Trong đời người, ít ra ai cũng có một dòng sông kỷ niệm. Thời ấu thơ thì đó
là dòng sông nơi ta thường bơi lội nhỡn nhơ vui đùa vô tư cùng các bạn. Tuổi
đôi mươi thì đó là dòng sông nơi hò hẹn lần đầu với người yêu trong những
chiều tà hay đêm trăng. Sông ngòi Việt Nam nhiều đến nỗi có đủ để ban phát
cho mỗi người ít nhiều kỷ niệm êm đềm, nên thơ hay đắng cay hờn tủi, có khi
cả kỷ niệm chia ly, đau buồn. Đối với cả dân tộc thì hai con sông Gianh và
Bến Hải là chứa chan bao kỷ niệm chia lìa, nhục nhã của sự phân tranh Nam
Bắc. Hai trăm năm trước đây, hai họ Trịnh, Nguyễn cắt đôi núi sông vì tranh
giành quyền bính trước một cơ đồ nhà Lê đã đến thời suy mạt. Hai trăm năm
sau, thực dân và cộng sản lại nỡ đang tâm phân rẽ đại gia đình Việt Nam vì
những giấc mộng ngông cuồng của chủ nghĩa đại đồng Cộng Sản. Chinh chiến điêu
linh kéo dài hai mươi năm đã hủy diệt mầm sống của dân tộc: hàng triệu thanh
niên ưu tú của hai miền gục ngã trên con đường Trường Sơn, trong rừng già Tây
nguyên, sình lầy Đồng Tháp... Tài nguyên thiên nhiên bị hủy diệt, thành phố,
nông thôn tiêu điều; gia đình ly tán, niềm tin mai một. Cũng chỉ vì một dòng
sông, cũng chỉ vì một chủ nghĩa ngoại lai phi nhân bản, cũng chỉ vì một loại
người vô lương... Tôi sinh ra và sống hết thời thơ ấu bên người mẹ hiền ở một huyện lỵ nhỏ bé
nơi vùng giới tuyến phân chia Nam Bắc. Mở mắt chào đời chưa bao lâu, tôi đã
mất người cha vào tay bọn Việt Minh trong ngày gọi là tổng khởi nghĩa. Chúng
đưa người ra Bắc biệt tăm từ đó. Mẹ tôi không thể tiếp tục cuộc đời làm dâu
tôi đòi, dù rằng hai bên nội ngoại tôi đều làm quan rất lớn trong triều. Bà
đã bồng bế tôi ra miền Gio Linh lập nghiệp. Ban đầu buôn bán theo những
chuyến xe hàng, sau mở cửa hàng bán vải vóc ngay góc phố chính của Gio Linh.
Phía sau nhà tôi là cơ quan huyện đường, nơi người cậu của mẹ tôi làm huyện
trưởng. Tuổi thơ của tôi hồn nhiên và hạnh phúc, vì mẹ tôi thương con rất
mực. Chiến tranh lúc đó cũng cận kề. Quân đội Pháp thì có đồn Ba Dốc trấn giữ
ngay đỉnh đèo cũng tên Ba Dốc. Sau này, đó là căn cứ A-1 do một tiểu đoàn của
Trung Đoàn 2 Bộ Binh trú đóng. Từ đây chúng ta có thể nhìn thẳng ra cầu
Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải chỉ cách đó chừng năm cây số. Việt Minh thỉnh
thoảng bắn súng cối vào huyện. Có lần hai trái đạn nổ ngay nhà tôi, làm chết
mấy người khách xin ngủ trọ. Mẹ tôi may mắn trong đêm đi ra ngoài vườn làm vệ
sinh nên thoát chết; còn tôi đang ở cùng người chị ruột tại tỉnh lỵ Quảng
Trị. Sau này, nhà vẫn còn giữ những bàn ghế và tầm ván ngựa gỗ trắc bị miểng
đạn băm nhiều vết. Tôi sớm thấy Việt Minh. Một đêm, chúng tấn công huyện đánh cho đến sáng thì
rút lui. Bọn trẻ con kháo nhau đi xem Việt Minh chết. Tôi cũng tháp tùng
trong đám trẻ, mon men lại gần xác chết. Đó một người mặc quần áo ka ki
vàng, chân đất, nằm sòng soại xéo bên cổng huyện, mặt phủ một tấm khăn trắng.
Có đứa dạn tay lật chiếc khăn ra xem thử Việt Minh có mấy mắt mấy miệng. Tuy
còn bé, tôi đã ý thức được đây chính là kẻ thù đã bắt cha mình đi biệt. Tôi
thù ghét Việt Minh từ đó. Ai có về vùng Gio Linh mới thấy hết cảnh nghèo của thôn quê địa đầu giới
tuyến. Đất không nghèo, vì đất đỏ có thể trồng tiêu, chè cho lợi tức cao. Dân
không thiếu và thường là dân chăm chỉ, cần cù. Gio Linh nói riêng, hay Quảng Trị
nói chung nghèo là vì chiến tranh. Mùa hè, người nông dân làm ruộng dưới cơn
nóng hừng hực do ngọn gió Lào thổi về; mùa đông cái rét căm căm cộng với
những cơn mưa triền miên kéo dài hàng vài ba tháng làm cho cảnh sắc tiêu điều
thêm. Gio Linh với bài hát của Phạm Duy gợi lên hình ảnh bà mẹ già nhẫn nhục:
“Mẹ già cuốc đất trồng khai, nuôi con đánh giặc đêm ngày....” Rồi đêm nghe
tin con mình bị giặc chém đầu, “Mẹ già không nói một câu, đem khăn gói đi
lấy đầu.” Thê lương thay, hình ảnh “lá vàng khóc lá xanh rơi” mà mãi hàng
chục năm sau vẫn còn tiếp diễn. Ngày đất nước chia đôi, hai bên bờ sông Bến Hải trở thành khu Phi Quân sự.
Cái đồn canh của Pháp trên đỉnh đèo Ba Dốc trở thành đồn của Ủy ban Quốc tế
Kiểm soát Ngưng bắn gọi tắt là ICCS. Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải được
chia hai, phần trong Nam sơn màu xanh, phần ngoài bắc sơn đỏ; giữa là vạch
sơn trắng. Đó là biên giới của hai miền, của tự do và nô lệ, của dân chủ và
độc tài, của cái mỹ danh Tiền đồn chống Cộng của Thế giới Tự do và Tiền đồn phe
Xã hội chủ nghĩa. Từ đó bắt đầu cuộc chạy đua, một bên tiến lên phía trước
của văn minh phát triển, một bên tụt lại hàng chục năm để trở về thời đồ đá. Đứng trên đèo Ba Dốc nhìn ra phương Bắc, con đường quốc lộ 1 thẳng tắp vượt
qua cầu , qua huyện Vĩnh Linh rồi chạy sâu vào lãnh thổ huyện Đồng Hới của
tỉnh Quảng Bình. Hai bên bờ là hai cột cờ mà mỗi năm mỗi được xây cao thêm,
vì bên nào cũng muốn tỏ ra hơn hẳn đối phương. Lá cờ rộng có lẽ bằng cả sân
làng. Bên kia, nhiều cán bộ đã chết oan ức vì leo lên đỉnh gỡ rối lá cờ. Tôi có nhiều dịp đến tận sát đầu cầu nhìn qua bên kia. Cũng có vài lần ra đến
chợ Cao Xá, nơi khoảng cách hai bờ hẹp nhất. Con sông Hiền Lương bắt nguồn từ
núi Trường Sơn đổ ra biển Đông ở cửa Tùng, nước chảy lặng lờ, sóng gợn nhẹ
buồn mênh mang. Trên sông, vài con thuyền trôi êm, không tiếng hò, câu hát.
Chợ Cao Xá nằm sát bờ sông. Những ngày phiên họp đông đúc, bày bán đủ thứ
hàng phong phú của miền Nam kinh tế tự do. Người qua lại lũ lượt áo quần màu
sắc rực rỡ. Dãy loa công suất lớn gồm hàng chục cái chỉa sang bờ Bắc, phát ra
những bài ca tình tứ, ca ngợi cuộc sống êm đềm, ấm no của miền tự do. Phiá
bên kia bờ, cảnh vật đìu hiu. Một ngôi nhà ngói đỏ lạc lỏng giữa vài căn lều
xơ xác. Vài người nông dân đứng âm thầm giữa cánh đồng buồn hiu; trên đường
có chiếc xe ba càng nặng nề kêu cút kít. Hàng loa tròn ngoài đó không mạnh đủ
để đưa những luận điệu tuyên truyền vượt qua con sông hẹp. Phải những ngày
nghịch gió, ta còn nghe văng vẳng vài câu hát the thé toàn chuyện chăn nuôi,
sản xuất. Nơi đây, vùng phi chiến. Không có bóng dáng người chiến binh. Chỉ thấy anh
cảnh sát mặc đồng phục trắng qua lại. Sau này, chính quyền ta lập ra quận
Trung Lương nhỏ bé để đảm trách phần hành chánh của vài ba xã nằm trong vùng.
Tôi có dịp ra chơi nhiều lần trong những dịp hè, vì Lễ Môn là quê hương của
người anh rể tôi. Những ngày nắng đẹp, chúng tôi chạy đuổi bắt nhau qua những
rừng đầy trái sim chín và trái chu mòi chua chua, ngọt ngọt. Sáng sớm thì đi
đâm chuột ở các thửa ruộng vừa gặt xong; những con chuột đồng béo mập, lông
vàng hoe, đem về cho vào hông với lá sả là tuyệt. Thế rồi... Cảnh thanh bình đột ngột biến mất. Uỷ Hội Quốc Tế rút đi vì cũng bất lực
trước sự ngoan cố vi phạm của Cộng Sản, thay vào đó là toán Hiến Binh Việt
Nam Cộng Hoà đội nón cát két đỏ. Tiếng sáo chiều nhẹ nhàng đã bị thay bằng
tiếng đạn cối đêm đêm vọng về. Chiến cuộc bắt đầu từ các vùng Cam Lộ, Hướng
Hoá lan dần xuống. Đông Hà trở thành căn cứ quân sự lớn với các chàng trai
trẻ Sư đoàn 1 Bộ binh kiêu hùng. Cộng sản phản bội Hiệp định Geneve, thành
lập cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam trong kỳ Đại hội đảng
20-12-1960 nhằm thôn tính miền Nam. Du kích nằm vùng bắt đầu quậy trở lại.
Chiến tranh lớn dần, lan dần ra tận khu phi quân sự. Đạn đại pháo từ bên kia
bờ ngang nhiên bắn phá vào làng mạc miền Nam. A-1, Côn Thiên trở thành pháo
lũy kiên cường, nơi những người chiến sĩ Trung đoàn 2 của Đại tá Vũ Văn Giai
ngày đêm gian nguy chống giữ. Sông Bến Hải lại lần nữa chứng kiến cảnh huynh
đệ tương tàn. Năm 1965, tôi đang làm cho một cơ quan chống khủng bố của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ
tại Quảng Trị. Ngày đưa Tôn Thất Dương Kỵ, Trịnh Đình Thảo và Nguyễn Văn
Huyến (tôi không nhớ chính xác lắm về người sau này) tống cổ ra Bắc vì tội ăn
cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản; tôi lại lần nữa ra tận chân cầu Hiền Lương.
Trước khi đi, cố Vấn Kenwood Foster dặn không mặc quân phục mà thay vào đó bộ
bà ba đen như của cán bộ Xây Dựng Nông Thôn. Phiá VNCH hình như có ông Nguyễn
Cao Kỳ, lúc đó là Phó Tổng Thống. Ông mặc bộ vét 4 túi, đội mũ jockey đen. Chỉ
có Cảnh Sát và viên chức dân sự mới được đi đến gần cầu, toán Quân Cảnh
áp giải tù phải chờ ở Quận Lỵ Trung Lương. Con sông vẫn chảy lặng lờ, như vô
tình trước cơn binh lửa. Sóng gợn nhẹ lăn tăn, lấp lánh ánh mặt trời như một
điệu ru buồn não ruột. Hai mươi lăm năm sau, đất nước lại thanh bình, tôi qua Hiền Lương trong một
chuyến xe đò đi Hà Nội thăm cho biết quê hương miền Băc một lần trước khi ra
đi về miền tự do Hoa Kỳ. Cảnh trù phú rộn rịp của những năm “cởi mở” đã thực
sự chấm dứt ở Đông Hà, cách đó 15 cây số về phía nam. Từ Đông Hà cho đến tận
Hà Nội là cảnh tiêu điều hoang sơ, nghèo ơi là nghèo. Nghèo ngoài sự tưởng
tượng. Chiếc cầu Hiền Lương còn trơ khung sắt đã tróc rỉ. Mặt cầu không còn
lớp ván mà thay bằng những cây rừng gác tạm bợ, buộc với nhau bằng đủ loại
dây nhợ. Hai móng cầu đã nứt nẻ, người ta dùng dây kẽm gai chằng néo chống
đỡ. Đã mười lăm năm sau chiến tranh mà cộng sản vẫn chưa vãn hồi được cảnh
thanh bình an lạc nơi miền quê đau khổ này. Bên bờ Bắc, vẫn những tấm áo nâu
sồng rách bạc, lầm lủi đi trong mưa. Đường lộ không còn nền nhựa mà chỉ đá
đất lởm chởm đầy ổ gà. Hai bên, thỉnh thoảng thấy những cụ già, những bé thơ
gầy còm run rẩy đứng xin ăn. Các thiếu nữ thì che tấm chiếu chờ những chuyến
xe từ miền Nam ra gạ gẫm bán thân, đổi lấy lon gạo cho bữa cháo ngày mai của
gia đình. Dân chúng ở dọc hai bên đường nơi chúng tôi dừng lại mượn chỗ nấu
cơm, đã thèm thuồng nhìn bát cơm trắng của chúng tôi mà than :”Cả một đời
chưa hề ăn được bữa cơm với gạo trắng như dân miền Nam.” Con sông Gianh, nơi phân chia thời Trịnh Nguyễn, nước đục ngầu, chiếc cầu bắc
qua đã bị phá hủy trong chiến tranh vẫn chưa được xây lại. Xe cộ phải qua cầu
phà ghép bằng đủ loại ca nô và tấm gi sắt cũ. Người dân xứ Nghệ Tĩnh, cục
cưng của chế độ Cộng sản thật khó thương. Họ vừa cục cằn, thô lỗ, vừa bẩn
tính. Xe tôi dừng ngủ đêm chờ sáng. Trước khi qua phà, tôi cầm ca và bàn chải
đánh răng bước vào một căn nhà xin nước sạch để rửa mặt, súc miệng. Chưa đặt
chân qua cổng, đã nghe cái giọng trọ trẹ dễ ghét: “Không cho mô, đừng vô.”
Thử tưởng tượng, cái giếng nước thì đầy nhóc, mà lòng người thì quá khô cạn.
Thì ra, thống nhất từ lâu, nhưng Nam Bắc vẫn không thể chan hoà được. Ranh
giới địa lý đã xoá mờ, nhưng ranh giới ý thức hệ, ranh giới của văn hoá, ranh
giới của tình người, ranh giới của sự phát triển vẫn còn kéo dài cho đến cả
nhiều thập niên về sau. Còn một con sông Bến Hải mới giữa những người không phương kế, phải ở lại và
những người ra đi đến bến bờ tự do trên hàng chục nước khác nhau khắp hoàn
cầu. Ba mươi lăm năm với hai lối sống hoàn toàn khác biệt đã tạo ra một
khoảng cách rất xa giữa hai nếp suy nghĩ mà dễ gì rút ngắn nếu một ngày mai
trong tương lai, dân chủ tự do lại vãn hồi trên quê hương.
|
ĐỖ VĂN PHÚC |
Pages
▼
No comments:
Post a Comment