất. Bác Sĩ Steinberg cùng hắn và vài người
nữa chạy thẳng xuống sông. Các người kia bơi theo dòng nước. Ông bác sĩ Mỹ to
cồng kềnh, bơi hoặc lặn cũng không ổn nên tìm chỗ ẩn nấp dưới đám lau sậy. Vốn
là dân xóm Cồn, giỏi bơi lội, lại nhỏ con nên “Công Không Ngủ” nhanh như chớp,
phóng xuống giữa dòng, vớ một ống sậy dài, ngậm thở, lặn ngược dòng, đánh lạc
hướng của nhóm du kích chạy xuôi trên bờ đang truy đuổi từng người. Nghe tiếng
súng AK nổ ròn rã, hắn biết những bờ bụi chắc chắn là những mục tiêu bị nhắm
bắn. Hắn tự khen mình thông minh, không trốn theo ông bác sĩ cũng không bơi
xuôi giòng. Rất có thể nhiều người đã lãnh đủ những tràng đạn vừa qua.
Đợi khi bóng dáng đám
du kích đã hoàn toàn mất hút, hắn bơi đến chỗ ông bác sĩ thăm dò. Vùng máu
loang lổ đang lan rộng chứng tỏ ông đã trúng đạn. Sờ mũi, vạch mắt, nghe tim,
biết ông đã chết, hắn chỉ kịp mở nút gài túi áo trên lấy chiếc ví dầy cộm, lột
chiếc đồng hồ trên tay.
Tiếng đám du kích vui
cười nghe rõ dần, có lẽ họ trở lại thu nhặt chiến lợi phẩm. Hắn đẩy xác ông bác
sĩ ra giữa dòng để gây sự chú ý, giúp hắn có thêm thì giờ lặn ngược dòng trốn
càng xa càng tốt.
Nằm ếm dưới nước, chờ
trời tối, hắn bước nhanh vào khu cây cối rậm rạp, nhắm hướng sao đi tới. Rạng
sáng, hắn gặp một người đàn bà thượng đeo gùi sau lưng, địu con phía trước đi
làm rẫy. Hắn bập bẹ vài tiếng thượng học được, xin chỉ đường đến đồn bót gần
nhất.
Bài học mưu sinh thoát
hiểm, cộng với may mắn cùng sự giúp đỡ của người dân tốt bụng đã đưa hắn trở về
bình yên.
Lợi dụng việc sống sót
hy hữu sau tai nạn, hắn đã đóng kịch rất khéo, giả bệnh, qua mặt được mọi người
và giải ngũ.
Hắn cho biết trong
chiếc ví của ông bác sĩ, ngoài số tiền mặt khá lớn, đủ để hắn sửa sang nhà cửa
và mua chiếc xe Honda 90 đời mới, còn có một lá thư, một tấm hình, vài thứ giấy
tờ linh tinh.
Hắn cho tôi địa chỉ
nếu muốn đến xem. Tôi không có dịp vì còn mải lo chuyện vượt biển.
Sự sống của bà
Steinberg kéo dài hơn ước tính của các bác sĩ. Bà cho là lời cầu nguyện của bà
đã được lắng nghe và hy vọng phép mầu nhiệm sẽ đến qua ơn cứu rỗi.
Một tuần trước sinh
nhật, bà điện thoại cho hai cô con gái lớn nhắc nhở. Năn nỉ các con cháu sẽ đến
và ở chơi với bà một buổi. Bà dặn tôi đến ngày đó phải thu dọn căn phòng trống
kế bên sạch sẽ, kê thêm bàn ghế và phụ giúp nhà hàng chăm lo phần ẩm thực.
Tôi chợt có ý nghĩ
nhân dịp này sẽ tặng bà một món quà sinh nhật bất ngờ. Đánh điện tín nhờ vợ tôi
mang đến “Công Không Ngủ”, hẹn giờ ra bưu điện nói chuyện điện thoại viễn liên.
Tôi ngỏ ý muốn mua cái
ví của Bác Sĩ Steinberg cùng tất cả các thứ trong đó. Thỏa thuận xong giá cả,
tôi yêu cầu hắn tạm thời fax ngay cho tôi những thứ có trong chiếc ví.
Ngày hôm sau, chỉ nhận
được bản fax của lá thư và tấm ảnh, nhìn không rõ lắm nhưng chữ có thể đọc mò
được.
Tiền thì hắn nhận đủ
nhưng chiếc ví không bao giờ được gửi. Về sau nghe chú hắn nói, hắn đang tìm
đường vượt biên và cái ví sẽ là lá bùa khi xét ưu tiên định cư Mỹ.
Sau nhiều năm không ai
nhận được tin tức về chuyến tầu của hắn. Có lẽ cái ví cũng theo hắn định cư
dưới lòng đại dương.
Buổi sáng sinh nhật,
bà dậy thật sớm tuy cả đêm trằn trọc. Người làm tóc, người trang điểm bận tíu
tít. Người ta thay cho bà một bộ đầm sang trọng. Trông bà tươi tỉnh, cười nói
huyên thuyên, không ai nghĩ rằng đó là một bệnh nhân sắp từ giã cõi trần. Bà
nói đã lâu lắm rồi, không thấy mặt mấy đứa cháu ngoại, không biết chúng nó cao
lớn thêm và xinh đẹp như thế nào. Bà tưởng tượng sẽ ôm từng đứa, sẽ phủ mưa hôn
trên từng phân vuông của những khuôn mặt thiên thần. Sau đó nếu Chúa có bắt đi
ngay bà cũng an lòng. Chỉ tưởng tượng thôi mà cảm xúc đã dâng trào trên niềm
hạnh phúc ảo.
Các tiếp viên nhà hàng
mang thức ăn bầy biện đẹp mắt, chiếc bánh sinh nhật hấp dẫn đặt giữa bàn. Tất
cả kiên nhẫn chờ được phục vụ.
Suốt từ sáng đến quá
trưa, bà bồn chồn, đứng ngồi không yên. Vẫn không thấy con cháu xuất hiện. Toàn
thể nhân viên hospice không chờ đợi được nữa, bàn nhau tụ tập vây quanh bà, vỗ
tay hát bài mừng sinh nhật. Bà gắng gượng ngồi nghe đến câu cuối, xua tay ra
dấu mệt mỏi, để nguyên quần áo nhờ tôi đỡ lên giường.
Cô thư ký lăng xăng
lên xuống, liên tục điện thoại khắp nơi, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Buổi
chiều, cô trở lại buồn bã báo tin, cả hai gia đình của hai con gái bà đang vui
chơi ở Disney World Orlando Florida từ vài ngày nay.
Bà Steinberg suy sụp
tinh thần thấy rõ. Không ăn uống. Đóng cửa, không tiếp bất cứ ai. Tôi trở thành
liên lạc viên duy nhất của bà với bên ngoài. Rất khó khăn ép bà uống thuốc đúng
giờ.
Tối hôm đó, cơn đói
đánh thức, bà sai tôi mua một tô súp gà và ly sữa. Tôi mua thêm một chiếc bánh
chocolate donut và một cây đèn cầy. Bà chỉ húp vài muỗng súp và một phần ly
sữa. Tôi mở bao lấy chiếc donut để trên đĩa giấy, thắp cây đèn cầy, bưng về
phía bàn ngủ. Run run hát nho nhỏ, happy birthday to you, happy birthday to
you, happy birthday to Mrs. Steinberg…
Bà há hốc miệng ngạc
nhiên, im lặng vài khoảnh khắc rồi quay mặt vào tường. Tôi ngỡ bà phản ứng
giống như khi nghe nhân viên bệnh viện hát chúc mừng trước đó. Ngờ đâu bà quay
lại với đôi mắt ướt, giơ hai tay ôm chầm lấy tôi. Líu lưỡi cám ơn, cám ơn. Bà
thổi đèn cầy rồi ăn hết chiếc bánh bình dân một cách ngon lành, nói, đây mới
chính là cái “donut” mà ta muốn. Bà cám ơn tôi lần nữa, đã cho bà một sinh nhật
tuyệt vời và độc đáo.
Bà vui vẻ trở lại
nhanh chóng. Kể đủ mọi chuyện ngày cũ, toàn những chuyện về John. Trong ba người
con chỉ có John nhớ sinh nhật của bà, dù đi đâu xa cũng quay về vào ngày ấy. Bà
nhất định cho rằng, bằng cách nào đó, chính John đã mượn tôi thực hiện sáng
kiến sinh nhật donut.
Tôi nói có một món quà
sinh nhật và trao cho bà chiếc phong bì đựng bản fax của lá thư và tấm hình.
Thêm một lần ngạc nhiên thích thú, bà mở ra. Mới lướt qua tấm hình và đọc vài
hàng của lá thư, bà thở hổn hển. Những thứ này ở đâu ở đâu ra? Đúng là nét chữ
của ta, đây là lá thư ta gửi John cám ơn lời hỏi thăm sức khỏe khi ta bị té gẫy
chân và cho biết tình trạng đã ổn định. Làm sao mi có được? Nói ngay, nói ngay!
Còn tấm hình mờ nhưng ta biết đó là hình chụp ta và con chó Buddy.
Tôi cho bà biết chuyện
thật đời tôi, tất cả những gì tôi nghe về bạn quá cố của tôi, lúc còn sống, lúc
lâm nạn và tại sao tôi có được những thứ đó.
Bà nhờ tôi kê gối đẩy
lưng cao lên. Đọc kinh tạ ơn Chúa. Bà càng tin rằng John đã nhập vào tôi và
mang thông điệp của tin mừng đến cho bà.
Bà đã mệt lắm rồi.
Linh tính những ngày giờ cuối cùng đã điểm, tôi ở lại bên cạnh bà.
Thấy bà không ngủ, tôi
hỏi có cần gọi y tá không? Bà không trả lời, cầm tay tôi đặt lên ngực phía trái
tim, cặp mắt lạc thần, nhìn vào hư không, nói lẩm bẩm như người mộng du.
Baby John của mẹ, con
có biết 12 năm nay không có ngày nào mẹ ngưng thương nhớ con? Mẹ nhớ từ tiếng
con khóc lúc chào đời…, mẹ nhớ lúc con chập chững những bước đi…. Mẹ nhớ những
ngày tuyết đổ mẹ dẫn con vào lớp học giao cho cô giáo vườn trẻ, con níu áo mẹ
không rời, mẹ phải ở với con suốt buổi rồi đem con về…. Mẹ nhớ những đêm con ho
cảm lạnh, mẹ thức trắng đêm ôm ru con ngủ…. Mẹ nhớ…Mẹ nhớ…. Mẹ khóc mừng ngày
con tốt nghiệp đại học…. Mẹ tưởng con của mẹ sẽ mãi mãi êm ấm trong vòng tay
mẹ. Nhưng con, con… đã đi và đi không trở lại. Lúc sinh thời, cha con nếu có lỗi
với con thì cũng chỉ vì yêu con. Hai cha con bây giờ đã xum họp ở thế giới
khác, đâu còn giận hờn. Mẹ cũng sắp sửa gặp cha con và con đây. Con ngoan nhé.
Mẹ yêu của con.
Tôi lặng yên quỳ xuống
đầu giường để bà vuốt tóc. Ước gì thật sự là John để bà trút hết nỗi niềm chất
chứa bấy lâu và để cho tình mẫu tử thăng hoa.
Bà chợt tỉnh, nhận ra
tôi nhưng vẫn tiếp tục xoa đầu. Ta thấy hình ảnh của John qua con, con cũng là
con ta. Bà dí ngón trỏ lên trán tôi, mỉm cười, nụ cười nhân ái nhất nhận được
trong đời, mắng yêu, “THẰNG TẦU CON CỦA MẸ”. Chúa ơi! Bà gọi tôi là con và xưng
mẹ!
Không biết ai xúc động
nhiều hơn ai. Có lẽ không phải là bà mà là tôi. Tôi bỗng buột miệng vô thức…Mẹ,
Mẹ… rồi á khẩu. Dòng nước mắt tôi chảy, giọt nước mắt bà lăn dài. Cả hai ôm nhau
hoà tan trong nước mắt.
Trưa hôm sau bà lệnh
cho cô thư ký mời luật sư gia đình gặp bà thảo luận chuyện quan trọng. Ông đang
có việc ở Âu Châu nên chỉ nói chuyện qua điện thoại và hứa sẽ đổi vé, bay về
trên chuyến gần nhất.
Bác sĩ được triệu đến
khẩn cấp.
Bà Steinberg yếu dần,
bỏ ăn từ chiều hôm trước, môi khô. Nuốt khó khăn. Mũi thuốc morphine giảm đau
liều cao chỉ giúp bà thiếp đi một chốc. Đắp thêm chăn, xoa bóp chân tay, vẫn
còn lạnh. Bà đã bị ảo giác, mất định hướng thời gian và không gian. Liên tục
thì thào gọi tên John. Tôi nắm bàn tay lạnh của bà vuốt nhẹ, khẽ gọi, mẹ ơi! mẹ
ơi!.
Bà thở không bình
thường nữa, hắt ra rồi bất động. Bác sĩ vạch mắt, rọi đèn pin soi đồng tử, nhìn
đồng hồ lắc đầu. Xong một kiếp người!
Chỉ trong vòng vài
tiếng đồng hồ mọi người đã có mặt trong phòng. Hai người con gái đi cùng hai
luật sư của họ, luật sư gia đình, giám đốc các công ty kinh doanh của gia đình,
các đại diện và luật sư của các hội từ thiện, một vài họ hàng thân cận.
Tất cả yêu cầu luật sư
gia đình công bố di chúc. Họ tranh cãi khá lâu, không ồn ào nhưng rất gay gắt.
Không đi đến kết quả nên đồng ý giải quyết sau tang lễ.
Nghe thoang thoáng có
người đề cập đến tên mình nhưng tôi để ngoài tai vì nghĩ không có gì liên hệ.
Luật sư yêu cầu giải
tán để nhân viên nhà quàn làm phận sự. Nhiều người trước khi bước ra khỏi cửa
ném cho tôi cái nhìn khó chịu, có người đi ngang tôi với vẻ thù hận ra mặt. Tôi
không hiểu tại sao. Không lẽ kỳ thị chủng tộc?
Những gì xảy ra trong
những ngày vừa qua khiến cho tôi chán ngán tình đời. Một quyết định xẹt trong
đầu. Đi thật xa. Phải, sẽ đi thật xa để khỏi nhìn thấy những con diều hâu bạc
tình bạc nghĩa đang rỉa xác một người đàn bà nhân hậu. Tôi bước vào phòng, đặt
một nụ hôn trìu mến trên trán bà mẹ nuôi. Nói nhỏ, lạy mẹ, con đi.
Tôi về nhà nhét vội
vài bộ quần áo vào va li, bỏ lại tất cả đồ đạc, ra bến xe đò Greyhound mua vé
đi thẳng Toronto. Cuộc đời lưu lạc bắt đầu từ đó.
*
Ông luật sư đãi tôi ăn
trưa tại một nhà hàng ở khu phố vắng. Chuyện xảy ra 32 năm trước được giải mật.
Khi ông đang ở Paris,
bà Steinberg điện thoại, muốn sửa di chúc. Ông chấp hành chỉ thị, thâu băng
cuộc đối thoại, soạn thảo văn bản ngay trên chuyến bay khứ hồi. Không may, bà
đã không kịp duyệt ký trước khi ra đi.
Các cuộc tranh cãi sau
khi bà chết bùng nổ giữa các luật sư.
Di chúc chính thức quy
định rõ, gia tài được chia làm 3 phần đồng đều, cho 3 người con. Riêng phần của
John Steinberg có ghi chú thêm. Vì đã được liệt kê trong danh sách quân nhân
mất tích, nên nếu 5 năm sau khi bà mất, vẫn không nhận được tin tức mới, phần
này sẽ được chia 50/50. 50% giành cho các cơ quan từ thiện đã chỉ định. 50% sẽ
thuộc về 2 người con còn lại.
Theo bản dự thảo di
chúc mới, phần của John được sửa lại, sau 5 năm phần này sẽ được trao cho tôi
thay vì chia 50/50 cho các cơ quan từ thiện và 2 người con gái.
Ông luật sư yếu thế,
không thuyết phục được mọi người chấp nhận lời di chúc phi văn bản. Nếu đưa ra
toà án phân xử cũng không hy vọng thắng. Kiện cáo có thể kéo dài, sẽ rất tốn
kém. Điều quan trọng nhất, người có quyền lợi là tôi thì biệt tích giang hồ,
không tìm thấy địa chỉ liên lạc. Bản di chúc cũ được thi hành. “Định mệnh đã an
bài”, không thể thay đổi.
Ông trao cho tôi cuốn
băng. Giữ lại như một kỷ niệm, ghi nhận tình thương và lòng hào hiệp của bà mẹ
nuôi đối với tôi.
*
– Là triệu phú hụt,
cậu có tiếc không?
– Không, không bao
giờ. Tôi vẫn nhớ chuyện tái ông thất mã. Trong cái rủi luôn luôn có cái may đền
bù. Trong cái may luôn luôn ẩn nấp cái rủi. Nếu lúc đó là triệu phú, nhiều phần
đã biến tôi hư hỏng. Tiền không do công sức của mình làm ra là tiền…lèo. Xài
tiền lèo thì mình cũng trở thành lèo. Sẽ ỷ lại, không cầu tiến.
Vì đã không là triệu
phú nên tôi mới là tôi như bây giờ. Bằng lòng với hiện tại.
Tôi có hai bà mẹ. Bà
mẹ da vàng để lại vết tích đậm nét da vàng trên thân xác tôi. Bà mẹ da trắng để
lại nhiều dấu ấn khắc sâu trong tâm khảm tôi. Tôi yêu cả hai.
Nếu đến lễ Vu Lan hay
Ngày Của Mẹ có ai hỏi tôi, bông hồng hay bông trắng cài áo? Tôi sẽ bảo, vui
lòng cài cho tôi hai bông trắng.
– Xin cạn ly mừng cậu
có hai bà mẹ trong đời. Chúc cậu đêm nay ngủ thật ngon, sẽ mơ hội ngộ BÀ MẸ
ĐẦM… có con là “thằng Tầu con”.
Nguyễn Cát Thịnh
No comments:
Post a Comment