Pages
Thursday, November 14, 2024
Đoạn Cuối Buồn Một Chuyện Tình - Mai Khánh Thư - Phạm Doanh Môn
Mai Khánh Thư - Phạm Doanh Môn
Wednesday, November 13, 2024
Môn Đăng Hộ Đối - Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn
Tôi là đứa con gái đầu lòng trong gia đình bốn người con. Ba đứa em tôi đều là con trai nên Ba Mẹ chiều chuộng tôi lắm, vả lại tôi là một con bé trắng trẻo, mũm mĩm như con búp bê, ngoan ngoãn hiền lành, ai cũng khen tôi như vậy. Ba tôi là một thương gia thành công, giàu có. Ông có một nhà máy làm ve chai thủy tinh và đồ nhựa để cung cấp cho mấy dược phòng thuốc tây hay các hãng nước mắm, hoặc đồ uống đóng chai. Ngoài ra còn một hãng dệt bao bố để cung cấp cho các vựa gạo. Ông còn vài đồn điền trồng trà, cà phê, và chuối gần Bảo Lộc do chú tôi cai quản.
Một trong các khách hàng quan trọng là người bạn của ông. Đó là một Dược Sĩ tốt nghiệp tận bên Pháp, ông có một dược phòng rất lớn sản xuất thuốc Tây, chúng tôi gọi là Bác Ba. Ông thường lại nhà tôi chơi, đôi khi cả hai gia đình kéo nhau lên đồn điền ở chơi vài ngày, khi mà an ninh chưa tồi tệ lắm. Đồn điền có máy phát điện riêng và một Chateau d’eau (tháp nước) với máy bơm nước đàng hoàng để cung cấp nước cho các nông trại, cho nên tương đối cũng đầy đủ tiên nghi. Trong thập niên 70 đường xá khó khăn chúng tôi không còn lên đó nữa, để mặc chú tôi cai quản.
Ba tôi vốn là một “Thầy Tu Xuất”, cho nên mặc dù thương yêu con cái, nhưng rất nghiêm khắc. Chúng tôi chẳng bao giờ dám làm trái ý ông. Mỗi sáng Chúa Nhật, Ba tôi chở cả nhà đi nhà thờ, rồi đưa đi ăn tiệm. Buổi tối Mẹ thường quây quần các con lại để đọc kinh cầu nguyện trước khi lên giường ngủ. Trong nhà có chị bếp giúp mẹ tôi nấu nướng và đi chợ. Chú tài xế chở Ba tôi đi làm và chúng tôi đi học.
Có thể nói tuổi thơ và tuổi dậy thì của tôi được Ba tôi gói vào khuôn khổ gia đình lễ giáo, một mẫu mực của những tiểu thơ khuê các kín cổng cao tường, giống như người ta gói những chiếc bánh chưng bằng lá dong trong chiếc khung gỗ, các cạnh bánh vuông vức đều đặn, cột bằng lạt tre thẳng thắn, ngay ngắn. Đời tôi lớn lên như vậy, giống y hệt một chiếc bánh chưng ngày tết!
Lúc còn bé, Ba tôi gởi vào học trường Colette, đó là trường Pháp dạy bậc tiểu học đến lớp 6 me (Tương đương lớp nhất bậc tiểu học VN). Sau này lớn lên học trường Saint Paul của mấy Bà Phước, cho nên nói và viết tiếng Pháp rành hơn tiếng Việt.
Sử ký, địa lý cũng vậy đều nói về nước Pháp chẳng biết gì về Việt Nam cả, nghe toàn nhạc Pháp, hát quốc ca Pháp, đọc sách báo Pháp. Sau này khi ra đời tôi luôn mắc cỡ về cái quá khứ “Gốc Tây Đui” của mình.
Sau khi đậu bằng Brevet (Trung Học đệ nhất cấp), tôi tiếp tục học lên để lấy bằng Baccalauréat (BAC). Tôi chẳng thiết tha việc học là mấy, tuy vậy cũng chẳng có dịp đi rong chơi với bạn bè cùng trang lứa, cho nên tuổi dậy thì chưa bao giờ nghĩ đến chuyện trai gái. Nói trắng ra chưa từng có mối tình nào vắt vai để khoe với bạn bè.
Năm đang học 1ère (lớp 11). Một hôm Bác Ba mời gia đình tôi qua ăn cơm, nhân dịp cậu con duy nhất của Bác du học bên Pháp từ nhỏ về chơi. Đó là một anh Tây con, mặt Việt Nam. Anh chỉ biết nói tiếng Pháp, tiếng việt thì nghe và nói lõm bõm vài chữ thôi. Trong nhà nói chuyện với nhau đều dùng tiếng Pháp. Tôi chẳng có cảm tình chút nào về anh ta cả, như một người xa lạ gặp nhau ngoài đường, nói chuyện cho lịch sự xã giao thôi.
Sau đó vài ngày, Ba tôi gọi tôi vào văn phòng, ông nói với tôi Bác Ba muốn xin cưới tôi cho con ông ấy. Tôi từ chối, viện lẽ còn muốn đi học. Ba tôi nghiêm sắc mặt, nói là ông đã chọn chỗ này “MÔN ĐĂNG HỘ ĐỐI”, khắp Saigon không còn chỗ nào hơn được nữa. Ba muốn tôi qua Pháp ở để làm đầu cầu cho các em tôi sẽ qua đó du học như anh Tây, con Bác Ba. Tôi chỉ biết khóc và xin với Mẹ nói giúp tôi để Ba từ chối lời cầu hôn. Tôi biết Mẹ luôn nghe lời Ba, nhưng còn cách nào hơn?
Sau hơn một tháng, đám cưới giữa tôi và anh Tây con cũng diễn ra êm xuôi. Tôi với anh ấy chẳng có ý tưởng gì về tình nghĩa vợ chồng cả. Ba Má chồng tôi mua cho chúng tôi một căn biệt thự nhỏ để tôi đứng tên. Vợ chồng tôi dọn về căn nhà đó được hai tháng thì chàng phải trở về Pháp để tiếp tục học, Còn tôi về lại ở với Ba Mẹ, vẫn tiếp tục đi học như xưa. Tôi nghỉ học khi biết mình có bầu, đó là đứa con gái đầu lòng của chúng tôi. Chồng tôi về Việt Nam vào mùa hè năm sau và hứa sẽ làm thủ tục để đưa tôi qua Pháp, tôi nói chưa muốn đi xa Ba Mẹ.
Rồi kiếp nạn “30 Tháng Tư” ập đến. Ba Mẹ tôi và bên nhà chồng đều bị tịch thu hết tài sản nhà cửa để đưa đi vùng kinh tế mới. Đi vùng kinh tế mới chỉ là lý do để họ, những người thắng cuộc, chiếm đoạt mấy căn biệt thự đồ sộ thôi. Ba tôi lên đồn điền ở với chú, vì vùng quê xa xôi đó không ai để ý, vả lại xưa kia chú vẫn phải đóng thuế cho cả hai bên nên họ, những người bên kia, vẫn làm ngơ cho Chú sinh sống làm ăn. Ba Má chồng tôi vì có quốc tịch Pháp nên tòa Đại Sứ Pháp can thiệp cho họ về lại Pháp. Còn tôi, sống bên Ba Mẹ như một con ốc sên trong chiếc vỏ cứng cáp, chẳng phải lo lắng gì, nên quyết định ở lại, dù sao bên người thân cũng thấy an tâm và ấm áp hơn.
Mẹ con tôi ở lại căn nhà cũ, nhiều lần họ muốn đuổi chúng tôi đi nhưng tôi viện cớ có con nhỏ nên cương quyết từ chối. Tôi bắt đầu mang những đồ quý giá trong nhà ra bán ngoài chợ trời. Lâu dần cũng quen đi với nếp sống mới, cái mác “Tiểu Thư khuê các” cũng phai dần theo năm tháng. Tôi vẫn còn dấu được một ít tư trang do Ba Mẹ tôi cho làm của riêng, và cả của bên Chồng tôi cho nữa.
Nhũng tư trang đó tôi cất rất kỹ để phòng thân không bao giờ đụng tới. Bây giờ tôi học được nghề bán chợ trời và những mánh khóe tránh công an kiểm tra. Mua đi bán lại những nhu yếu phẩm cần thiết và rất khan hiếm thời đó. Tôi vẫn không có tin tức gì về người chồng hờ hững của tôi bên trời Tây xa xăm, nhưng may mắn quen được một người thanh nên tháo vát tên Huân. Anh ta là cựu giáo chức biệt phái, bị thất nghiệp nên đi bán chợ trời như tôi. Chúng tôi hợp tác làm ăn, anh ấy đi lùng mua hàng hóa, còn tôi đi rao bán ngoài chợ.
Chúng tôi mướn một sạp nhỏ, bán đủ thứ từ rau cỏ, trái cây, nhưng hàng dấu kín là thuốc tây và những hàng “ngoại”, chỉ bán cho người quen biết. Huân thường ra phi trường, nơi hàng hóa gởi về từ ngoại quốc, hay bến tàu, nơi những thủy thủ tuồn xuống từ tàu buôn ngoại quốc hay các anh quan thuế lấy được mang ra lén lút bán.
Buôn bán như vậy lời nhiều nhưng không phải bao giờ cũng chót lọt, bọn công an luôn ngắm nghé, có khi tịch thu hết cả mặt hàng. Chúng tôi luôn cất dấu hàng ở một nơi, chỉ mang một ít làm mẫu thôi. Tuy vậy cuối cùng vẫn phải chia chác với công an để được yên thân.
Những năm phong trào ra đi bán chính thức mà bọn công an tổ chức cho người Hoa vượt biên lên cao. Đi đâu cũng nghe tiếng rỉ tai: “Nộp vàng đi bán chính thức”. Anh Huân móc nối được vài ba tổ chức, tôi nhắn Ba gởi mấy đứa em ra đi theo họ. Mỗi đứa đi theo một tổ chức khác nhau. May mắn cả 3 đều đến Mỹ an toàn. Tôi giục anh Huân đi theo mấy đứa em, tôi sẽ cung cấp tài chánh cho anh, nhưng anh nhất quyết nói rằng nếu tôi đi anh ấy mới đi. Tôi nói tôi còn con nhỏ, vả lại vẫn phải chờ tin tức của chồng tôi. Anh Huân nói sẽ chờ tôi, dù là chờ suốt cuộc đời.
Thật ra những ngày tháng đó, tôi có vất vả về thể xác, nhưng tinh thần rất thoải mái, không còn phải đóng khung trong lễ giáo. Tôi chẳng nghĩ gì khác hơn là mỗi ngày lo kiếm ăn để lấp vào hai cái bao tử chống rỗng. Mẹ con tôi ăn uống cơm hàng cháo chợ. Đôi khi công an có tới khám xét nhà nhưng chẳng kiếm ra cái gì, vì hàng hóa anh Huân giữ cả, tư trang tôi cất một nơi rất kín đáo. Tôi chờ tin tức của chồng tôi mãi rồi cũng chán, chỉ mong sống qua ngày thôi. Ba thỉnh thoảng về qua nhà thăm tôi, mang ít thực phẩm từ nông trại, rồi lại đi ngay. Anh Huân luôn săn sóc hai mẹ con tôi, những lúc ốm đau, thiếu thốn. Việc làm ăn của chúng tôi cũng khá xung túc, nhờ tài tháo vát lục lọi mua hàng của anh ấy. Tình cảm của chúng tôi ngày càng thắm thiết theo nhịp độ hợp tác buôn bán.
Một hôm con gái tôi đi học về bị tai nạn xe, chiếc xe đạp bị xe hơi đụng cong queo. Anh Huân mang nó vào nhà thương và lo cho nó cho đến khi bình phục hẳn như thể nó là con của anh ấy. Từ đó tình cảm nẩy nở, chúng tôi yêu nhau lúc nào không biết. Đó là tình yêu đầu đời của tôi, của một người đàn bà đã có chồng, có con. Lớp vỏ tiểu thư khuê các đã rơi mất từ ngày tôi ra đứng dầm mưa giãi nắng ngoài chợ trời. Anh Huân thiết tha muốn chúng tôi thành vợ chồng, nhưng một lần ngỏ ý với Ba tôi, ông nhất định từ chối và nói “Con gái chỉ có một chồng”. Tôi, trên nguyên tắc vẫn là người đàn bà đang có chồng. Tôi có cảm tưởng mình đang sống vào thời đại quá khứ hàng mấy trăm năm về trước. Dù sao cũng không ai ngăn cản được tình yêu của tôi và anh Huân.
Chúng tôi yêu nhau từ tận trái tim, trong hoàn cảnh nghèo khó, trong cuộc sống khắc nghiệt mà mọi bước đi phải dòm chừng, tính toán sao cho chót lọt. Tuy vậy, tôi thấy tất cả đều dễ dàng vì tôi đã có chỗ dựa vững chắc, một nơi an nghỉ thoải mái trong trái tim, mỗi khi quá mệt mỏi.
Cho đến ngày gia đình tôi được giấy bảo lãnh qua Mỹ, nhờ mấy đứa em đã qua trước. Tôi ngậm ngùi từ giã anh Huân, giắt con theo Ba Mẹ tôi ra đi, giao căn nhà đang ở cho anh làm chủ. Tôi hứa với anh sẽ trở về, anh cũng hứa sẽ chờ đợi tôi dù đến cuối cuộc đời. Nghe như trong tiểu thuyết lãng mạn của vài thế kỷ trước!
Chúng tôi ở Mỹ một thời gian, Ba mẹ tôi liên lạc được phía bên chồng tôi, thế là họ đón tôi qua bên ấy. Chồng tôi ở với Ba Má anh ấy, mẹ con tôi ở một chung cư không xa là mấy. Thỉnh thoảng chồng tôi cũng qua thăm hai mẹ con, anh ấy lo cho con đi học và làm thủ tục nhập cư cho tôi. Chúng tôi xa lạ như hai người hàng xóm, ai có đời sống riêng người ấy, mặc dầu trên danh nghĩa chúng tôi vẫn là vợ chồng. Tôi cũng chẳng biết gì về cuộc sống của anh ấy trên đất Pháp, học hành, nghề nghiệp? Anh ấy cũng chẳng hỏi về cuộc sống của tôi trên quê hương xa lạ Việt Nam. Chúng tôi luôn như vậy trên danh nghĩa vợ chồng. Lúc đầu anh ấy vẫn cung cấp tài chánh đầy đủ cho hai mẹ con, sau này tôi xin được việc làm, tiền chu cấp cũng giảm đi.
Con tôi ra trường xin được việc làm khá tốt, không cần nhờ vào trợ cấp của anh ấy nữa. Tôi có về Mỹ thăm mấy đứa em và Ba Mẹ tôi vài lần. Tôi chẳng bao giờ nói về đời sống của vợ chồng tôi bên Pháp, coi như mọi sự đều ổn thỏa. Nhìn mặt tôi lúc nào cũng vui tươi, hòa nhã nên Ba Mẹ tôi không nhọc lòng. Riêng tôi, tôi đã chấp nhận đời sống của riêng mình chẳng có gì phải phàn nàn cả, nên vẫn cảm thấy thoải mái, yêu đời. Tôi có một góc trời riêng của tôi trong lòng mình mà tôi luôn mang theo đi bất cứ nơi nào. Một góc trời xanh bao la, tôi luôn nhìn thấy dù đêm hay ngày.
Ba Mẹ chúng tôi lần lượt qua đời. Con gái tôi đã có chồng. Tôi chẳng còn gì ràng buộc với bên chồng tôi nữa và đề nghị chồng tôi ly dị để cả hai bên đều được tự do.
Chẳng ngạc nhiên, anh ấy đồng ý ngay, dù sao chúng tôi cũng ảnh hưởng Tây hoc nên rất thẳng thắn và cởi mở. Từ lúc đầu, chúng tôi đều chỉ vâng lời cha mẹ hai bên, cho nên kết duyên vợ chồng theo thông lệ.
Tôi đã sống gần hết cuộc đời cho người khác. Bây giờ thời gian chẳng còn bao lâu, tôi phải sống cho tôi thôi. Tôi gọi anh Huân hỏi anh ấy có còn chờ tôi không?
Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn
Jacaranda Tour Kirribilli - Sydney
Tuesday, November 12, 2024
Trong Vòng 72 Giờ Sau Khi Trump Đắc Cử
Trump breaks through in California, flips 10 counties
https://www.deseret.com/politics/2024/11/08/california-harris-trump-flip-counties/
Kim Duncan chuyển
Một Thoáng Qua Hồn - Vi Vân
Con đường đến Nghĩa
Trang Quân Đội Cần Thơ bỗng dưng quen thuộc với tôi hơn một tháng nay, kể từ
ngày anh tôi được đưa về đây an nghỉ.
Mỗi ngày sau khi tan học
tôi đến đây ngồi trước mộ anh để ngậm ngùi tiếc thương, đau đớn. Người anh thân
yêu của tôi đã ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ, mộng sông hồ chưa phỉ chí, mộng
tình còn dang dở.
Anh là một người lính
đa sầu đa cảm, anh có một chuyện tình thật buồn, anh yêu say đắm một người con
gái. Nhưng định mệnh trớ trêu, nàng đã quay lưng ngoảnh mặt để anh ôm mối hận
tình vạn thuở.
Sau khi chôn cất anh,
ngày nào tôi cũng đến đây, tôi ngồi hàng giờ, thật lâu, mãi khi bóng chiều đổ
xuống tôi mới lửng thửng ra về.
Con lộ nhỏ vắng vẻ
loáng thoáng chỉ có vài bóng người đi thăm mộ như tôi. Nghĩa trang buồn hiu hắt,
gió chiều lên nhè nhẹ gợi cảm giác sầu muộn bơ vơ. Trong nỗi cô tịch, lặng lẽ đến
não lòng của nghĩa trang, tôi cảm nhận được những hồn hoang đang vất vưởng đâu
đây, đang lang thang, đang tìm kiếm những gì thân mến đã chợt xa tầm tay. Tôi
thấy ngậm ngùi thương tiếc làm sao những người nằm xuống nơi đây, họ hầu hết là
những thanh niên trẻ, rất trẻ, những người trai của thế hệ, những người hùng,
những người con yêu của tổ quốc. Ai cũng hiểu vì sao họ nằm nơi đây, để đêm đêm
rên rỉ xót thương nuối tiếc những ngày ngắn ngủi trong cuộc đời đã đi qua, để
đêm đêm mơ về một thời oanh liệt vẫy vùng giữa đạn tên khói súng. Họ không
chùng bước trước kẻ thù, vẫn kiêu hùng bước đi trong lằn tên mũi đạn, với hào
khí ngất trời họ đã làm sống lại những trang sử oai hùng từ nghìn năm trước:
Lam Sơn ơi, hồn Chí
Linh, sông Đằng
Vạn Kiếp hay Hà Hồi… những giòng lịch sử đâu rồi?
Tôi đi về hướng con
đường chính để đón xe về nhà, bao nhiêu ngày rồi tôi vẫn thế: đến ngồi bên mộ
anh thở than, tâm sự cùng anh rồi lủi thủi ra về khi bóng chiều dần xuống.
Một ngày kia vì mãi
ngồi than thở với anh tôi mà trời đã tối lúc nào tôi không hay. Màn đêm đã bao
phủ mọi vật chung quanh, tôi hốt hoảng đứng lên bước theo con lộ nhỏ để ra
đường lớn đón xe. Trong bóng tối chập choạng tôi thấy hình như có một người
lính đi đến gần tôi, tôi cảm thấy có chút sợ sệt và vội vã bước nhanh.
Khi gần tới đường lớn
tôi quay lại chẳng thấy ai cả. Tôi lẩm bẩm:
– Cái anh chàng nào mà
bất lịch sự thế, dù không quen nhưng giữa đường như thế nầy mà bỏ đi chẳng một
lời từ giã.
Có lẽ anh đã đi về một
ngã khác không màng gì đến sự cô độc của một người con gái giữa nghĩa trang lúc
màn đêm đang dần xuống.
Nhiều buổi chiều sau
đó tôi vẫn đến thăm anh tôi rồi lại ra về. Tôi có ý nhìn quanh trên đường về
xem có thấy anh lính đó không nhưng chẳng thấy gì cả. Tự nhiên tôi cảm thấy như
mình thiếu một người bạn đồng hành trong nghĩa trang hiu hắt nầy. Tôi có cảm
giác như anh đang đứng ở đâu đó, đang nhìn tôi nhưng không xuất hiện để trêu chọc
tôi, làm cho tôi mong đợi.
Chiều nay tôi chợt thấy
buồn hơn những buổi chiều qua, hình ảnh không rõ rệt của người lính ngày ấy cứ
mãi ám ảnh tôi, không biết anh có còn trở lại đây để thăm ai đó trong nghĩa
trang nầy, hay sẽ không bao giờ trở lại? Mãi nghĩ vẩn vơ nhìn quanh thấy những
người đi viếng mộ đã ra về hết rôi, tôi giật mình sợ hãi, nhanh chân bước ra đường
để đón xe về nhà.
Thật không may tôi đã
trễ chuyến xe nên phải đứng đợi bên đường khá lâu để chờ chuyến tới. Trời chẳng
thương tình lại đổ cơn mưa, tuy không lớn lắm nhưng cũng đủ làm tôi run rẩy vì
gió lạnh.
Vì quá thương anh mình
mà hơn một tháng qua tôi đã không quan tâm đến sức khỏe yếu đuối của một người
con gái. Hôm ấy tôi về nhà muộn và lên cơn sốt mê man…
Chiều nay tôi lại đến
nghĩa trang thăm anh tôi. Tôi rất ngạc nhiên vì khi tôi vừa đến mộ đã thấy anh
lính đứng đó, anh nhìn tôi mỉm cười:
– Sao đến trễ quá vậy
cô bé?
– Sao anh biết ngôi mộ
nầy là người thân của tôi?
Anh nói:
– Tôi còn biết người
trong mộ là anh của cô nữa kia, vì anh của cô bé cũng là bạn của tôi mà.
Tôi nhìn anh ngờ vực:
– Sao tôi không nghe
anh tôi nhắc tới anh khi còn sống? Anh tên gì vậy?
Anh làm ra vẻ bí mật:
– Rồi cô bé sẽ biết
sau, cô bé tên gì?
– Tôi tên Ngọc Lan.
Anh nhìn tôi một lúc rồi
nhìn vào mộ bia của anh tôi:
– Tôi lớn tuổi hơn anh
của Ngọc Lan, vậy cho phép tôi gọi Lan bằng em nhé? Anh không có ý gì đâu, muốn
nhận Ngọc Lan làm cô em gái nhỏ thôi vì anh thấy Lan thật ngoan, thật tốt bụng.
Một người vợ khi chồng chết còn chưa chắc đã đến nghĩa trang thăm chồng mỗi chiều
chớ đừng nói chi là em gái, ước gì anh được là người anh, người bạn của Ngọc
Lan.
Sau đó cả anh cùng tôi
đốt mấy nén hương cho anh tôi. Tôi lại sụt sùi rơi lệ. Anh nhìn vào ngôi mộ và
nói:
– Cậu có một cô em tuyệt
vời đó có biết không?
Trời bắt đầu về chiều,
một màu xam xám u buồn đang dần dần đổ xuống nghĩa trang, tâm trạng của kẻ mất
người thân nào ai hiểu được, tôi nghe lòng xót xa đau buốt. Tôi thấy hình ảnh
anh tôi lờ mờ giữa màn sương đục của buổi chiều như còn lưu luyến đứa em nhỏ dại.
Tôi và anh lính cùng đứng dậy đi chầm chậm về phía con lộ chính. Ngoài xa xa có
một quán nước nhỏ, anh nhìn tôi và nói:
– Trông Lan cũng mệt mỏi
quá rồi, hãy đến quán nước kia kiếm gì uống cho khoẻ một chút rồi về cũng không
muộn, được không Lan?
Không hiểu sao tôi bỗng
gật đầu dù tôi quen anh chưa được bao lâu.
Anh rất chửng chạc trầm
ngâm, tôi liếc nhìn anh: sắc mặt anh xanh xao nhưng nét kiêu hùng hiện rõ trên
khuôn mặt phong trần dày dạn gió sương.
Khi vào quán nước anh
kêu cho tôi một ly cam vắt, anh một ly cà phê đá. Bây giờ tôi mới nhìn thấy tên
trên áo lính của anh là Chinh. Anh hỏi tôi:
– Ngọc Lan học lớp mấy
rồi?
– Dạ, Lan học lớp Đệ
Nhị.
Anh cười:
– Sắp là cô Tú rồi đó.
Ráng học đừng để bị rớt nghe cô bé. Anh của em đã yên nghỉ rồi em đừng quá đau
buồn. Những người lính như tụi anh là phải chấp nhận sống chết vì quê hương, vì
tổ quốc thôi, đó cũng là danh dự, là niềm kiêu hãnh em có biết không?
– Lan hiểu nhưng khó
tránh khỏi đau lòng anh ạ! Nó đến bất ngờ quá, Lan chưa từng chuẩn bị tâm tư để
chờ cái ngày đó xảy ra. Lan cứ mong đợi ngày anh của Lan về phép, anh em vui vẻ
bên nhau, chia xẻ tâm tình trong những ngày xa cách, vậy mà…
Tôi lại rưng rưng nước
mắt. Anh nhìn tôi lắc đầu:
– Thật tội nghiệp cho
em.
Tôi ngước nhìn anh,
phong cách và tư thái anh rất đứng đắn. Anh không có vẻ gì tán tỉnh hay lợi dụng
tình cảm của tôi cả. Anh đối xử với tôi đơn thuần như một người anh quan tâm
cho em gái.
Tôi đoán anh khoảng 25
hoặc 26 tuổi gì đó. Anh có thể lợi dụng lúc tôi đang đau buồn, đang mềm yếu nầy
đắp xây tình cảm với tôi, sao anh không làm vậy?
Anh như đoán được ý
nghĩ của tôi nên nhìn tôi hơi lâu rồi nói như lời tâm sự:
– Lan biết không, gia
đình anh có 4 anh em, đều là con trai cả. Anh lớn nhất học Quốc Gia Hành Chánh
đã ra trường mấy năm và đang làm việc cho một quận thuộc tỉnh Vĩnh Bình. Một đứa
em đang còn trong quân trường Hải Quân ở Nha Trang, đứa em út còn đi học. Riêng
anh không thích làm quan văn như anh của mình nên anh gia nhập trường Võ Bị Quốc
Gia Việt Nam, anh muốn sống hùng, sống thật đúng ý nghĩa của một trang nam tử.
Anh ra trường cũng hơn 3 năm rồi, hiện anh đang phục vụ tại Sư Đoàn 7 BB và
đang đóng quân ở Cai Lậy, Mỹ Tho.
Tôi nhìn anh bằng ánh
mắt cảm kích:
– Sao mới quen Lan mà
anh kể hết về anh và gia đình anh cho Lan nghe vậy?
– Vì anh đã nhận Lan
làm em gái rồi mà.
– Ham lắm, người ta có
chịu hứa chưa mà tự tin thế?
Anh cười buồn:
– Chắc em không nở từ
chối một kẻ cô đơn như anh đâu.
– Ai biết anh cô đơn
hay không, chỉ có trời mới tin được mấy ông lính.
Anh nhìn tôi như không
mấy hài lòng về câu nói đó:
– Em đừng chanh chua với
anh, hãy nghe anh nói. Ngày xưa khi còn đi học anh đã yêu thầm một cô bạn cùng
lớp, nhưng anh mang mặc cảm mình chưa có sự nghiệp gì nên câm lặng chẳng dám mở
lời với cô ta. Đến một ngày kia cô ta bước lên xe hoa cùng người khác anh mới
thấy bẽ bàng tiếc nuối. Từ ngày anh rời khỏi trường học, vào quân trường, rồi
ra đơn vị lăn mình vào lằn tên mũi đạn, chiến đấu ngày đêm, khi thì giữa rừng cây
rậm rạp âm u, khi thì nơi đồng ruộng sình lầy. Thú thật với em anh không có thì
giờ để có được một mối tình đẹp, một người yêu để nhớ thương. Bây giờ gặp được
em, một cô gái ngoan hiền, anh đã theo dõi em bao nhiêu ngày rồi, anh hiểu và
biết về em khá nhiều, nhất là tánh tình của em. Anh ước gì có được người bạn
gái như em để có người tâm sự, chia xẻ niềm vui nỗi buồn nhưng…mình gặp nhau muộn
màng rồi.
Tôi nhìn anh ngập ngừng:
– Anh nói vậy có nghĩa
là…anh đã có vợ rồi phải không?
– Không phải, anh đã
nói là anh không có được một mối tình nào mà, làm sao có vợ được.
– Vậy thì tại sao anh
nói là muộn màng?
Anh lắc đầu buồn bã:
– Rồi một ngày nào em
sẽ biết thôi.
Tôi không được hài
lòng:
– Anh thật khó hiểu, nếu
anh có ý muốn làm bạn với Lan đâu có gì muộn màng, trừ khi Lan không bằng lòng.
Anh đâu có già đến đổi “quá tuổi” có bạn gái.
Anh im lặng thật lâu,
mắt nhìn ra ngoài xa.
Buổi chiều thầm lặng,
mây xám hờ hững trôi buồn. Gió thổi từng cơn cuốn theo những chiếc lá chết vàng
võ bơ vơ, không gian chợt như lạnh lẽo giá băng. Nhìn về phía nghĩa trang hoang
vắng tiêu sơ lòng tôi dâng lên nỗi sầu dịu vợi, một cánh chim vừa bay ngang
buông giọng lạc loài, khắc khoải.
Thật lâu anh lên tiếng:
– Thôi em về đi kẻo mẹ
mong.
– Anh biết em chỉ có mẹ
và các em thôi. Anh biết tất cả về gia đình em mà.
Tôi ngạc nhiên:
– Anh điều tra về gia
đình em tự bao giờ?
Tôi nhìn thẳng vào mắt
anh:
– Nhưng em không biết
gì về anh cả. Nhà anh ở đâu, con cái nhà ai? Những lời anh nói có thể nào tin
được hay sao? Một người lính vào tuổi anh mà không có người yêu, không vợ,
không con…ai tin anh mới là…ngu đó.
– Ngọc Lan à, mình
không dễ gì có cơ hội gặp nhau, hãy vui vẻ tâm tình với anh một chút đi em. Mai
đây biết đâu mình không còn có dịp thấy nhau nữa!
Tôi nhìn anh ngờ vực:
– Anh thật lạ và khó
hiểu. Mình đang ở trên cùng một đất nước, nếu ta muốn gặp đâu có gì trở ngại?
Chỉ có điều được gặp nhau thường hay lâu lâu mới gặp mà thôi. Anh nói đang đóng
quân ở Mỹ Tho thì đâu có xa xôi gì.
Anh trầm ngâm như có
chút nghĩ ngợi. Thật lâu, anh thở dài:
– Ngày chủ nhật em đến
chùa Bửu Pháp sẽ gặp mẹ anh đến đó cúng chùa, mẹ anh là bà Ngọc Trâm. Em hỏi bà
thì sẽ biết về anh tất cả, đừng thắc mắc nhiều cô bé, anh mong ước rằng dù thế
nào Lan vẫn là em gái hay bạn của anh nhé. Thôi bây giờ anh kêu xe cho em về,
trời tối rồi.
Anh và tôi rời quán nước
trở ra đường chính. Một chiếc xe vừa chạy đến, anh sợ trễ chuyến xe cho tôi nên
chạy nhanh ra đường giơ tay chận đầu xe lại. Thật không may, tài xế ngừng xe
không kịp nên đâm thẳng vào người anh làm anh té văng ra bất tỉnh, máu đầu chảy
ra lênh láng.
Tôi kinh hãi kêu thất
thanh:
– Trời ơi, anh ơi, anh
có sao không? Bớ người ta mau cứu giùm anh ấy…bớ người ta!
Tiếng tôi la hét thật
lớn làm một người nắm bàn tay tôi lắc mạnh:
– Ngọc Lan. Con làm
sao vậy? Con nằm mơ à?
Tôi mở mắt ra bàng
hoàng ngơ ngác. Thì ra chỉ là một giấc mơ, tôi đã gặp anh trong cơn mơ. Đầu tôi
còn nóng sốt, mồ hôi ướt đầm trên trán. Mẹ tôi lấy khăn lau mồ hôi cho tôi, cho
tôi uống một viên thuốc với ly trà nóng và nói:
– Con đừng lên thăm mộ
anh con mỗi ngày như vậy. Sức khoẻ con không được tốt. Con có biết nỗi đau của
một người mẹ mất con sâu sắc thế nào không, nhưng mẹ phải cố gắng chịu đựng, cố
gắng dằn nén để còn lo cho các con. Nếu mẹ ngã quỵ thì ai lo cho các con đây?
Con cũng phải giữ gìn sức khỏe để tiếp mẹ lo cho các em con, ít ra cũng là về mặt
tinh thần.
– Dạ con hiểu và con
xin nghe lời mẹ.
Mẹ xoa đầu tôi, tôi thấy
mắt bà long lanh ướt.
Người tôi bắt đầu ấm lại,
tôi thấy dễ chịu hơn, mẹ đã bước ra ngoài cho tôi được yên tỉnh nghỉ ngơi.
Tôi nằm nhớ lại những
gì đã xảy ra trong cơn mơ. Không biết vì quá mệt mỏi nên tôi mê sảng hay đó là
điềm báo trước tôi sẽ được gặp anh trong tương lai? Chúng ta có duyên gì với
nhau chăng?
Nhưng anh là ai, ở
đâu? Tôi chỉ gặp anh có một lần đó vào một buổi chiều nhạt nhòa sương khói
trong nghĩa trang buồn, chưa từng nói chuyện, chưa từng thân mật, tại sao lại
vương vấn cả trong giấc mơ? Tôi thắc mắc và không thể nào xua tan hình bóng anh
trong đầu tôi, hình ảnh anh cứ mãi hiện ra trước mắt, thật trầm ấm, thật ngọt
ngào.Tôi nhớ lại anh bảo tôi ngày chủ nhật đến chùa Bửu Pháp gặp mẹ anh thì sẽ
biết về anh. Tôi tự nhủ mình phải mau hết bệnh để ngày đó đến chùa gặp mẹ anh.
Không hiểu sao tôi cứ
nghĩ ngợi, lưu luyến về anh, lòng bâng khuâng, khoắc khoải, lo lắng, hồi hộp.
Tôi chợt mỉm cười khi nghĩ đến hai câu thơ của cụ Nguyễn Du:
Người đâu gặp gỡ làm
chi.
Trăm năm biết có duyên
gì hay không?
Tôi tự trách thầm:
– Mi hư lắm đó, người
ta có hứa hẹn gì với mi đâu mà nghĩ vẩn vơ vậy? Chỉ gặp gỡ một lần rồi về đâm
ra tương tư, mộng mị.
Dù biết mình ngu dại
nhưng tôi vẫn có ý định phải gặp được gặp mặt mẹ anh.
Chùa Bửu Pháp là một
ngôi chùa lớn, rất nhiều thập phương bá tánh và Phật tử đến cúng kiến và sinh
hoạt mỗi chủ nhật. Hôm nay trời trong mây trắng nắng ấm chan hòa, tôi thấy lòng
nôn nao rộn rã, không biết vì sao? Có lẽ tôi sắp được gặp mặt mẹ anh, tôi sẽ biết
thêm về anh và…biết đâu tình cảm của mình sẽ thân thiết hơn trong tương lai.
Khi tôi đến chùa thì
đã có rất nhiều bạn trẻ trong “gia đình áo lam” tề tựu sinh hoạt nhộn nhịp. Tôi
len lỏi vào phía sau chùa thấy có nhiều bà lớn tuổi đang chuẩn bị hoa quả để
cúng Phật. Xen giữa đám người đó tôi thấy có một người đàn bà tuổi độ ngũ tuần
trầm ngâm, u buồn, đẹp quý phái. Nhìn bà tôi có cảm tình ngay nên đến gần làm
quen:
– Thưa bác, bác đến
đây cúng chùa thường không?
Bà nhìn tôi bằng đôi mắt
nhiều thiện cảm:
– Chủ nhật nào tôi
cũng đến đây.
– Bác đến thường vậy
bác có biết bác nào tên là Ngọc Trâm không?
Bà nhìn tôi dò xét:
– Cháu tìm bà Trâm mà
cháu không biết mặt bà ta sao?
– Dạ không, thật sự
cháu không quen bác ấy. Cháu muốn tìm bác ấy để hỏi chút việc mà thôi.
Bà dịu dàng:
– Bác là Trâm đây,
cháu tìm bác có việc gì?
– Ồ! Bác là bác Ngọc
Trâm?
Tôi có chút lung túng
ngại ngùng, nhưng sau cùng tôi quyết định phải nói rõ lý do tôi đến gặp bà:
– Thưa bác, trước tiên
cháu xin bác đừng nghĩ cháu lá là đứa con gái xấu tính. Cháu suy nghĩ đắn đo rất
nhiều trước khi gặp bác vì cháu quen với con bác: anh Chinh. Anh ấy muốn cháu đến
đây để gặp bác.
Bà mở to mắt nhìn tôi:
– Cháu quen với thằng
Chinh con tôi? Hồi nào?
Tôi thành thật đem câu
chuyện tôi gặp anh vào một ngày tôi đi thăm mộ anh tôi trong nghĩa trang và như
có sự “thần giao cách cảm” gì đó nên tôi và anh lại gặp nhau trong giấc mơ và
đã kết làm bạn bè…
Bà lặng nghe tôi kể,
nước mắt bà rơi rớt vì cảm động, sau khi tôi dứt câu chuyện bà nắm lấy tay tôi:
– Cháu thật tình muốn
làm bạn với con bác sao? Ôi môt người con gái đáng mến! Con bác thật có phước lớn
nếu có cô bạn gái như cháu.
Tôi nhìn vào mắt bác
không biết nên trả lời làm sao. Bác phải hiểu là tôi muốn làm bạn với anh Chinh
nên tôi mới tới đây tìm bác. Điều nầy tôi đã tự thấy xấu hổ rồi vì mình là con
gái, vậy mà bác nở bắt tôi phải trả lời. Tôi cúi mặt lặng yên. Bác nhìn tôi một
lúc rồi vuốt tóc tôi:
– Thôi được rồi, cháu
đi theo bác.
Bác kéo tôi đi vào
trong chùa nơi có mấy bàn thờ lớn với rất nhiều hình ảnh, bác chỉ vào một tấm
hình trên bàn thờ và nói:
– Thằng Chinh con của
bác ở đây.
Tôi giật mình toát mồ
hôi, ngỡ ngàng, xót xa, tê tái. Đúng là anh rồi, nét mặt nầy, nụ cười nầy tôi
đã từng gặp trong mơ, trời ơi, thì ra người gặp tôi trong cơn mơ chỉ là hồn ma
bóng quế. Thảo nào nét mặt anh xanh xao, u buồn, khó hiểu và anh bảo tôi rằng
mình gặp nhau quá muộn màng vì anh đâu còn trên dương thế nữa.
Tôi nghe lòng thương cảm
biết bao nhiêu, tội nghiệp anh biết bao nhiêu, một người lính trẻ đã chết cho
quê hương sông núi khi chưa có một mối tình trọn vẹn mang theo.
Nước mắt tôi chợt ướt
đầm trên mặt, tôi thắp cho anh một nén hương và khấn nguyện:
– Anh hãy yên nghỉ đi,
đừng lưu luyến chuyện thế nhân làm chi. Ngọc Lan vẫn mãi là đứa em, là người bạn
của anh. Anh hãy vui cùng non bồng nước nhược, hãy bay thênh thang trên nẻo
Thiên Đường, nơi đó sẽ có nhiều trăng sao hoa cỏ, có nhạc có thơ, không có chiến
tranh, không có hận thù, đó là miền vĩnh cửu.
Bác Trâm nói tiếp:
– Hôm nay bác đến đây
cúng một trăm ngày cho nó. Chinh trước kia là lính thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh, nó
đã tử thương trong một trận đánh ở chiến trường Cai Lậy gần Mỹ Tho. Không thể
nào tả hết nỗi đau đớn của bác khi người ta đưa xác nó về đây, nỗi đau của “tre
già khóc măng non” mới bi thiết làm sao cháu ơi! Bây giờ lòng bác vẫn còn như
kim châm muối xát, bác ước gì mình được chết thay con, tuổi đời nó còn quá trẻ,
mộng ước tương lai còn chờ đợi, vậy mà Chinh đã vội vã bỏ đi…
Bác Trâm đưa chiếc
khăn tay lên lau nước mắt. Một lúc sau bác hỏi tôi:
– Hôm nay sau khi cúng
xong bác sẽ lên thăm mộ nó, cháu có muốn đi không?
– Dạ, cháu sẽ đi với
bác, cháu cũng đến đó thăm anh của cháu luôn. Anh cháu mới mất gần hai tháng
nay thôi.
Bác nhìn tôi rồi nói
bâng quơ vào hư không:
– Thật tội nghiệp cho
tuổi trẻ các con.
Tôi cùng bác Trâm đến
nghĩa trang vào buổi xế chiều khi trời bắt đầu nhạt nắng. Lòng tôi lâng lâng, đầu
óc hoang mang trĩu nặng không còn biết nghĩ ngợi gì nữa. Gió thổi lồng lộng, những
cánh hoa giấy màu tím trước nghĩa trang bay tản mạn trên lối vào. Con đường nầy
tôi đã có lần gặp anh lờ mờ trong bóng chiều nhạt nhòa sương khói, hồn ma anh
đi lặng lẽ sau tôi mà tôi nào biết, tôi chỉ biết trách anh sao vô tình bỏ đi
không từ giã. Giờ đây cũng trên lối cũ tôi lại đi bên mẹ anh, tâm tư tôi chợt
nghe đau buốt. Tại sao anh lại trêu ghẹo tôi, làm quen với tôi làm gì? Anh lại
cho tôi gặp trong giấc mơ để rồi tất cả chỉ là mây khói khi sự thật đã phơi
bày. Anh đã làm tôi hụt hẫng, ngỡ ngàng và cũng xót xa biết bao nhiêu khi nghĩ
về thân phận của tôi, của anh!
Bác Trâm vẫn lặng lẽ
bên tôi. Chúng tôi hai người, một già, một trẻ đi bên nhau mỗi người theo đuổi
nỗi niềm riêng.
Hôm nay có đông người
hơn mọi ngày nhưng rất yên tĩnh. Ai cũng trầm ngâm trước mộ người thân với những
giòng lệ nghẹn ngào chua xót, không gây tiếng động, không có tiếng khóc than vật
vả.
Tôi ghé qua mộ anh tôi
trước, đốt vài cây nhang cho anh, niềm đau vẫn đong đầy chưa suy giảm, vẫn còn
nghẹn cứng trong lồng ngực tôi. Bác Trâm nhìn vào mộ bia của anh tôi rồi nói thật
nhỏ như chỉ để một mình tôi nghe thôi:
– Mới 25 tuổi, cố Đại
Úy… giống như thằng Chinh con bác, thật tội nghiệp!
Sau đó bác dẫn tôi đi
ra dãy mộ phía sau, cách mộ anh tôi mấy hàng, thảo nào Chinh bảo anh là bạn của
anh tôi, đúng là bạn láng giềng.
Nhìn bức ảnh của anh
tôi nghe buồn vời vợi, đắng cay dâng ngập trong lòng. Trong giấc mơ hôm nào anh
rất quan tâm đến tôi, rất thân thiết với tôi mà giờ đây trước mắt tôi anh chỉ
là một nấm mồ vô tri vô giác với hàng chữ lạnh lẽo trên bia:
Cố Đại Úy Thái Ngọc
Chinh
Sinh ngày…
Tử trận ngày…..
Tôi ngồi bệt xuống đất,
lòng không kềm được xúc động nghẹn ngào, nước mắt nhạt nhòa.
Gió vi vu thoảng qua
buồn rưng rức như âm vang lời anh:
– Đừng khóc em, ráng
ngoan nghe cô bé.
Thật bi ai chua xót
làm sao! Dù chỉ quen anh qua giấc mơ kỳ diệu nhưng tôi có cảm giác đã quen anh
thật lâu rồi, sự việc xảy ra quá bất ngờ ngoài sự tưởng tượng của tôi. Tôi
không muốn tin là sự thật, nhưng đó rõ ràng là sự thật không thể nào phủ nhận,
anh đã thuộc về cõi hư vô!
Ôi thương tiếc làm
sao, đáng kính phục làm sao những anh hùng không tên tuổi. Anh cũng như anh của
tôi đã âm thầm nằm xuống cho quê hương, các anh đã đem máu xương báo đền non
sông tổ quốc, các anh nằm xuống cho bao người được sống, có mấy ai biết được sự
hy sinh của các anh? Tôi nghe mặn đắng bờ môi, tim nhói đau nghèn nghẹn. Tôi chợt
nhớ đến một bài hát thật buồn, thật xót xa của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
Anh nằm xuống cho hận
thù vào lãng quên, tiễn đưa anh trong một ngày buồn, đất ôm anh đưa về cội nguồn.
Rồi từ đó trong trời rộng
đã vắng anh, như cánh chim bỏ rừng, như trái tim bỏ tình.
Nơi đây một lần nhìn
anh đến, những xót xa đành nói cùng hư vô.
Anh nằm xuống như một
lần vào viễn du, đứa con xưa đã tìm về nhà…
Xin cho một người vừa
nằm xuống thấy bóng Thiên Đường cuối trời thênh thang…
Bác Trâm đứng sau lưng
tôi, bác đặt tay lên vai tôi nhỏ nhẹ nói:
– Thôi mình về cháu,
không nên ở đây lâu. Bây giờ cháu hiểu vì sao bác ít đến đây chứ? Bác không đủ
can đảm đứng nhìn mộ nó, bác không đủ can đảm đối diện với thương đau.
Tôi theo bác đứng lên.
Tôi ngước nhìn lên bầu trời cao thăm thẳm:
– Ông Trời ơi, ông có
hiểu được nỗi đau thương, đoạn trường của người dưới trần gian không? Sao chiến
tranh cứ mãi dai dẳng trên đất nước tôi để bao lớp trai trẻ phải hy sinh tuổi
đôi mươi, phải tan tác cuộc đời trong binh đao khói lửa? Và còn có biết bao mối
tình tan tác bẽ bàng vì cuộc chiến nầy?
Tôi chưa phải là người
tình của anh mà còn ngậm ngùi như thế thì những người yêu, người vợ của các chiến
sĩ nằm đây còn đau đớn đến thế nào!
Tôi theo bác Trâm ra về.
Gió lướt thướt đuổi theo, tôi có cảm tưởng như linh hồn anh đang bay theo tôi,
không muốn rời tôi. Hoa lá tung bay lả tả trên lối về và nước mắt tôi chợt rơi
rớt theo từng bước chân buồn rời rã. Bên tôi bác Trâm cũng đang đưa chiếc khăn
tay lên lau những dòng nước mắt.
Sau lưng chúng tôi
nghĩa trang vẫn hoang sơ lặng lẽ muôn đời.
Vi Vân