Pages

Monday, March 25, 2024

Con Đường Xưa Em Đi - Trần Anh Kiệt


Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn dâng tái tê…..
Con đường xưa em đi, thời gian có quên gì, đá mòn kia vẫn ghi….
(Nhạc Châu Kỳ-Lời Hồ Đình Phương)

“Con đường xưa em đi” gợi tôi nhớ đến con đường Duy Tân rộn rã tiếng cười của nữ sinh viên trường Luật, với mái tóc thề chấm ngang vai, với tà áo trắng tung bay. Con đường xưa tôi đi, trên miền đất lạnh, đem tôi về một dĩ vãng có ba giai đoạn của cuộc đời: thời sinh viên, những bước đầu tỵ nạn và lúc tuổi xế chiều. Ba tâm trạng khác nhau. 

Ở tuổi mười chín, tôi bước chân trên con đường rợp bóng cây phong dưới chân đồi đại học Montréal với bầu nhiệt huyết của một du học sinh đến miền đất văn minh để xây dựng tương lai. Vào tuổi trung niên, từ trại tị nạn tôi trở lại đây, lạc lõng, bơ vơ, đến trường cũ xin bản sao văn bằng để đi tìm việc. Và ngày hôm nay, ở tuổi xế chiều, tôi trở lại con đường xưa, trên những bước đi chậm rãi, tôi suy gẫm về cuộc đời.

Con đường tôi đi mang tên Maplewood, có ý nghĩa là rừng phong nay đổi lại là Edouard Monpetit. Tôi đến đây lần đầu tiên vào mùa thu, lá đã thay màu, để tìm nhà trọ và viếng ngôi trường mới, Trường Bách Khoa, Đại học Montréal. Cuộc đời sinh viên của tôi thật êm ả, được hòa mình vào một môi trường sống thật hiền hòa, lương thiện. Khó có thể chối cãi ảnh hưởng tốt lành của việc sùng đạo công giáo của người Québecois lúc ấy. Con người đối xử với nhau rất chân thật, và đặt nặng chữ bác ái của Ki-tô giáo. 

Có lẽ bản chất nông dân hiền hậu từ đất Bretagne, Normandie của nước Pháp được bảo tồn đến ngày nay qua cuộc di dân. Hầu như không có trôm cắp, báo La Presse, Le Devoir, giá 5 xu, 10 xu để bên lề đường tự người mua ý thức bỏ tiền vào hộp. Xe đạp, moto, không cần khóa. Giáo sư rất khiêm tốn, không giữ khoảng cách với sinh viên, sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi dù có khó khăn, đặc biệt là rất khoan dung với những anh chàng không cưỡng được cơn buồn ngủ, gục đầu trên bàn học. Sinh viên chỉ cần một cái búng tay kêu tiếng “tách” để gọi giáo sư hướng về mình để đặt câu hỏi. Giờ ra chơi, trò cùng thầy phì phà khói thuốc tiếp nối câu hỏi dở dang. Đó là những nhận xét về trường của tôi cách đây hơn nửa thế kỷ.

Mỗi ngày tôi phải leo hơn 100 bậc thang và một đoạn đường dốc để đến trường nằm trên đỉnh ngọn đồi. Không màng cái mệt thể xác, ngay cả lúc mùa đông giá rét, đường trơn trượt. Có lẽ nhờ tâm hồn vui vẻ, đầy phấn khởi và nhiều hy vọng ở tương lai. Bạn trong lớp thật là tốt bụng, thường đặt câu hỏi: đề thi có quá khó không? Họ không biết là những câu hỏi như thế chạm tự ái của những người đã đậu tú tài hạng Ưu hay Bình mới được học bổng du học. Lần đầu tiên họ tiếp xúc với thanh niên một nước chậm tiến nhưng bộ óc không chậm chút nào. 

Lúc ấy Canada có mức sống cao hạng nhì trên thế giới, đứng sau Mỹ, nhờ nông nghiệp và khai thác khoáng sản, còn nước VN thật bé nhỏ, nghèo nàn. Nhưng tôi hãnh diện về lịch sử và văn hóa của nước tôi, nhất là nơi ấy tôi đã có một cuộc sống hạnh phúc, không có nhiều nhu cầu vật chất của một xã hội tiêu thụ.
Sự học không ngăn cản được cái khao khát tình yêu ở tuổi thanh niên nhất là trong khung cảnh tự do, xa gia đình, nơi xứ người. Nhưng sinh viên nữ VN quá ít nên chỉ có những anh chàng nhanh chân, khéo miệng mới được các nàng gật đầu chấp thuận một cuộc hẹn tay đôi, biến thành sự gắn bỏ cả cuộc đời. Cái cô đơn làm cho các chàng bớt khắt khe về dung nhan của người con gái. Có những cô nàng cẩn thận đi đâu cũng đòi có vài nhân chứng chaperons đi kèm cho đến khi chọn được một ứng cử viên vừa ý mới tách đi cặp. 

Thời gian thử thách khá lâu. Có anh chán nản bỏ về VN lấy vợ đẹp. Tôi thấy rõ sự khao khát “cây nhà lá vườn” của đàn anh đến trước tôi ba năm nhưng lớn hơn tôi 5-7 tuổi. Nhân có một đoàn y tá và nữ hộ sinh VN được Gia Nã Đại cho qua tu nghiệp một năm tại các bệnh viện, các đàn anh của tôi đã tình nguyện dẫn các chị đi dạo chơi, xem thắng cảnh, đi mua sắm, ăn cơm tàu, để sau cùng quỳ gối trân trọng nói câu: “Anh muốn đem lại hạnh phúc cho em”! Cái bằng kỹ sư du học lúc ấy cũng có giá lắm, thêm vào đó, cái cung cách tôn trọng phụ nữ, học của tây phương, cùng với làn da hồng hào sau mấy năm thoát khỏi ánh nắng gay gắt của miền nhiệt đới. Làm sao em có thể từ chối tình yêu của anh được! 

Thế rồi các chàng cùng các nàng về quê nhà thành thân bỏ lại sau lưng giấc mơ lấy bằng tiến sĩ. Chỉ có các anh cùng khóa với tôi xuống học ở ĐH Laval, vắng bóng hồng VN, chuyên tâm dồi mài kinh sử, hầu hết trở thành giáo sư đại học. Tại sao không có ai yêu mái tóc vàng, mắt xanh, da trắng? Có chớ sao không. Nhà văn KT, tốt nghiệp ĐH Laval, có nhiều mối tình nóng bỏng được anh kể lại rất hấp dẫn trong tiểu thuyết của anh, có nhiều đoạn rất là “kích dục”. Vậy thì còn “công lực” đâu để học lên tiến sĩ. Thôi, làm kỹ sư bachelor cũng được. 

Ở phương trời Tây bây giờ, anh có còn nhớ thời oanh liệt hay không lúc tuổi đã về chiều? Tại Montréal có vài chàng thành thạo ăn chơi từ quê nhà, chê gái VN là “xấu, ngực lép, chân cong, hay õng ẹo”, họ đi săn tìm những cô gái tóc vàng bất chấp tuổi tác, trình độ văn hóa, giai tầng xã hội. Họ thành công trong việc thỏa mãn tình dục. Nhưng khó biết họ có được tình yêu hay không khi tìm sự kết hợp vội vàng trong quán bar, sàn nhảy, quán ăn, trên autobus… rồi không dứt ra được? Điều có thể thấy về sau là họ không có được những đứa con thông minh sáng láng như con của rất đông người tỵ nạn nghèo nhưng có văn hóa, có truyền thống giáo dục gia đình.

Tôi trở về quê hương lòng không vướng bận như các đàn anh dù đã có một lần mang một vết thương. Tôi trả được hiếu, đáp lại được ước mong của bà mẹ quê mòn mỏi trông con. Nhưng rồi mẹ tôi sớm qua đời và tôi cùng với hàng triệu đồng bào miền Nam đã trải qua bao khổ đau bên trong bức màn sắt của thiên đàng cộng sản. Đói khát, tù đày, tinh thần uất ức trước bao cái ngu, cái ác của bọn quỷ đỏ. Sau cùng, tôi cũng đã thành công đến được bến tự do.

Ở tuổi trung niên, với thân phận người ti nạn trắng tay, tôi trở lại con đường xưa, lên trường cũ xin bản sao văn bằng nộp đi tìm việc làm ở đầu thập niên 80. Tôi tìm thấy sự ấm áp, niềm nở nơi những người bạn làm việc ở VN thoát đi năm 1975. Chỉ trong 5 năm, họ đã thành công, có việc làm tốt, mua được nhà ở ngoại ô. Còn bạn du học thuở xưa thì sao? Có kẻ thủy chung cũng có người bội bạc. Tôi chỉ có một chút ngỡ ngàng vì ngạc nhiên trước cái bội bạc. Nhưng nó chỉ là một cơn gió thoảng so với những trận cuồng phong mà tôi đã trải qua trong lao tù cộng sản. Rồi tôi vững tin tiến bước trên con đường tạo dựng sự nghiệp trên quê hương mới.

Theo nhận định hạn hẹp của tôi, chân dung tổng quát của các du học sinh trước 1975 tại Montréal như sau. Những anh còn độc thân, dần dần bớt đi cái hợm hĩnh trí thức lúc ban đầu để đi tìm những bóng hồng trong đám người tỵ nạn giúp họ chấm dứt nỗi cô đơn. Những kẻ đã có gia đình kết hợp hai đầu lương đại học đều có cuộc sống thoải mái trong căn nhà ngoại ô, tập trung ở Brossard, Longueuil, Saint Lambert, Laval. Trong thập niên 80, họ bỏ ngoại ô chuyển về Ville Mont-Royal, khu nhà giàu, đồng thời với các nhà giàu mới trong ngành y, nha, dược, đã hội nhập thành công nơi quê hương mới. Một số ít muốn tìm sự khác biệt, đến sống ở Outremont trên núi cao, thủ phủ của nhà giàu và quyền thế nói tiếng Pháp, hoặc Wesmount có một thời được xếp là nơi cư dân có lợi tức trung bình cao nhất nước. Tôi có vài người bạn chọn Hampstead, khu nhà giàu Do Thái vì cho là nhà nơi đây mới hơn nhà Ville Mont Royal. Cô em vợ tôi, hai vợ chồng bác sĩ, tích lũy tiền bạc sau mấy năm làm việc ở vùng xa, trở về mua nhà ở Hampstead vì cơ duyên gặp một căn nhà đúng ý thích. Họ sống thoải mái cho đến một ngày cô nàng gặp một anh Do Thái đặt câu hỏi khi gặp nhau giữa đường: Cô làm bonne (người giúp việc nhà) cho nhà nào? Sao nó có thể nhìn người bác sĩ VN thành người bonne Philippines được! 

Trách ai? Nhà Do Thái nào ở Hampstead lại không có bonne Philippines. Họ lấy tiền lương của bonne cho vào chi phí của xí nghiệp để trừ thuế. Thôi thì nhà anh anh ở, nhà tôi tôi ở, tránh tiếp xúc. Mấy anh Do Thái thật có tính tự tôn. Phải có chiếc Mercedes hay BMW bóng loáng chạy ngoài đường họ mới biết cái giàu của nghề bác sĩ. Khổ nỗi cô em vợ tôi tính cần kiệm, không thích khoe khoang, cảm thấy hạnh phúc với chiếc Corolla. Mặc cho mọi người đàm tiếu nói ta hà tiện. Đồng tiền mua nhà mới là đồng tiền khôn. Mua xe, tiền hao mất, mua nhà tiền nhân lên.

Tôi hòa mình với đồng bào tỵ nạn giống như tôi, có cùng một ý chí phấn đấu kiên cường, có tình thương sâu đậm hướng về thân nhân còn sót lại ở quê nhà. Tuy lợi tức còn ít oi, người tỵ nạn ào ạt cho tuôn về VN những món quà cứu đói cho cha mẹ, anh em, vợ hay chồng bị VC giam giữ, lưu đày. Các cháu của tôi, trong lúc anh tôi bị đày ra Bắc phải nuôi sống bằng bo bo và nước muối khi mẹ của chúng đắm chìm trong điên loạn. Ta hãy đọc lại lời ca thâm thúy, gây xúc động của Việt Dũng trong “Một chút quà cho quê hương”:
Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá. Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay. Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may. Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy… Con gởi về cho cha một manh áo trắng. Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây…
Các cửa hàng gởi thuốc về VN của bà B., ông T. làm ăn phát đạt cạnh tranh với Trạm Beaudry do một số du học sinh thân cộng quản lý. Những người nầy đã hoạt động tích cực trong phong trào phản chiến đả phá VNCH. Suy nghĩ kỹ, tôi thấy họ chỉ là nạn nhân lầm lạc của một chiến dịch truyền thông chống chiến tranh trên toàn thế giới. Họ không biết hay không thẩm lượng được cái ác, cái ngu của VC, tàn phá xứ sở, hủy diệt con người. Tôi đã chứng kiến sự thức tỉnh của nhiều người. Nếu họ là những người có tâm huyết chắc chắn họ phải đau lòng vì sự tụt hậu của VN sau 44 năm dưới quyền thống trị của một chế độ khát máu, phi nhân.

Tôi cảm thấy phải vinh danh người phụ nữ VN tỵ nạn trong đầu thập niên 80. Họ trở thành trụ cột gia đình, miệt mài lao lực ngày đêm trên chiếc máy may hay trong nhà bếp của các quán ăn. Họ giúp chồng yên tâm ăn học để sớm hội nhập vào xã hội mới. Nhiều người bác sĩ ở thế hệ đầu tiên phải mãi mãi mang món nợ ân tình nầy của người vợ đảm đang. Sau người mẹ là những đứa con ở thế hệ hai. Gương phấn đấu và sự cực khổ của cha mẹ đã rèn luyện cho đứa trẻ nhiều nghị lực và quyết tâm vươn lên trong xã hội. Chúng thành công rực rỡ làm thành thế hệ trẻ đông đảo trong ngành y, nha, dược. Truyền thống giáo dục gia đình nghiêm khắc của VN là nhân tố đem nhiều thành công cho con cái. 

Tôi rất khâm phục đứa con gái lớn của một anh bạn thân vừa qua đời. Có chồng là trí thức nhưng cô ta lao lực cả đời với lương tối thiểu sống cần kiệm nuôi 4 người con tất cả thành bác sĩ. Tôi nhìn quanh tôi có những anh bạn có vợ Québecoise. Họ thường có một quan niệm giáo dục phóng khoáng, không ép buộc, để cho đứa trẻ phát triển theo sở thích của nó. Chơi hockey giỏi cũng kiếm được nhiều tiền cần gì phải làm anh mọt sách. Kết quả là tôi ít thấy có cô hay cậu “tây lai” nào làm nghề bác sĩ ở Montréal. Thông minh thì có nhưng “cote R” (điểm trung bình để xét vào các đại học ở Quebec) không cao vì thiếu cố gắng trên toàn bộ các môn học.
L’homme est un apprenti, la douleur est son maître (Alfred de Musset). (Con người là kẻ tập sự, đau khổ là thầy của họ). Có đau khổ người thi sĩ mới cho ra những vần thơ hay. Có thử thách con người mới rèn nên nghị lực. Thế hệ thứ hai của người tỵ nạn thành công nhờ thử thách của bản thân hay gương thử thách của gia đình trong những năm đầu sống khó khăn trên quê hương mới…

Nhưng trong gia đình nào cũng có câu hỏi khó giải đáp về hôn nhân của con mình: lấy Việt, lấy Tây, lấy Tàu, lấy Rệp, lấy da đen. Đây là câu tự hỏi về ước mơ của cha mẹ chớ có ai điều khiển được con mình. Nói đến làm mai là chúng giẫy nẩy lên cho là một hủ tục. Nhiều bà mẹ tuy ít biết ngoại ngữ nhưng thích con lấy Tây để lai giống đẹp. Dù dân tộc ta có anh hùng, có mỹ nhân, ta khó thể phủ nhận là dân da trắng được Thượng đế ban cho nhiều nét đẹp. Tôi thấy nhiều ông bà thật sự hạnh phúc khi nâng niu những đứa cháu lai đẹp như thiên thần.

Nhưng không phải lúc nào cũng có quyền gặp chúng nó, hôn chúng nó. Phải có hẹn trước như hẹn bác sĩ! Chưa kể phải tắm rửa sạch sẽ để khỏi nhiễm trùng cho trẻ con. Một bậc cha mẹ khác nói: “Tôi cũng thích có cháu lai nhưng chỉ sợ lấy Tây họ ăn ở không có cái “nghĩa”, dễ ly dị, gây khổ cho con và cho cháu. Do đó tôi thích con tôi lấy Việt Nam, bền vững hơn.” Nhưng cái nghĩa vợ chồng của xã hội VN, giới trẻ có hiểu nổi không? Có thực hành được không trong một xã hội đặt nặng chủ nghĩa cá nhân? Trong cái nghĩa phải có hy sinh và chịu đựng. Con cháu chúng ta có thấm nhuần ý nghĩa nầy không?
Cái duyên gặp gỡ VN để thành gia thất đôi khi rất hiếm mà người Tàu chung quanh thì lại khá đông. Đài Loan, Trung Cộng, Hong Kong, Tàu nào tốt hơn? Hy vọng Tàu nào cũng còn giữ được chút truyền thống Á Đông, cùng một nền văn hóa với VN nên vợ chồng dễ cảm thông nhất là trên vấn đề ẩm thực, vấn đề hiếu đạo và giáo dục con cái. 

Vậy tâm lý vợ chồng Việt Hoa có bị chi phối bởi những sự kiện lịch sử không? Tôi nghĩ là không, đối với giới trẻ quen với giá trị bao dung. Nhưng biết đâu những cặp lớn tuổi khó tránh được cãi vã khi Tàu cộng xâm lăng VN. Gương nước Mỹ ngay trước mắt. Chồng bênh Trump, vợ chửi Trump. Kẻ bênh Clinton, người thóa mạ Clinton. Chồng vợ, con cái, cãi nhau vì Obamacare và Trumpcare… Đã có thăm dò ý kiến sâu rộng về sự xích mích nầy trong gia đình người Mỹ chớ không phải đoán mò.

Ở Montréal có rất nhiều người Á Rập Hồi Giáo vì chính quyền Québec thích nhận di dân nói tiếng Pháp nhưng lại ngứa mắt vì cái khăn đội đầu của phụ nữ. Họ ăn nói rất hay, có học thức cao, nước da từ café sữa đến trắng như Tây. Vợ tôi có thành kiến với người Á Rập vì lúc ở Phi Châu bà có một người bạn VN đau khổ vì người chồng Ai Cập. Lấy nó vì tưởng nó là Tây thiệt! Ngoài ra, bà lại thấy trước mắt con của một người bạn bị một anh sinh viên Á Rập bỏ rơi sau nhiều năm chung sống. Không có tình yêu, hắn chỉ lợi dụng để có quốc tịch rồi cao bay xa chạy.

Hơn nữa cái truyền thống đa thê của Hồi Giáo luôn luôn đe dọa người vợ dù ở Canada. Rất nhiều người mẹ đơn thân ăn trợ cấp xã hội của chính phủ là vợ hai, vợ ba, vợ bốn của những người Á rập. Đây là chuyện đau đầu tràn lan tại Pháp và đương nhiên đã hay sẽ xảy ra ở Montréal làm người đóng thuế không hài lòng.

Nói đến da đen là một vấn đề tế nhị. Thượng đế quá bất công đối với họ. Người Việt chúng ta rất kỳ thị màu da đen. Vì thẩm mỹ chớ không phải vì dòng máu hay địa vị xã hội. Khi tôi làm việc ở Phi Châu, một anh kỹ sư da đen nói với tôi: Tôi có một người bạn ở Abidjan yêu một cô gái VN nhưng không đi đến được hôn nhân vì cha mẹ của nàng đòi tự tử. Nó không hiểu tại sao!

Trên đây là lời luận bàn về những ước mơ của bậc cha mẹ. Trên thực tế sau cùng con muốn sao thì ta phải chịu vậy. Ta có thể rèn luyện nghị lực cho nó nhưng khó uốn nắn trái tim của nó. Thôi đành nhắm mắt xuôi tay, để xem con tạo xoay vần tới đâu.
Tôi nhịp bước trên con đường xưa lòng miên man suy nghĩ. Sau 5 tháng làm loài chim tuyết xuống phía Nam hưởng nắng ấm, tránh mùa đông phương Bắc, tôi lại quay về cố hương. Tận hưởng mùa hè, mùa thu ở Gia Nã Đạị rồi lại bay đi khi tuyết đến. Tôi hiểu bí quyết để sống vui sau khi về hưu là quẳng gánh lo đi. Có thì giờ chia sẻ công việc nhà với người vợ đảm đang, trong bao nhiêu năm làm người nội trợ thầm lặng rất mệt nhọc để tôi dành thời gian cho sự nghiệp. 

Cái âu lo cho cá nhân không còn nhưng cái đau khổ cho đất nước vẫn luôn luôn làm ray rứt tâm hồn tôi. Thật đau lòng khi thấy phụ nữ VN phải đi làm nô lệ tại gia ở các nước Á Châu hay các nước Á Rập. Nam giới thì làm lao nô ở nước ngoài với đồng lương thấp kém làm giàu cho bọn tham ô Cộng Sản ngồi hưởng huê hồng. Nhiều người bạn của tôi đem sấm Trạng Trình ra bàn, đã quả quyết là cộng sản sắp chết khi có cách mạng hoa lài ở Tunisie. Nhưng họ đã ra đi trước khi nó chết. Những tưởng sự sụp đổ bức tường Bá Linh làm chúng thức tỉnh trả tự do cho dân tộc nhưng chúng lại van xin Tàu Cộng cứu chúng, được trao đổi bằng văn kiện bán nước: Hiệp Ứớc Thành Đô.

Bao giờ Cộng Sản mới chết để em về thăm VN? Nhà tôi đặt câu hỏi. Dieu seul le sait! Trời biết. Đã gần nửa thế kỷ chờ mong.


Trần Anh Kiệt

No comments:

Post a Comment