MỆNH TRỜI (Quan niệm theo Nho giáo)
Với quan niệm của Nho giáo, ta có câu thường
được nghe "Ngũ
thập nhi tri thiên mệnh" (lời Khổng Tử)
tức
năm mươi tuổi mới có khả năng biết được “mệnh trời”. Với năm mươi năm
ấy, chúng ta đã đi được một hành trình khá dài, ít ra cũng nửa đời người. Và
trong thời gian đó, chúng ta đã gặt hái được một số kinh nghiệm sống, đủ để
hiểu được mệnh trời ra sao và nó đã ảnh
hưởng đến đời sống như thế nào. Tuổi càng cao,
sự chứng nghiệm về mệnh trời càng rõ ràng hơn vì có nhiều điều xảy ra trong cuộc
sống, ta không thể dùng lý luận hoặc kiến thức khoa học mà giải thích hay chứng
minh được.
Thiên mệnh, mệnh trời nôm na
còn gọi là số trời hay số mệnh. Vậy mệnh trời, số trời hay số
mệnh là gì?
Với cái
nhìn của Nho giáo, mệnh
trời được coi như một uy quyền đến tự trời và chúng được áp đặt
vào đời sống của mỗi con người từ lúc sinh ra đến lúc chết đi. Con người được
tạo sinh bởi trời, do đó con người là con cái và là công cụ của trời nên phải
tuân thủ mọi ý muốn của "ông Trời" sắp đặt,
không thể chống trả hay sửa đổi lại được, cũng như trong thời phong kiến vua bắt “thần”
chết thì phải chết, “thần”
không
chết là bất trung vậy (theo Hán Nho
của Đổng Trọng Thư chứ không phải của Khổng, Mạnh).
Con
người không có quyền tham dự vào việc quyết định số mệnh của mình mà phải hoàn
toàn tuân thủ nơi số mệnh đã được đinh sẵn,
nên mỗi khi gặp nghịch cảnh người ta thường nẩy sinh tinh thần thụ động, yếm
thế, ỷ lại, chịu đựng, phó mặc chứ không tìm cách cải đổi số mệnh
của mình hầu mang lại đời sống tốt đẹp hơn. Mệnh trời khi đã định sẵn cho người
nào rồi thì dù cho người ấy có tài giỏi hay khôn
ngoan đến đâu cũng không thoát ra được.
Những ý tưởng thụ động về số mệnh nêu trên đã được thể hiện không ít trong dân gian qua những câu ca dao, tục ngữ:
Số lao đao phải
sao chịu vậy,
Tới số ăn mày bị gậy phải mang.
Số giầu tay trắng
cũng giầu,
Số
nghèo chín đụn, mười trâu cũng nghèo.
Cây khô xuống nước
cũng khô,
Phận nghèo đi tới chỗ mô cho giầu.
Số giầu đem đến
dửng dưng,
Lọ là
con mắt tráo trưng mới giầu.
Khó giầu muôn sự
tại trời,
Nhân
sinh ai cũng kiếp người mà thôi.
Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên.
Thuốc
chữa được bệnh, chẳng
chữa được mệnh.
Mưu sự tai nhân, thành sự tại thiên
NGHIỆP BÁO (Quan niệm theo Phật giáo)
Nghiệp
từ đâu đến? Nghiệp không đến từ “ông trời” như
quan niệm của Nho giáo. Nghiệp đến từ hành động của con người qua luật Nhân
Quả.
Ta gieo
Nhân tốt thì gặt hái Quả tốt, ta gieo Nhân xấu thì gặt hái Quả xấu. Nghiệp báo
có mặt trên thế gian này như định luật đền trả những điều mình đã làm
trong quá khứ, hay ngay trong hiện tại với "quả báo nhãn tiền".
Nghiệp gặp hoàn cảnh, tức nhân duyên, sẽ khởi động và tác động trực tiếp
vào đời sống của người mang nghiệp. Nghiệp là động cơ chính đưa con người vào vòng luân hồi sinh tử. Muốn thoát
được vòng sinh tử, con đường duy nhất là ta phải tự mình giải được nghiệp của chính mình.
Như thế, dựa vào quan niệm nghiệp
báo
của nhà Phật, con người được chủ động định đoạt số mệnh của mình, không
ai có quyền ban bố sự an vui cũng như không có ai có thể áp đặt sự đau khổ cho
mình mà chỉ có chính mình mới có quyền quyết định sự chọn lựa cuộc sống trong hiện tại hay tương lai mà
thôi. Chính vì thế nghiệp báo trong đạo Phật có tính chất chủ động, tích
cực, đầy sáng tạo và tôn trọng con người trong tinh thần dân chủ chứ
không quan niệm số mệnh đầy tính chất áp đặt, phong kiến như của Nho giáo. Khi
gặp nghịch cảnh, ta cố gắng chuyển hóa hay giải nghiệp để cải thiện hoàn cảnh
hay tiến tới đời sống tốt đẹp hơn theo đúng tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ
bi của Phật.
Tin ở sự công bình của luật Nhân Quả và cũng như tin ở khả năng chuyển đổi nghiệp lực của mình, ý tưởng về nghiệp cũng được thể hiện qua những câu ca dao tục ngữ truyền tụng trong dân gian dưới đây:
Những
người mặt mũi nhọ nhem,
Bởi chưng
kiếp trước đĩa đèn không lau.
Những người
mặt trắng phau phau,
Bởi
chưng kiếp trước hay lau đĩa đèn.
Nhân định thắng thiên.
Nếu biết
được cái nghiệp của mình một phần nằm trong tính nết thì khi ta muốn chuyển
đổi một phần nghiệp dữ thành nghiệp lành thì ít ra ta cần phải thay đổi tính nết.
Tu là sửa đổi, mà sửa đổi tính nết là một phần khá quan trọng trong việc mở
đường cho những bước thăng tiến cao hơn trên con đường giải nghiệp, diệt khổ.
Thí dụ tính hay hờn giận, ghét người dễ tạo
nên khổ, vậy hãy yêu người cho bớt hay hết khổ đi, "yêu người là yêu
mình" hẳn là nghĩa như thế. Cứ ngồi rà soát lại tính
nết của ta, ta mới thấy con người trầm luân bể khổ là
phần lớn do tác động của nghiệp ẩn tàng qua tính nết của chính
ta vậy.
Kinh Nhân Quả nói "Muốn biết Nhân đời trước, chỉ xem Quả hiện tại mà ta đang thọ; muốn biết Quả đời sau, chỉ xem Nhân gây tạo trong đời này". Cứ theo như thế, chúng ta chẳng cần phải có "thiên lý nhãn" cũng có thể nhìn thấu ba kiếp của ta gồm kiếp đã qua, kiếp hiện tại và kiếp sắp tới. Đối với các bậc đại sư hay thiền sư họ nhìn cuộc đời đau khổ chỉ vì vô minh. Khi ta hết vô minh thì Địa ngục và Thiên đường chỉ là một, nên nhà Phật có những câu như:
- Sắc
tức là không, không tức là sắc.
- Phiền
não tức bồ đề.
- Sanh tử tức Niết
bàn.
Tất cả những điều ấy tưởng như đối nghịch, nhưng thật ra chỉ là hai mặt của một bản thể trong triết lý "bất nhị" của nhà Phật mà thôi.
Xin đưa ra đây một vài đoạn văn thơ tiêu biểu trong văn học Việt Nam đã chịu ảnh hưởng triết lý của số trời và nghiệp báo như:
- Trong hai câu mở đầu của tác phẩm "Bích Câu Kỳ Ngộ", tác giả Vô Danh viết:
Mấy trăm năm một chữ tình,
Dưới trời
ai kẻ lọt vành hóa nhi.
(Hoá nhi: Hóa là tạo
hóa là trời;
nhi là trẻ con. Ý nói trời oái oăm như trẻ con.)
Buộc
người vào kim ốc mà chơi.
(kim ốc
là nhà vàng, ý ám chỉ cung vua).
. . .
Ngẫm
hay muôn sự tại trời,
Trời
kia đã bắt làm người có thân.
Bắt
phong trần phải phong trần,
Cho
thanh cao mới được phần thanh cao...
. . .
Đã mang
lấy nghiệp vào thân,
Cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Trong đoạn này, cụ Nguyễn Du đã nhắc lại hai triết lý “mệnh trời” của Nho giáo (bốn câu đầu) và “nghiệp báo” của Phật giáo (bốn câu cuối). Cụ cũng đã dùng hai triết lý này làm nền tảng để chứng minh cho thuyết "tài mệnh tương đố" trong truyện Kiều mà ta nhận ngay ra được với hai câu mở đầu:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là nghét nhau.
Tôi xin
chép ra đây lời nói của Thiền sư Thần Hội, đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng, để chúng
ta cùng suy ngẫm.
Vô tâm
là Đạo.
NGUYỄN GIỤ HÙNG
Mời nghe
Ca sĩ Hà Thanh
Tới một tuổi nào đó, sau những chiêm nghiệm cuộc đời, người ta ngộ ra được nhiều điều mà ngày còn trẻ chưa thấy được. Cám ơn anh N. G. Hùng đã chỉ ra những kinh nghiệm cá nhân. N. V. Tới
ReplyDeleteCám ơn anh N.V.Tới đã đóng góp ý kiến.
DeleteNG Hùng