Phù là một dấu hiệu của nhiều bệnh nguy hiểm chết người như: bệnh gan, thận, ung thư... Vì vậy khi bị có dấu hiệu bị phù bạn nên đi khám để tìm nguyên nhân và có phương pháp điều trị kịp thời.
Phù
là hiện tượng ứ nước trong các tổ chức dưới da hoặc ở các tạng của cơ thể. Phù
có thể khu trú ở chi, mặt, ngực, có khi phù toàn thân.
Tại sao cơ thể bị phù?
Theo
Bác sĩ Phan Văn Ngọc, Trưởng khoa Nội tổng hợp, bệnh viện Nguyễn Tri Phương
TPHCM:
Cơ
thể bị phù gồm có 2 dạng là phù mềm và phù cứng. Phù cứng xảy ra thường
là bệnh liên quan đến tuyến giáp. Còn phù mềm hay còn gọi là phù dịch, nó xuất
phát từ hiện tượng dịch từ trong lòng mạch thoát ra ngoài khoảng bào.
So với
phù cứng thì phù mềm dễ phát hiện hơn. Khi bạn dùng tay ấn vào da trên nền cứng
khi rút tay ra thì thấy chỗ dấu tay ấn bị lõm xuống.
Nguyên
nhân gây phù có thể là do cơ thể không giữ được nước khi thiếu đi lượng protein
và albumin khiến cơ thể bị phù.
Da chân bị lõm khi dùng tay ấn xuống
Phát
hiện phù
Bằng
mắt thường mọi người có thể thấy ngay được, nhưng đôi khi rất khó xác định phù.
Người bệnh có cảm giác nặng mặt, nặng chân. Nơi bị phù sưng to, căng mọng, làm
mất đi các nếp nhăn, mắt cá, đầu xương bị phẳng lỳ. Da vùng phù nhạt màu, ấn
vào nơi phù da lõm xuống, đặc biệt là ấn vào mặt trước trong xương chày.
Các
dấu hiệu kèm theo như lượng nước tiểu ít đi, gan to, cổ trướng, khó thở... Phù
giữ nước nên cân nặng có thể tăng hằng ngày từ 1 đến 2 kg.
Phù toàn thân
Thường
phù từ mặt, bụng, ngực, chân, tay, kèm theo tràn dịch màng phổi, màng bụng,
màng tim, màng tinh hoàn. Hay gặp những bệnh sau:
Thận
nhiễm mỡ: Phù rất to. Phù trắng, lúc đầu phù ở mặt, sau phù toàn thân. Thường
kèm theo tràn dịch màng phổi, màng bụng. Ăn nhạt không giảm phù. Nước tiểu có
nhiều protein. Xét nghiệm máu: urê, creatinin không cao, protein giảm nhiều,
cholesterol tăng nhiều.
Viêm
cầu thận cấp hoặc mạn: Phù trắng, mềm, ấn lõm, phù toàn thân, rõ ở hai chi
dưới. Ăn nhạt phù giảm rõ. Có thể kèm theo tăng huyết áp, tràn dịch màng phổi,
màng tim. Nước tiểu ít, vẩn đục, có protein, trụ niệu. Có thể thiếu máu. Chức
năng thận rối loạn, creatinin tăng cao.
Suy
dinh dưỡng: Phù toàn thân hoặc hai chi dưới, phù trắng, mềm, ấn lõm, mức độ
phù buổi sáng và chiều như nhau. Nước tiểu không có protein. Thường do thiếu ăn
hoặc đang mắc các bệnh mạn tính như: rối loạn tiêu hóa lâu ngày, lao, ung thư,
các bệnh tê liệt, bị các bệnh mạn tính nằm lâu.
Phù
do nội tiết: Phù do tăng aldosteron: Phù trắng, ấn lõm, phù chi dưới, có khi
phù mặt, phù kín đáo, có trường hợp tự khỏi. Gặp ở phụ nữ, có liên quan đến chu
kỳ kinh nguyệt. Nước tiểu không có protein. Điều trị bằng spirolacton có hiệu
quả.
Phù
do thiểu năng tuyến giáp: phù cứng, ấn không lõm, mặt tròn mắt híp, môi dày,
lưỡi to. Móng chân, tay có ngấn, khô rạn, tóc cứng, dễ gãy. Chậm chạp, trí tuệ
kém phát triển, nhiệt độ giảm, huyết áp hạ, mạch chậm.
Phù
do ưu năng tuyến thượng thận: Mặt tròn đỏ, phù cứng, huyết áp tăng. Gặp
ở người có u ở vỏ thượng thận, người uống corticoid lâu ngày, nếu ngừng uống
thì các triệu chứng sẽ hết.
Chân phù dấu hiệu của bệnh tim mạch
Phù khu trú
Phù ngực: Còn gọi là phù áo khoác, phù từ ngực có thể
phù lên cổ, mặt hoặc phù cả hai tay. Do u đè ép vào ống bạch mạch ở ngực và
tĩnh mạch chủ trên. Trên da ngực nổi nhiều mạch máu ngoằn nghèo màu tím, bệnh
nhân đau ngực, vú to. Chụp Xquang lồng ngực thường thấy khối u trung thất.
Phù hai chi dưới: Do suy tim và xơ gan:
Do suy tim: lúc đầu phù 2 mắt cá chân, phù mềm, ấn lõm.
Phù xuất hiện vào buổi chiều, mất đi lúc sáng sớm và lúc nghỉ ngơi. Hai chân
phù rất to, có khi nứt da, nước vàng chảy rỉ ra. Ăn nhạt phù giảm rõ. Kèm theo
tim to, gan to, tĩnh mạch cổ nổi, mạch nhanh, khó thở, đái ít. Suy tim nặng có
thể có cổ trướng, tràn dịch màng phổi.
Do xơ gan: gan có thể to, cứng, thường gan bị teo. Phù
ít, ấn lõm, sau phù to. Nước cổ trướng tái phát nhanh. Có thể kèm theo tràn dịch
màng phổi, màng tinh hoàn, có mạch máu nổi ở da bụng. Chức năng gan suy giảm.
Phù do thiếu vitamin
B1: (Bệnh Bêribêri hay
bệnh tê phù). Phù hai chân, ấn lõm, thường phù rõ vào buổi chiều, hai chân thấy
tê bì như kiến bò, hay bị chuột rút, phản xạ gân gối mất. Thường do ăn uống thiếu
chất lâu dài. Điều trị bằng vitamin B1 phù mất đi rõ rệt. Nếu mẹ đang nuôi con
thì con cũng bị thiếu vitamin B1, hay khóc về đêm, gọi là khóc "dạ đề".
Phù do thai nghén: Gặp ở người có thai, có hoặc không có protein
niệu. Cần phải khám thai định kỳ để xác định.
Phù một chi: Phần nhiều gặp ở chân hơn ở tay, do bệnh của
các huyết quản.
Viêm tắc tĩnh mạch: Phù mềm, ấn lõm, da ấm. Rất đau khi nắn vào
chi phù. Gác chân lên cao, nằm nghỉ thì bớt phù. Có sốt, gặp ở người sau đẻ,
sau phẫu thuật vùng hố chậu, bệnh nhiễm khuẩn nặng.
Viêm mạch bạch huyết: phù mềm, ấn lõm, rất đau. Trên da nổi những đường
đỏ, nóng và đau. Các hạch bạch huyết tương ứng trong vùng như bẹn, nách cũng
sưng và đau. Đôi khi có sốt. Phát hiện có vết xước, vết thương, nhọt. Trong trường
hợp mới mắc bệnh giun chỉ, có thể tìm thấy ấu trùng giun chỉ ở máu tĩnh mạch
vào ban đêm.
Phù cứng: Thường là phù chân voi, di chứng của viêm mạch
bạch huyết do giun chỉ. Ống bạch huyết bị vỡ vào tổ chức dưới da, gây phù cứng.
Da rất dầy và cứng, ấn không lõm. Thường bị một chân, có khi cả 2 chân nhưng
không đều. Phù bộ phận sinh dục như bìu xù xì, to và cứng. Nếu ống bạch huyết vỡ
vào bể thận, thì bệnh nhân đái ra dưỡng chấp màu đục như nước vo gạo.
Phù dị ứng: Thường xuất hiện đột ngột sau khi ăn hoặc tiếp
xúc tác nhân dị ứng như thuốc, thức ăn, bụi nhà, phấn hoa, sâu róm... Phù xuống
quanh mắt, mồm, da nổi cục và ngứa, mất đi rất nhanh khi dùng thuốc chống dị ứng,
có khi tồn tại vài ngày.
Ngoài ra, phù còn do
suy giảm hệ tĩnh mạch, do các nguyên nhân chèn ép tĩnh mạch do viêm, do ung thư
hay bệnh toàn thân, bệnh thiếu máu.
Khi bị phù, bạn cần đến
cơ sở y tế để các bác sĩ khám, làm các xét nghiệm, xác định bệnh. Từ đó bạn sẽ
nhận được lời khuyên và phương pháp điều trị theo từng nguyên nhân cụ thể của từng
bệnh.
Theo
Sức khỏe & Đời sống, TTO
No comments:
Post a Comment