Pages

Sunday, May 19, 2024

Chiếc Cầu Thời Thơ Ấu - Bút Ký Quan Dương


Mỗi khi lái xe qua chiếc cầu Causeway dài 40 cây số bắc qua hồ Pontchartrain của tiểu bang Louisiana nơi tôi đang sinh sống thì tôi đều nhớ đến chiếc cầu Dinh ngẳn củn dài chưa đầy 100 mét bắc qua thị trấn Ninh Hòa là nơi tôi được sinh ra đời . Chiếc cầu Causeway được xây vô cùng hiện đại và kiên cố nối liền hai thành phố Metarie và Mendevill, Chiếc cầu Dinh xây bằng xi măng bắt qua sông nối liền xóm chợ và Vĩnh Phú.

Cầu Dinh trấn thủ giữa phố Ninh Hòa như một cái rốn trên vuông bụng của một thiếu nữ xuân thì và chính vì vị trí toạ lạc biệt đó mà nó trở thành hình tượng quê hương. Nhờ có nó nằm gác mình từ phía bên này phố chợ nên tôi mới có thể bước qua bên kia Vĩnh Phú để những lá thư tình có cớ tuôn về Phước Đa rồi quẹo lên Cầu Sắt, Quang Đông. Nó cũng là cái cớ cho tất cả những nhà văn thơ Ninh Hòa đem vào sáng tác.

 

Vào mùa hè lòng sông cạn rong xanh đọng lại thành những mãng rêu màu xanh đậm trôi lềnh bềnh, mùi nước nồng mùi cá biển. Cái mùi kỳ cục thật trừu tượng ngửi được mà không tả được . Những ngày đầu tiên đến Mỹ suốt ngày ru rú trong nhà với máy lạnh có lần vừa mở cửa bước ra, không khí ập đến đã cho tôi cái cảm giác rất đột ngột. Tôi ngửi được cái mùi đó và bất giác kêu lên "mùi cầu Dinh". Sau này cái mùi cầu Dinh đại trà phổ quát hơn, tôi ngửi được khắp mọi nơi, trong những cơn mưa bất chợt làm con đường khuya thêm u ám khi lái xe một mình âm thầm đến hãng vào giờ ca ba , trong những giấc mơ nhất là vào những ngày giáp tết. Nói cho cùng chiếc cầu ngắn củn bé nhỏ ở tận nơi cùng trời cuối đất toạ lạc ở một địa thế gần như vô danh tên gọi là Ninh Hòa giống y như cái ngăn đông đá trong tủ lạnh mỗi khi bất chợt tay chạm phải , hơi lạnh chuyền đột ngột qua các sợi tế bào trên từng ngón tay rồi chuyển lẹ làng vào tim vào óc. Mỗi lần chạm phải như thế tôi phát giác ra một điều chân lý, đó là chiếc cầu với rong rêu trôi lềnh bềnh vào những mùa nước cạn không có chút gì thơ mộng kia chính là cái tủ lạnh kiên cố đặt sâu trong tiềm ức. Nó gắn liền với cuộc sống , những khi vui vẻ yên lành thì tôi quên bén nó đi, mỗi khi trái gió trở trời thì hơi lạnh quê nhà tỏa ra làm da dẽ nổi đầy gai góc.


Tôi lừng khừng lớn lên trong cái xóm nhỏ khoảng hai, ba chục gia đình trú ngụ tên gọi là "Đường luồng cây Thị" . Xóm nằm trong hẽm rộng vừa lọt một chiếc xe đạp. Những gia đình chen lấn san sát nhau không ngày nào là không xảy ra chuyện để nói, và vì có quá nhiều chuyện để nói nên thét rồi được mọi người xem như chẳng có nói chuyện gì. Người lớn ban ngày kiếm một cái gì đó bưng ra chợ để buôn bán, chiều về mạnh nhà ai nấy ở, thỉnh thoảng chửi mắng nhau vì chuyện không đâu xem như là một cách để thay đổi không khí . Lách ra khỏi hẻm là con đường Võ Tánh rộng hơn, nhưng cũng đủ vừa hai chiếc xe đạp tránh né. Giáp góc đường cạnh nhà bác Hai Thiện có một trụ điện với bóng đèn 80 watt trên cao tỏa xuống vàng vọt . Đám con trai ban đêm thường tụ tập để chia phe bắn lộn với " đám Tàu " xóm chợ. Tụi tôi bẻ gấp đôi cọng phượng lại rồi dùng dây thun bắn nhau, đứa nào cũng muốn trở thành anh hùng. Đọc sử ký thấy Tàu đô hộ Việt Nam cả ngàn năm đó là kẻ thù . Xóm chợ là nơi ở của người Tàu cho nên thù thì phải trả . Nghe nói đứa nào trả được thù thì mới là anh hùng . Trở thành anh hùng rồi thì diện mạo tự nhiên sẽ trở thành khôi ngô tuấn tú và không cần phải lo chuyện ăn uống , thậm chí không phải cả chuyện đi cầu mà vẫn oai phong . Thuở đó xóm tôi nghèo nên không nhà nào là có cầu tiêu . Mỗi lúc đau bụng cả đám kéo nhau chạy một lèo đến những lùm bụi cạnh Lăng Bà Vú cách đó chừng 500 mét . Thét rồi Lăng Bà trở thành căn cứ cho đám con nít chúng tôi tập họp để bàn luận chuyện đánh Tàu.


Lăng Bà Vú được vua Gia Long sau khi đoạt ngôi từ Tây Sơn ra lệnh xây lên để ghi ơn người đàn bà đã chứa chấp khi người còn là bại tướng bị truy đuổi . Nội tôi khi còn sống thường kể về nhiều huyền thoại linh thiêng của Lăng Bà . Nhưng trong trí óc non nớt của tôi đó chỉ là một cái gò có bờ thành xây bằng vôi bao bọc chung quanh , cỏ và cây cối không người cai quản mọc chen chúc nhau um tùm . Hai con kỳ lân xây bằng vôi ngồi chồm hổm trên bờ thành theo truyền thuyết vào những đêm rằm biến thành kỳ lân thực xuống tắm quậy nước ầm ầm trong ao sen . Đám nhóc chúng tôi nghịch ngợm trèo đầu cỡi cổ mà hai con kỳ lân chẳng dám có phản ứng gì. Trong các huyền thoại tôi teo nhất về chuyện một cặp rắn thần sống từ mấy trăm năm nay , một con có mồng màu xanh. một con có mồng màu đỏ tía nằm giữ mộ . Bợm bãi cách mấy đứa nào cũng ngán rắn cắn cho nên mỗi khi bất chợt đau bụng thì rũ nhau cả bầy đi cầu tập thể cho vui . Trẻ con vô tư lự, ngồi xếp hàng nhìn chim nhau cười khúc khích. Sau này lớn thêm một chút, đến tuổi biết mắc cở không còn cái thú đi cầu tập thể nữa nhưng máu muốn trở thành anh hùng thì không hề nguội lạnh . Bới vì thế giới có nhiều kẻ xấu nên làm anh hùng mới có ý nghĩa . Anh hùng chưa kịp thấy đâu chỉ biết nhiều đêm mò ra xóm chợ bị tụi tàu phục kích đánh cho tơi tả, ôm đầu chạy không kịp thở. Chỉ tội nghiệp những cây phượng ở sân trường tiểu học Ninh Hoà bên Vĩnh Phú bị chúng tôi leo lên bẻ cọng làm vũ khí không kịp mọc lá non.


Năm đó tôi lên lớp đệ tứ . Đám con trai tự cho là mình đã trưởng thành, đứa nào cũng bước vào đời với điếu thuốc ngất ngưỡng trên môi . Năm này thì xóm tôi xảy ra một biến cố vô cùng trọng đại, đó là sự xuất hiện của Phan với gia đình từ Tu Bông dọn vào ở . Phan có mái tóc quăn cắt ngắn úp vào khuôn mặt thanh tú với nút ruồi bên gò má bên phải trông thật bắt mắt . Nhất là thân hình đang chớm nẫy nỡ ở tuổi dậy thì với hai cái vú tròm ủm chưa biết mặc xú chiêng . Phan dọn đến không tuyên bố chiến tranh cũng không kêu gọi hòa bình nhưng phe ta tự nhiên hoàn toàn tan rã. Đứa nào cũng bận rộn theo Phan để thành thi sĩ nên không còn nghĩ đến chuyện đánh nhau. Con đường vào tình yêu là con đường ăn không no, mặc không ấm, nhưng không hiểu sao đứa nào cũng thích. Dù chiến tranh bạo lực không còn nhưng đứa nào cũng âm thầm tiến hành cuộc chiến tranh lạnh với phe mình để mong lọt vào đôi mắt của Phan.

Cuối cùng trong cuộc tuyển chọn không hiểu sao tôi được Phan chấm trúng . Tôi vốn học không giỏi lại không siêng, yêu Phan tôi lại càng thêm phần lười biếng. Ba má tôi suốt ngày ngoài chợ đâu có rỗi rãnh mà kềm kẹp đám con. Tôi như được tháo cũi xổ lồng. Những mãng rêu xanh dưới dòng sông Dinh bình thường trông dơ dáy như thế, nhưng có tình yêu vào rồi ban đêm nhìn xuống dưới ánh trăng trông lấp lánh như màu ngọc bích . Tôi và Phan trốn cha, trốn mẹ, trốn cả bạn bè hẹn nhau mỗi đêm ở sân đánh tenis Trường Tàu, ngồi ngay dưới gốc cây phượng mà mới hôm nào suốt ngày tôi giống như con khỉ đu trên đó . Cái sân tráng xi măng vô cùng sạch sẽ lý tưởng, bốn phía đều có thành bao bọc kín đáo, ở đây mặc sức tôi và Phan thề non hẹn biển.


Mãi đến sau này trong những ngày lầm than của đất nước, ở tù về cứ mỗi lần đứng xếp hàng ở bến xe Ninh Hoà đợi mua được cái vé đi Nha Trang phản ứng của tâm ức vẫn còn xui khiến hai con mắt tôi bâng khuâng nhìn về hướng đó, nơi của tôi và Phan với mối tình đầu . Sân tenis thành bao quanh bốn phía chỉ thấy được những cành khẳng khiu chĩa ngang chĩa dọc của cây phượng già in dưới màu trời đen thẩm . Thỉnh thoảng đôi khi hai đứa tôi đổi chổ, đạp xe đèo nhau chun rào vô sân trường Trần Bình Trọng, ngồi ở những mé thềm trước những lớp học nào khuất ánh sáng . Phan thua tôi hai lớp, học cùng trường nên tất cả ngóc ngách chung quanh hai đứa tôi rành như đường chỉ tay trong lòng bàn tay. Chúng tôi mê mẫn dọ dẫm bằng một tình yêu ở ngưỡng cửa dậy thì không so tính xem như bổn phận của hai đứa khi trời xui đất khiến gặp nhau là phải yêu nhau vậy. Có thể nói tôi hãy còn quá nhỏ để có thể hội đủ trình độ lắng nghe để còn phân tách cái cảm giác lãng mạn mà tôi vẫn thường gặp trong tự lực văn đoàn . Chỉ biết khi kề cận bên nhau , được hôn phớt lên gò má trắng ngần ẩn hiện nhiều sợi lông tơ của Phan là trong lòng tôi vô cùng rộn rã .Tôi chưa bao giờ nghĩ đến lúc bị Phan bỏ hoặc là tôi phụ bỏ Phan . Như là Phan vĩnh viễn thuộc về tôi . Trời có sập xuống, biển có thể trồi lên nhưng Phan không thể là của người khác. Dưới nhiều cặp mắt của người lớn tôi đúng là thằng con nít ranh, là con chim chưa dập bụng cứt , không lo học hành bày đặt mọc lông làm người lớn . Dưới những cặp mắt bạn bè đồng trang lứa thì tôi là thằng ngáp phải ruồi, Phan đui nên mới chấm trúng tôi. Tôi không thích ai xem tôi còn con nít, nhưng lại không dám tự cho mình đã là người lớn . Tôi lươn ươn ở trạng thái dùng dằng làm con nít không xong mà làm người lớn không được. Hình như ngay cả chính má tôi cũng không khẳng định được lằn ranh đó , bởi vì mỗi khi sai tôi làm hư một chuyện gì thì thế nào cũng bị mắng " lớn đầu rồi mà cái chuyện bé tí tẹo đó làm không được " Còn hễ mỗi khi bắt gặp tôi lén la lén lút chải tóc sắp sửa trốn đi mèo thì câu mắng quẹo liền một góc 180 độ " còn con nít con nôi không lo học hành chỉ lo trai gái đàn đúm .. "


Tôi và Phan yêu nhau ở lứa tuổi học trò chỉ là yêu để gọi là yêu . Giản dị vậy thôi . Yêu nhau giống như hai con ngựa bị bịt mắt đi giữa đám rừng thì thế nào cũng có ngày đầu tột vô góc cây . Chuyện lao vào nhau không cần tính toán tương lai đó đến một hôm thì bị ông già của Phan phát giác . Một trong những lá thư tình Phan giắt cạp quần bị sơ ý rớt xuống đất, ông già lượm được thế là ông nổi trận lôi đình, tên tôi được liệt kê đầu sổ phong thần. Tôi teo quá trốn biệt, đi học không dám hiên ngang đạp xe cái vù ngang qua trước cửa nhà Phan như trước nữa mà phải vòng qua đường luồn nước mía của chú sáu Dẹo . Cái kiểu vưa cầm cự mê gái vừa cầm cự với bài vở ở trường không cần diễn tả ai cũng biết sức học của tôi tệ lậu đến chừng nào vậy mà không bị đội sổ hoặc ở lại lớp, đúng là phước đức ông bà ba đời để lại


Năm tôi leo lên lớp đệ nhị vì sợ rớt tú tài bị nắm đầu đi trung sỉ, tôi hối hả lao vào ôn bài vở. Thư từ qua lại của hai đứa tôi vì thế mà thưa hơn trước vả lại cộng thêm sự kiểm soát chặt chẻ của ba Phan đám bạn bè chim xanh không đứa nào dám hó hé. Cuối năm đó hú hồn tôi thi đậu tú tài chưa kịp leo lên võng về làng báo tin mừng thì Phan sau mấy tháng xa mặt cách lòng hát bản tình xa .Tôi chưa kịp vui thì cõi lòng đã nặng trĩu nỗi buồn. Mỗi một người, mỗi một ngày đều đứng trước nhiều sự lựa chọn khác nhau . Nếu không biết bỏ đi những thứ yếu để nhanh tay lẹ chân chụp giựt riêng mình những thứ cần thiết thì sẽ vĩnh viễn thất bại . May mắn không đến với đời người hai lần nhất là may mắn của tình yêu, mà tình yêu thì khó mà chơi màn chụp giựt cho nên tôi đành thất bại. Tôi đã thất bại vì hồn quá còn non nớt không dự trù sẽ ra sao nếu có một ngày bỗng nhiên Phan biến mất khỏi đời mình . Tôi đi tìm Phan để hỏi xem như để giải tỏa một ấm ức, nhưng Phan trốn biệt. Đến nước này thì đã rõ ràng, tôi là thằng bị bồ đá.


Khi những thứ còn trong tầm tay thì mình không biết quí, đến khi nó mất đi thì mới thấy cần thiết, cái chân lý cũ mèm bất cứ ai học i tờ trong bài vỡ lòng của tình yêu cũng đều biết được vậy mà tôi lại vấp té thiệt đúng là vô duyên. Trong nỗi buồn sâu thẳm tôi ngửi được mùi tóc mùi hương con gái phảng phất đâu đây. Tôi ôm khoảng không khí trống rỗng trước mặt vẫn có cảm giác đang ôm Phan với hơi ấm da thịt ngọt ngào còn sót lại. Tôi vừa kịp trưởng thành để có thể chính chắn nói chuyện tương lai thì tôi không còn gì nữa hết .Tôi đau khổ tựa chừng bị ai đâm cho nhiều nhát dao . Đường đời có trăm vạn hướng đi, tôi không biết phải đi theo đường nào, cuối cùng tôi chọn con đường vào lính . Chỉ có vào lính ký thác đời mình cho sương gió thì mới có thể rời xa Ninh Hoà với mối tình học trò không còn muốn nhớ . Không có sự đau buồn khi phải chia tay thì làm sao hiểu được niềm vui khi sum họp , nhưng tôi thì không còn hy vọng có một ngày được gặp lại Phan . Tôi ra đi bỏ lại Ninh Hoà với bờ sông Dinh đỏ thấm giọt máu đầu đời với lòng ấm ức là Phan chia tay không một lời giải thích, thậm chí không nói một câu giã từ.


Thế rồi biến cố tháng 4/75 ập đến . Tôi bị phe thắng trận bắt đi ở tù . Năm 1985 sau khi được thả ra vì đói quá tôi đi buôn lậu cà phê từ Ninh Hoà vào Sài Gòn . Mỗi chuyến đi buôn chừng 5 ký cà phê nếu trót lọt tiền lời chỉ vừa đủ mua vài ký gạo nhưng bầm dập trầy trụa bao phen . Trời xui đất khiến sao đó tôi gặp lại Phan trên đường Phan Thanh Giản . Phan cũng xơ xác te tua vì chạy chợ trời kiếm tiền nuôi chồng đang bị ở tù ngoài Bắc chưa về . Chồng của Phan cấp bậc thiếu tá xuất thân từ Thủ Đức khoá đàn anh của tôi . Hai chúng tôi nhìn nhau ngậm ngùi . Mọi oán trách của thuở đầu đời không còn nữa thay vào đó là một thứ tình cảm khoan dung phủ trùm lên thứ tình yêu trai gái . Chồng của Phan và tôi là những kê thất thế bị thời cuộc đẩy vào cùng khốn . Chúng tôi là những quân nhân cùng màu cờ sắc áo là chiến hữu với nhau . Tôi và Phan ngồi bên nhau như hai người bạn tri âm tri kỷ kể về một con sông chảy qua thị trấn nơi chúng tôi lớn lên . Đồng thời cũng gặp đám bạn Tàu ngày xưa cũng thua trận vừa mới ra tù . Tụi tôi kể cho Phan nghe lúc phe ta đang đánh nhau chí choé ngon lành bỗng có Phan xuất hiện nên chiến tranh chấm dứt ngang xương . Phan rơi nước mắt khi nghe chúng tôi nhắc chuyện cũ . Chúng tôi cũng cười khi mấy thằng gốc Tàu nhắc đến Tàu thì tụi nó còn ghét Tàu hơn cả tôi . Thấy thương tất cả chúng tôi những người chiến bại của một đất nước khốn khổ . Chúng tôi là những chứng nhân của lịch sử từ chết tới bị thương


Giờ đây tôi không còn bơi trên dòng sông Dinh của thị trấn Ninh Hoà bé nhỏ hiền hoà nữa mà bơi qua biển Thái Bình Dương . Tôi đã trở thành người biệt xứ . Những giây phút an bình hạnh phúc hay những lúc gian nan khốn nhục thì cây cầu hiền lành kia vẫn lừng lững xuất hiện trong giấc mơ . Bên này cầu là bờ dĩ vãng bên kia cầu là bến tương lai . Trong chiêm bao tôi thấy mình đang khập khễnh bước lên . Ngày xưa lúc còn đi học thầy dạy té ngã từ chổ nào thì nên đứng dậy từ chổ đó, nhưng từ nơi tôi đứng dậy hành trang đầy nặng trĩu hình bóng của quê nhà . Tôi còn đang mệt mỏi khom mình thì một cái vèo như chớp mắt, người lính năm nào nay đã là một gã thất thập cổ lai hy

Mảnh đất hồn em, tôi cất chòi ở lậu

Bị bắt quả tang nên tống cổ ra ngoài


Quan Dương

* Hình Cầu Causeway dài 40 cây số là chiếc cầu bắc qua biển dài nhất thế giới hiện nay.

Mai Con Lớn - Khuyết Danh


Mai con lớn khắp nơi toàn người Hán
Tiếng Việt mình, nói nhỏ nhé con ơi
Dù mình sống trên quê hương, đất Tổ
Nhưng ai đông hơn sẽ thành chủ, con à!

Mai con lớn lấy chồng sao tránh khỏi
Bọn Hán kia tìm mọi cách “gieo nòi”
Còn trai Việt thoát sao đời nô lệ?
Chẳng biết lúc nào mất nội tạng, con ơi!

Mai con lớn, chữ mình con quên hết
Khắp nơi nơi toàn kiểu chữ tượng hình
Sử sách Việt sẽ ngày càng mai một
Ai nhớ từng có Âu Lạc với Văn Lang?


Mai con lớn đến nơi nào cũng cúi
Xứ mình nhưng chẳng dám ngẩng cao đầu
Vào quán xá nhớ nép mình trong góc kẹt
Đừng tranh ăn với lũ đói bên Tàu!

Mai con lớn những nơi nào đẹp nhất
Hạ Long, Ninh Bình, Đà Lạt, Phong Nha…
… và nhiều chỗ con đừng héo lánh
Người Việt ta không tới đó nữa con à!

Mai con lớn những kinh đô, thành quách
Những tượng thờ tiên tổ, các Hùng Vương
Những ngôi miếu tôn vinh Bà Trưng, Bà Triệu
Sẽ bị đập tan, lăn lóc giữa hoang tàn


Mai con lớn, đồ ăn toàn bẩn, độc
Của ngon đều bị tước hết con ơi
Mai con lớn biển, sông, hồ nhiễm độc
Nước thải phương xa không ngớt đổ về

Mai con lớn xin con đừng òa khóc 
Hận tiền nhân sao nỡ để cháu con mình
Sống trong lòng giặc thở không dám thở
Vì thời của mẹ cha, ai cũng chỉ muốn “được yên bình”!

Mai con lớn xin con đừng hờn trách
Tổ tiên hèn với giặc, ác với cháu con
Con hãy hiểu ngày hôm nay ai cũng nói
“Ta không đòi được đất thì để con cháu ta đòi”

Mai con lớn xin con đừng phẫn hận
“Ngày xưa giặc chưa vào sao câm nín, im ru?
Nay giặc ở khắp mọi miền bờ cõi
Bắt cháu con đòi, nghe có lọt tai không?

Mai con lớn, thôi mẹ không nghĩ nữa…
Chỉ mong bình minh đến thật mau…
Và tất cả chỉ là cơn ác mộng
Xin Thiên cơ ban tặng một phép màu…


Khuyết Danh 

Thầy Và Trò - Trần Gia Tôn

Minh hoa: Lê Thiết Cương


Thầy vừa chủ nhiệm vừa dạy chúng tôi suốt 3 năm trung học. Trước năm 1975, thầy học cao học tại Đại học Khoa học Sài Gòn trước khi dừng chân ở thị xã bình lặng này.

Vào đầu năm học lớp 10, bọn tôi, không nhỏ mà chưa lớn, vẫn duy trì các thói quen nghịch phá một cách ồn ào, vô tâm. Những màn múa dẻo tập thể khi thầy cô quay lưng đi lên bảng, những pha leo tọt lên laphông - vốn đã lủng lỗ chỗ, rồi thò chân xuống... vẫn chưa thỏa trí óc phá phách của chúng tôi. Có bạn còn lấy đồng hồ bí mật rọi bóng nắng lên tay khi thầy viết bảng để ánh sáng khiêu vũ cùng Volta, Ampere và cùng... chiều thứ tư thời gian. Có lần bọn tôi còn đốt lá khô, đốt nhựa và thổi khói vào lớp. Để làm gì nhỉ? Thật là quá quắt!...

Một hôm, tôi gục mặt xuống bàn đọc ngấu nghiến, trên bàn là vài ba cuốn Tiếu ngạo giang hồ. Thầy nhẹ nhàng xuống gần và hỏi: 

- Em đọc gì đó?

Tôi cầm lấy cuốn sách dưới gầm bàn đưa cho thầy. Đó chính là cuốn sách giáo khoa mà thầy đang giảng. Lần này thầy không véo, không bợp tai mà chỉ buồn buồn nói: 

- Em làm vậy được à?

Và lặng lẽ lên bảng giảng bài tiếp.

Những năm tháng vô tư đó rồi cũng phải chứng kiến cuộc sống ngày càng khó khăn. Thầy trò chúng tôi hầu như ai cũng phải tìm phương kế sống. Có thầy cô kiếm ruộng làm nông, có thầy đi hớt tóc dạo, đi làm thêm ở các nhà máy nước đá, nhà máy xay xát...Bạn bè tôi cắp tráp bán thuốc, bán xăng trộm ngoài khu vực công viên Bạch Đằng cũng có hàng chục. Dạo ấy việc chạy hàng lậu đi Cần Thơ, Bạc Liêu rất có ăn, chỉ đơn giản là mang hàng từ nơi sẵn đến nơi thiếu và bán lại.

Tôi cũng gia nhập nhóm tiểu thương đi bỏ hàng các nơi. Có những hôm 3-4g sáng tôi khởi hành từ bến xe Gồi hay bến xe Hồ Nước Ngọt, nhập vai Rhet Buttler vượt phong tỏa các trạm này. Tôi ôm một cặp sách thật to bên trong chứa khi thì vải, khi thì sữa rồi vờ phô ra cái áo học sinh cùng phù hiệu lúc Hoàng Diệu, lúc Trung học Phú Tâm. Khi qua khỏi trạm thuế khoảng 2-3 cây số, tôi chuyển hàng này cho chị tôi cùng đi trên xe, rồi xuống xe đi bộ ngược về thị xã, trong bộ áo của một người đi thăm ruộng, lúc này có khi chỉ mới 5g sáng.

Có một lần khi đã xong việc, tôi xuống xe tại cây cổ thụ Sóc Vồ vào khoảng 5g và đi về thị xã thì chợt thấy một bóng người quen quen đang đi phía trước. Nhanh chân bước vội, tôi mau chóng nhận ra đó chính là thầy. 

- Em đi đâu giờ này?

- Dạ, em đi đánh hàng, còn...?

Thầy tôi chỉ ngón tay ra sau đầy ngụ ý: 

- Thầy làm hàng quần áo.

Thầy trò cùng lặng lẽ rảo bước về hướng thị xã.

Kể từ ngày đó, giữa tôi với thầy có một mối giao cảm đặc biệt mà các bạn cùng lớp không thể nhận ra. Tôi trầm lặng và chú tâm vào bài vở nhiều hơn.

Những tháng cuối cùng của năm lớp 12, vào một buổi sáng như thường lệ, xe bị chặn lại khi tôi đang trên đường đi lấy hàng. Và lần này thầy bị phát hiện. Tôi lẫn trong đám hành khách cùng bước xuống và tìm cách nhìn thầy để động viên.

- Hàng tôm này của ai? Của bà hả? Tịch thu.

- Bao gạo này của ông hả? Đóng thuế 50%. Không có tiền thì cút, nhé!

Căng thẳng gia tăng. Tiếng năn nỉ ỉ ôi vang lên. Đó đây có tiếng thút thít và có cả tiếng chửi đổng...

- Bao hàng này của ai?

Tôi thấy thầy bước tới và khẽ gật đầu: 

- Của tôi. Anh cho tôi đóng thuế.

Tay thuế vụ định thần một lúc, sững người rồi lên giọng: - Thầy giáo mà đi buôn lậu quần xà lỏn à? Tịch thu cho tởn mà ở nhà nhé! Biến! Thầy bà trung học... gì mà....

Lúc đó tôi đã đứng sát bên thầy, đã cảm thấy hơi thở gấp của thầy! Tôi rút cây cọc rào bằng gỗ đước lên khỏi đất mà cảm thấy nhẹ tênh, sức nóng bừng bừng từ hai mang tai phả xuống đôi tay, sẵn sàng ra sao thì ra. Đột nhiên một bàn tay cứng rắn nắm lấy cổ tay cầm cọc của tôi và ấn xuống. Tôi quay lại thì thấy thầy nhìn mình thật nghiêm: 

- Bỏ đi em, mình về....

Lồng ngực quá nhỏ bé không chứa nổi uất nghẹn.... Thầy quay đi, tránh nhìn tôi đã chực trào nước mắt.

Chén cơm thuở giao thời chát vị đắng thay bậc đổi ngôi và thức tỉnh những thiếu niên vẫn luẩn quẩn với trường lớp, với nô đùa bông lơn... Với sự bình tĩnh và quyết đoán để cứu lấy đứa học trò toan lấy sự vô lý chống lại sự vô lý, thầy đã bước qua được sự miệt thị của cuộc mưu sinh, cũng nhẹ nhàng như bước qua những trò đùa tinh quái của đám học trò quậy phá.

Thoáng chốc mà đã 30 năm trôi qua. Thầy đã nghỉ hưu và vẫn im lặng mỉm cười mỗi dịp lễ, tết về, vẫn như không nhớ nhiều về thời gian lạ lùng và những tên “nghịch đồ” ngày trước. Tôi thấy thầy vẫn khắc khổ, từ tâm như một hiền triết cùng nụ cười an nhiên và bình tâm, như thể chưa hề đi qua những nẻo đường định mệnh gian khổ.

Tôi mong làm sao được một lần quay lại lớp học, trần lủng, tường xiêu và khét lẹt mùi vỏ xe cao su năm cũ để nghe thầy nói về thế giới, về không gian, về thời gian như không cùng tận. Và để cho ánh sáng lại nhảy múa lung linh trên từng dòng phấn trắng bảng đen, trên bàn tay thầy bao dung mà vô cùng mạnh mẽ, đầy ắp yêu thương cuộc đời...


Trn Gia Tôn

Thầy và trò - Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

Saturday, May 18, 2024

Nhớ Ngoại Tôi (Viết Về Cuối Tháng 4) - Đăng Tâm

 

Khi đã làm mẹ của một người lính thì tôi càng thương Bà Ngoại tôi nhiều hơn nữa ! Và tôi rất may mắn hơn bà của tôi.

Thuở nhỏ tôi ở với Bà Ngoại, vì ba tôi trong QLVNCH, còn mẹ tôi làm trong bệnh viện cũng thường hay đi công tác xa.

Ngoại tôi rất thương tôi và trong mười mấy đứa cháu ngoại/nội sau này, tôi vẫn là đứa được Ngoại thương nhiều nhất!

Dạo ấy tôi độ chừng vài tuổi đầu, tôi thường hay đứng hoặc ngồi tựa vào cây cột xi măng trước mái hiên nhà vào buổi chiều để nhìn ra ngõ, tay mân mê cái chéo khăn. Khăn của Ngoại tôi lấy choàng lên vai rồi đứng trông ngóng ba mẹ tôi đi công tác ngoài kia chưa về.

Tôi rất mê ngửi mùi khăn của Ngoại vấn đầu, khăn Ngoại thoảng mùi dầu xức tóc rất thơm “nhưng chắc chắn là không phải mùi dầu dừa.” Cái lọ nhỏ nhỏ mà tôi đã được nhìn thấy mỗi khi Ngoại chải tóc hay xức lên tóc một ít cho mượt mà dễ chải.

Thời gian cứ trôi... tôi lớn thêm đôi chút.

Tôi vẫn có thói quen đứng dựa cột chờ ba mẹ, chờ lúc lâu chưa thấy về thì vào nhà rồi lại ra đứng chờ tiếp tục, những khoảnh khắc đó tôi hay thấy Ngoại tôi ngồi bên khung cửa sổ đăm chiêu ngó ra cửa ngõ rồi lại xoay qua dán mắt lên bức tranh gỗ được điêu khắc bằng tay treo trên vách. Trong tranh có một bà lão gầy gò với ánh mắt u buồn nhìn theo dáng một người lính QLVNCH, đầu đội nón sắt lưới, vai mang ba lô và cây súng đang quay lưng lại bà lão, bức tranh còn có thêm dòng chữ: NÓ ĐÃ ĐI RỒI! 

Tôi tò mò hỏi ngoại: 

- Ngoại ơi, hình trong đó là ai mà Ngoại nhìn hoài vậy?

Ngoại nhìn tôi và trả lời: 

- Bức tranh của thằng Chung, Cậu 5 của con, nó tự làm tặng cho Ngoại lần trước nó đi hành quân về đó. 

Sau câu trả lời ấy thì tôi bỗng thấy mắt Ngoại đỏ hoe, và nước trong đôi mắt Ngoại đang lưng tròng..!

Từ đó, tôi không dám hỏi thêm điều gì nữa với Ngoại về bức tranh của Cậu 5. 

Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, và vài năm sau Ngoại không còn nhìn ra đầu ngõ nữa.

Lúc bấy giờ tôi thường hay thấyNgoại ngồi một mình và bà nhìn chằm chằm vào bức tranh của Cậu 5 đang treo trên vách, hai hàng nước mắt Ngoại rơi lã chã..! Tôi xót xa, thương Ngoại quá nhưng không biết làm gì hơn.

 

******

“Em trúng đạn rồi Đại Úy ơi!...” Câu nói cuối cùng của Cậu 5 tôi thốt lên và cậu gục ngã sau đó!

Những người chiến hữu khi về tìm đến nhà bà đã kể lại cho Ngoại tôi và gia đình biết sự việc.

Cậu tôi trúng đạn khi đang mang máy truyền tin đi trong đoàn quân, và cậu đã chết trước 1 tiếng đồng hồ khi lệnh ngưng bắn được truyền thanh do ông Dương Văn Minh tuyên bố. 

Trong lúc hỗn loạn... anh em chiến binh đành đem xác cậu và những thương binh để nằm nơi trường học và chỉ còn kịp gỡ tấm thẻ bài của cậu đem về cho Ngoại.

Và... cậu 5 của tôi không có bia mộ, thân xác sau đó vùi chôn nơi đâu cũng không rõ..!

Mặc dầu ba mẹ tôi cùng Ngoại đã nhiều lần tìm kiếm hỏi thăm những người ở lân cận ngôi trường ấy để tìm nơi chôn xác cậu nhưng vẫn không tìm ra, tôi nghe Ngoại kể lại: nghe đâu có người đã bó chiếu xác những người lính nằm lại trong ngôi trường ấy đem vùi lấp đâu đó nhưng không ai biết ở đâu!  

Sau này theo tôi nghĩ: có lẽ vì sợ hệ lụy nên họ không dám chỉ chỗ vùi xác.

 

*****

Vài năm sau 1975, ba mẹ tôi cùng gia đình vượt biển. 

Thời gian như thoi đưa...

Thoáng chốc đã hơn 20 năm, tôi và các con định cư nơi đất Mỹ!

 

*****

Sau những tháng quân trường ở Texas thì thằng con lớn tôi ra trận “Iraq War”.

Có lẽ do dòng máu di truyền của ông cha, nên con tôi cũng thích vào quân đội. Chẳng những là thằng con, em út và cousin của tôi cũng thích vậy đó! Đứa lượn trên trời, đứa đi đường bộ, đứa lênh đênh trên biển.

TRỜI!!!!! 

Từ lúc lọt lòng mẹ cho đến tuổi hiểu biết tôi đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc đau thương tang tóc của đại gia đình tôi vì chiến tranh Việt Nam. 

Giờ đến lượt em và con tôi đi tác chiến..!

Là người thích đọc tin tức báo chí nhưng kể từ ngày con tôi ra trận,trái tim người mẹ lúc nào cũng thấp thỏm lo âu... đến mức độ tôi không còn dám cầm tờ báo lên xem, vì sợ nhìn vào mấy bức ảnh đăng các gương mặt non choẹt của những cậu lính Mỹ đã... một đi không trở lại trên góc của tờ báo.

Rồi thì cũng qua bao nhiêu năm....

Thật may mắn cho đại gia đình tôi, 3 chàng dạn dày sương gió, cả 3 đều về đến nhà bình an, và cả đại gia đình mừng mừng, tủi tủi.

 

******

Đếm dần thêm 20 năm đã trôi qua….

Con tôi là đứa bay nhảy nhiều nơi, nhiều Quốc Gia nhất nhà, con không còn là cậu thanh niên mới lớn, mới vào quân đội như ngày nào.

Hôm nay được ngồi ăn buổi cơm cùng con tại nhà, tại USA, đó là món quà lớn, là niềm hân hoan của người mẹ dõi mắt chờ trông con theo từng tháng năm dài. 

2 chữ “giải ngũ” con đã đem lại sự hãnh diện thay thế vào nỗi lòng lo lắng thấp thỏm trong những ngày qua của người mẹ lính.

Tuy đang vui niềm vui cùng con, nhưng đến ngày 30 tháng tư thì tôi không sao quên được đôi mắt của Ngoại. Đôi mắt chất chứa biết bao nỗi buồn khi phải tiễn đưa các con của bà, từng người, từng người ra trận. Dòng lệ của Ngoại như đã cạn khô trên đôi khóe mắt rướm máu vì thương nhớ những người con của Ngoại ra đi mãi mãi.

Khi viết lên dòng tâm tình này tôi liên tưởng đến Ngoại, đến những bà mẹ của lính... những giọt nước mắt trên gương mặt các bà khi hay tin con mình không còn. Và nụ cười rạng rỡ chào đón các con của mẹ đi về đến nhà nguyên vẹn.

Riêng tôi, xin cảm tạ Trời-Đất đã thương lấy tôi lúc tuổi về chiều, đã cho tôi được niềm vui trọn vẹn của người mẹ lính.


******

Thường thì dân tộc nào cũng hay oán trách bọn “ngoại xâm.” Nhưng thật ra, “nội chiến” trong anh em cũng là cảnh nhồi da xáo thịt, máu chảy thành sông để lại bao đau thương cho những người mẹ đã từng trải qua sự mất mát những đứa con thân yêu trong đó có Ngoại tôi. Thương xót cho những bà mẹ đã từng chín tháng cưu mang những đứa con và đã đứt từng khúc ruột, vắt cạn máu và nước mắt để nhìn những đứa con thân yêu lìa xa, và thương cho những người Vị Quốc Vong Thân đã bị vùi nắm xương tàn dưới lòng đất không bia mộ!

Ôi! Còn nỗi đau nào hơn…


Ngày 1 tháng 5 năm 2024

Đăng Tâm

(Sau này Ngoại đã mất, có lần tôi về thăm quê Ngoại, tôi hỏi Mợ Tư về bức tranh đâu, tôi không thấy nữa! Mợ trả lời: đã bỏ đi rồi... sau khi Ngoại đã mất).

Bà La Sát, Tam Bành, Lục Tặc Là Gì ?


Bàn nhậu đang rôm rả "Dô! Dô! 100% dô!" thì một ông đứng lên đòi về. Cả bàn nhất định níu ông ngồi lại cho xôm tụ nhưng ông kia vẫn khăng khăng một mực " Không! Tôi phải về các ông ạ. Bà La sát có dặn phải về trước mười một giờ rưỡi. Về trễ bả nổi tam bành lên thì khổ thân tôi!”

Không biết bà La sát là ai và tam bành là cái gì, ở đâu mà khi nó nổi lên thì ông ấy lại khổ thân.? Nhưng lời trần tình ấy lại có hiệu quả ngay tức khắc. Ai nấy im lặng, ông chủ nhà đứng dậy mở cửa cho khách ra về. Bà La sát là ai và tam bành là cái quái gì mà ghê gớm thế?

Lật quyển “Sơ thảo Thuật ngữ Phổ thông Phật học và Phật giáo Việt Nam,” người ta thấy chú thích:

- La sát :   tiếng Phạn là Raksasa, chỉ chung loài ác quỷ, trong đó có bà La sát là một nữ hung thần, một thứ quỷ ăn thịt người. Ông thợ nhậu kia sợ là phải!!!

Còn tam bành là cái quái gì? Mở truyện Kiều ra, xem lại đoạn Kiều được Mã Giám Sinh đưa về Lâm Tri, ra mắt Tú Bà. Khi hay tin ông kép hờ họ Mã của bà đã giở trò lộn xôn với Kiều, thì Tú Bà:

Mụ nghe nàng nói ngay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên…

“Sách Phật nói rằng: Trong người ta có ba cái thần gọi là Bành Kiêu, Bành Cứ, Bành Chất (tam bành). Ba thần ấy hay xui người ta làm điều ác, điều dữ".

Đã nổi tam bành, lại còn lục tặc! Lục tặc là gì?

Xin thưa:  

Lục tặc hay “lục trần” là “6 thứ giặc” thường mê hoặc con người và dẫn dắt tới sự sai lầm, tàn ác. Lục tặc lấy “lục căn” làm môi giới khiến chúng sinh quên đi điều thiện và thường sa phải điều ác. Sáu thứ giặc (lục tặc) đó là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

1 - Sắc: vẻ đẹp hay sắc đẹp.

2 - Thanh: lời nói, giọng hát hay.

3 - Hương: mùi thơm hay hương thơm.

4 - Vị: vị hay thức ăn ngon.

5 - Xúc: cảm giác hay cảm xúc thú vị.

6 - Pháp: phép thuật hay để chế ngự người khác.

Ta thường nghe "Bà la sát, bà chằn lửa" chứ có nghe “Ông La sát,” “Ông chằn lửa” bao giờ? Vậy mà các bà cứ vu tiếng ác cho đàn ông.

Trên trái đất  này có bao nhiêu tỷ bà La sát? Ôi thôi, mỗi ông bị một bà La sát "ám" là đủ tiêu đời. Ở đó mà đèo bồng. Thêm một bà là thêm một bà La sát.


Sưu tầm

Thế Nào Là Âm Đức, Dương Đức ?


Từ nhỏ chúng ta vẫn thường nghe ông bà căn dặn: “Phải tích âm đức, không cho mình thì cũng là cho con cháu”. Nhưng thế nào gọi là âm đức và dương đức?


Thế nào là âm đức, dương đức?
- Làm việc tốt để người khác biết gọi là “dương đức”. Dương đức phúc báo nhanh, người ta sẽ ca ngợi bạn, tuyên dương bạn, báo đáp bạn bằng vật chất hoặc khen thưởng biểu dương. Dương đức đã được báo đáp rồi thì sẽ hết.

-Làm việc tốt mà không để người khác biết gọi là “âm đức”. Âm đức dù không được ai biết đến, không được ai biểu dương, nhưng phúc báo lớn, tích được lâu dài.
 

Người xưa rất coi trọng âm đức, cho rằng âm đức mới là trân quý, còn dương đức chỉ là một chút hư danh, không có giá trị thực tế đối với sinh mệnh.

Phúc Âm Matthew 6 viết : “ Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh ”.

Eisenhower hành thiện đã tránh được sát thủ của Hitler 

Vào thời chiến tranh thế giới thứ hai, vị thống soái tối cao của quân đồng minh châu Âu là Eisenhower vì hào hiệp giúp đỡ đôi vợ chồng già người Pháp mà đã tránh được đòn ám sát của Hitler.
Khi đó, Eisenhower đang ngồi xe trở về tổng bộ để tham gia hội nghị quân sự khẩn cấp. Hôm ấy tuyết rơi đầy trời, tiết trời lạnh buốt, chiếc xe phóng như bay trên đường.
Bỗng Eisenhower thấy một đôi vợ chồng già đang ngồi bên đường, lạnh cóng run lẩy bẩy. Ông bèn bảo viên quan phiên dịch xuống xe hỏi sự tình. Một vị tham mưu vội vàng nhắc nhở: “Chúng ta còn phải đến tổng bộ cho kịp giờ họp, những sự tình loại này nên giao cho cảnh sát địa phương xử lý thì hơn”.
Eisenhower nói: “Nếu đợi đến khi cảnh sát đến, đôi vợ chồng già này đã chết rét lâu rồi”.
Thì ra, đôi vợ chồng đang đến thăm con trai ở Paris, vì giữa đường xe chết máy nên mới bị kẹt lại giữa tuyết trắng mênh mông, không có cách nào di chuyển được.
Eisenhower lập tức mời họ lên xe, đưa đôi vợ chồng già đến nhà con trai họ ở Paris rồi mới vội vàng về tổng bộ.

Điều khiến Eisenhower không thể ngờ tới là, hành động vô tư vừa rồi lại giúp ông tránh khỏi một kiếp nạn mất mạng.
Thì ra hôm đó, quân đánh chặn của Hitler đã mai phục sẵn trên đường, chỉ đợi xe của Eisenhower đến sẽ lập tức ám sát. Hitler đã sắp đặt mọi việc đâu vào đấy, đoán định Eisenhower nhất định sẽ chết.
Hitler không ngờ rằng việc thiện của Eisenhower lại khiến mọi tính toán sắp đặt của mình bị phá sản hoàn toàn. Nhưng nào có biết rằng, Eisenhower vì cứu giúp cặp vợ chồng già mà đã thay đổi tuyến đường, tránh được kiếp nạn. Nếu không như vậy, thì sau này nước Mỹ đã không có vị tổng thống thứ 34 – Dwight D. Eisenhower.
Rất nhiều người bình luận: Nếu không nhờ việc thiện của Eisenhower thì lịch sử chiến tranh thế giới thứ 2 có lẽ đã được viết lại.
Người xưa nói: “Phúc ở tích thiện, họa ở tích ác”. Người có thiện niệm, Trời ắt cho phúc báo, nữa là việc lớn liên quan đến nhân mạng.


Âm đức rất quan trọng, làm thế nào để tích âm đức ?
Bất kể địa vị xã hội cao hay thấp, có tiền hay không có tiền, chỉ cần trong lòng có thiện lương thì con người sẽ làm việc thiện, làm việc thiện thì tự nhiên sẽ tích âm đức.


Người có quyền có thể điều hành đất nước, làm lợi cho nhân dân, lợi cho quốc kế dân sinh. Giống như Phạm Trọng Yêm khi làm tể tướng đã cứu tế học trò, giảm thiểu lao dịch, dựng các nghĩa điền (ruộng công ích), hành thiện ân trạch khắp thiên hạ.
Người có tiền có thể làm các việc thiện lớn như cứu tế nạn đói, quyên tặng áo rét, mở trường học, cứu giúp trẻ mồ côi, giúp người già không nơi nương tựa và người tàn tật.
Người ít tiền có thể làm việc thiện nhỏ, tùy theo sức của mình mà dùng thiện tâm để giúp đỡ người khác.
Chỉ cần có thiện tâm thì sẽ thấy xung quanh có rất nhiều việc thiện đang chờ bạn: ngồi xe nhường chỗ, quét dọn vệ sinh môi trường xung quanh, nhặt được của rơi trả lại người mất, đối xử với người lễ độ hòa ái, hiếu kính với bề trên, khoan dung với kẻ dưới, v.v. Đó đều là tích âm đức.

Cuộc đời vô thường, chỉ có thiện, ác theo thân mình. Tu thiện tích phúc, làm ác rước họa. Vậy chúng ta có nên vì hạnh phúc bản thân và con cháu đời sau mà nỗ lực tích âm đức hay không?

Theo Soundofhope

Friday, May 17, 2024

Một Đời Đau Thương - Nguyễn Thị Huế Xưa

Hình minh họa

Chiếc xe lăn bằng điện cồng kềnh to lớn hơn xe lăn khổ thông thường nằm ngay trước cửa phòng 828 làm tôi giật mình để ý.


Khi tôi bước đến gần thì không cần quan sát kỹ tôi đã nhận ra sự quen thuộc của những dụng cụ linh tinh chung quanh chiếc xe lăn rất khác thường này.  Chiếc xe lăn bằng điện to gần gấp hai chiếc xe lăn thường và không có hai cái bánh xe lớn mà lại có bốn cái bánh nhỏ như bánh xe hơi nằm dưới một cái sườn vuông vứt bằng sắt cao chồng ngồng.  Trên cái sườn bằng sắt cao đó là một mặt ghế ngồi có lót bằng một miếng nệm khá dày bằng móp (eggcrate).  Phía bên phải của ghế có gắn một cái đèn chớp màu đỏ giống như đèn báo hiệu trên xe cảnh sát.  Phía bên trái cũng có một cái đèn giống như vậy chỉ khác là màu xanh.  Kế đó là cái tay cầm tròn như tay sang hộp số để điều khiển chiếc xe. Phía sau ghế có một cái khung cũng bằng sắt trong đó có đựng một hộp đổ nghề màu đen và một cái lồng chim bằng gỗ xiên xẹo. Một cái bình đựng nước bằng nylon màu xanh két, một sợi dây xích cũ máng ngay một bên tay ghế, cái áo thun màu đỏ với giòng chữ " Peace not War" bọc sau lưng chiếc ghế.

Mỗi ngày khi ngồi ăn trưa trong văn phòng nhìn qua phía bên kia đường của cái clinic đối diện, tôi thường bắt gặp hình ảnh của một người đàn ông với đầu tóc dài rối bù như chiếc dẻ xoắn lau nhà ngồi trên chiếc xe lăn đặc biệt này với những thứ  đồ lỉnh kỉnh đó.

Sở dĩ tôi chú ý đến ông ta vì dường như trưa nào đúng mười một gìờ rưỡi người đàn ông này cũng hùng hổ liều mạng lái chiếc xe lăn phăng phăng, bất chấp những dòng xe hơi nhộn nhịp, mạnh dạn băng qua phía bên kia đường để vào một quán café có cái tên là TÈO.  Mỗi lần ông ta rời quán TÈO thì tôi thấy ông ta cầm cái bình nylon màu xanh két dốc lên miệng.  Tôi đoán có lẽ ông ta vào quán đó mua café đổ vào bình.  Tôi không nhìn rõ khuôn mặt ông ta cho lắm vì từ văn phòng tôi nhìn qua khoảng cách khá xa.

Một bữa tôi có hẹn bên văn phòng ông bác sĩ gần đó cũng vào dịp trưa, khi đứng ở cột đèn chờ dấu hiệu đèn xanh bật lên để băng qua đường tôi tình cờ thấy ông ta rõ ràng hơn.  Mái tóc dài màu hung vàng rối bù không biết là dơ vì lâu ngày không gội hay màu hung hung đó là màu tóc nguyên thủy. Bộ râu cùng màu rập rạp che hơn nửa khuôn mặt, chỉ chừa lại cặp mắt dấu sau đôi kính đen to.  Trên người ông ta có lẽ cũng có chừng năm lớp áo mà cái áo ngoài hết là một áo rằn ri nhăn nheo.  Đôi giày bốt nâu bạc màu to như hai chiếc xuồng nằm lửng lơ trên hai miếng để chân mà tôi có cảm tưởng như hai bàn chân của ông ta quá nhỏ so với đôi giày. Ông ta ngồi bất động trên chiếc xe lăn, chỉ có đôi tay di chuyển để điều khiển chiếc xe thôi.  Mỗi khi chiếc xe lăn tới khiến những dụng cụ máng chung quanh tạo ra những tiếng động nhỏ kỳ khôi và cái đèn màu đỏ trên chiếc xe lăn thì cứ chớp liên hồi.

Trong khi tôi kiên nhẫn đứng chờ đèn xanh bật lên để băng qua bên kia đường thì ông ta nhìn tôi thách thức, và qua đôi kiếng màu đen đó tôi đã tưởng tượng được cặp mắt chế giễu trước khi ông ta bạc mạng lái vùn vụt chiếc xe lăn chạy qua phía bên kia lề bất chấp những giòng xe điên cuồng vội vã.

Hai buổi trưa vừa qua tôi nhìn qua cửa sổ không thấy bóng dáng người đàn ông này nên tôi cũng hơi làm lạ, không dè ông ta nhập viện và đang nằm trên lầu thứ tám này. Tôi  bước đến lật hồ sơ của phòng 828 xem, cái tên trên hồ sơ làm tôi khựng lại, Kevin Ngô.

Tôi nhủ thầm như vậy là chiếc xe lăn này để lộn qua phòng người khác rồi vì chủ của chiếc xe lăn có một không hai này không thể là người Việt Nam. Tôi định đẩy chiếc xe lăn qua một bên và đi tìm người chủ của nó thì lúc đó một ông y tá mặt đầy tàn nhang, tóc đỏ hoe đang đi trong hành lang ngừng lại cản tôi:

- Bà đừng đem xe đi vì ông Ngô sẽ giận dữ.

Tôi gặng hỏi:

- Ông Ngô?

Ông y tá tiếp tục nói:

- Đúng rồi, của cải của ông ta chỉ có bao nhiêu đó cho nên tôi phải hứa là "bảo vệ  chiếc xe thì ông ta mới đồng ý để nó ở ngoài này, nếu để trong phòng thì chật chội qúa, mỗi ngày vào chữa trị vết thương cho ông ta không có chổ để máy móc.

Tôi chất vấn:

- Phải ông Ngô nằm trong phòng 828 không?

Nhìn sự thắc mắc trên khuôn mặt của tôi ông y tá lật đật nói:

- Ông Ngô nằm trong phòng đó đã hai ngày.  Bà cần kiểm soát (audit) hồ sơ của ông ta hả?

Tôi không còn kiên nhẫn được nữa nên gật đầu đại cho xong chuyện:

- Ừ! Để tôi coi hồ sơ của ông ta xem sao

Kevin Ngô năm nay 54 tuổi, góa vợ, không nghề nghiệp và vô gia cư.  Ông ta nhập viện cách đây hai hôm với triệu chứng lở loét ở xương chậu (sacral decubitus).  Càng đọc tiểu sử của ông Kevin Ngô tôi càng thấy lạ thêm.

Kevin Ngô là Viet Nam Veteran, theo lý lịch hồ sơ thì ông ta là người Mỹ. Ông ta đã từng bị gãy xương sống, chấn động mạch máu não và sau khi bình phục thì hai chân ông ta rất yếu, đã phải dùng xe lăn từ bao nhiêu năm nay.

Sau khi đọc lướt qua hồ sơ, sự tò mò khiến tôi mạnh dạn gõ cửa phòng của ông để xem có phải đây là chủ nhân của chiếc xe lăn điện không.

Vì cái tên Việt nên mặc dù người đàn ông trước mặt qủa thật là người đàn ông mà tôi đã từng thấy bên lề đường hằng ngày, tôi giới thiệu với ông ta tôi là y tá trưởng và mở lời chào hỏi bằng tiếng Việt Nam:

- Chào anh Kevin, anh có khỏe không?

Đôi mắt không còn giấu sau làn kính đen nữa mà là đôi mắt xanh biếc với cái nhìn rất thờ ơ, ông ta ngạo mạn trả lời:

- Nằm một chỗ như thế này thì làm sao khỏe được.

Tôi ngạc nhiên khi nghe câu trả lời hằn học bằng tiếng Việt khá rõ ràng của ông ta.

- Xin lỗi anh nghe, đáng lẽ phải hỏi là anh có cần gì không thì mới phải.

Đôi mắt xanh bây giờ không nhìn tôi mà nhìn chăm lên trần nhà:

- Lỗi phải chi bà, mà bà có cần gì không?

Lại  là lời thách thức. Tôi từ tốn trả lời:

- Tôi tưởng anh người Việt Nam nên chỉ muốn vào thăm thôi.

 Ông ta nhìn tôi châm biếm:

- Như vậy là bà chỉ thăm viếng người Việt Nam thôi sao? Tôi người Mỹ nhưng nhờ có tên Việt, may qúa mới được bà vào thăm.

Tôi vẫn điềm đạm:

- Nếu có dịp ai tôi cũng thăm cả nhưng có những người Việt Nam không thông thạo Anh ngữ thì họ là những người được tôi ưu đãi giúp đỡ trước tiên.

Kevin bắt đầu dịu giọng:

- Bà giúp được những gì?

Tôi nói với ông ta là tôi thường thông dịch cho những người Việt Nam nếu cần và vì đây là nhà thương công giáo nên chỉ có mấy bà soeur vào thăm mỗi ngày.  Nếu những người đạo Phật muốn cầu an thì tôi có thể liên lạc với thầy ở chùa đến an ủi, cầu an cho họ.

Đôi mắt xanh của Kevin không dưng sáng lên và tia nhìn của ông trở nên thân thiện:

- Bà hay đi chùa phải không? Tôi cũng đạo Phật.

Tôi ngạc nhiên đến tột cùng.

Cuộc đàm thoại với người đàn ông Mỹ có cái tên Việt này bắt đầu kỳ thú.  Có lẽ bắt gặp cái nhìn nghi ngờ của tôi nên Kevin đưa tay vào cổ áo lôi ra một sợi giây chuyền vàng với cái tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch rồi giọng buồn kể:

- Vợ tôi tặng cho tôi sợi dây chuyền này khi chúng tôi mới lấy nhau...

Rồi bỗng dưng Kevin ngưng kể, đôi mắt nhắm lại và lắc đầu:

- Chuyện tôi buồn lắm, lúc khác nói chuyện nữa nghe bà.

Tôi biết Kevin không muốn tiếp tục và vừa lúc đó người physical therapist đến phòng để chửa trị vết lở cho ông.

Nhìn cái máy Whirlpool kềng càng và cái giường khác biệt dành cho những bệnh nhân với vết thương lở nặng, tôi mới hiểu tại sao ban nãy ông y tá bảo là mỗi lần chữa trị vết thương không có chỗ xoay xở trong căn phòng chật hẹp.

Tôi cáo từ Kevin, cho số điện thoại và bảo nếu cần gì thì cứ gọi thẳng cho tôi.

Khi tôi bước vào Kevin có vẻ mừng rỡ.

Tôi nhìn thân thể yếu đuối của ông nằm bồng bềnh trên chiếc giường nước (pressure released bed), chưa kịp hỏi han thì mặc dầu kẹt ống Oxygen trên mũi, Kevin cũng gắng đùa, lần này bằng tiếng Anh:

- Tôi được...vinh dự lắm mới được nằm trên cái giường nước này đó bà.

Giọng Kevin không có gì mỉa mai cho nên tôi cũng đùa theo:

- Tại vì anh... đặc biệt...

Thật sự thì khi những người bệnh nhân nhập viện với vết lở khá nặng ăn sâu vào da thịt vì không có đủ khả năng di chuyển nên máu không lưu thông đều, tạo nên áp xuất mạnh gây ra sự lở loét (decubitus) thì chúng tôi phải dùng những chiếc giường nước như thế này để giảm bớt sức ép của mặt giường vào cơ thể với làn da vốn đã rất mỏng manh.

Vì hai bàn chân yếu Kevin phải ngồi trên xe lăn cả ngày, mặc dầu chiếc ghế có lót miếng nệm dày bằng móp như đã nói nhưng vì ngồi một chỗ quá lâu, sức ép của cả thân thể dồn vào phần xương chậu, cho nên Kevin mới phải nhập viện với vết lở đó

Kevin cười buồn:

- Bà coi đó, cái... bàn tọa của tôi thì lở loét, bây gìờ thì cái phổi cũng...lều bều đầy nước.

Tôi an ủi:

- Anh ráng tịnh dưỡng, năm ba bữa sẽ mạnh lại rồi về nhà...

Tôi nói chưa xong câu thì đã biết mình lỡ lời.  Ông bệnh nhân này là người vô gia cư. Dường như đoán được ý nghĩ của tôi, Kevin mệt mỏi thì thào:

- Nhà đâu mà về bà.  Tôi sống trên chiếc xe lăn bao năm nay, nhà là những con đường, những bờ bụi...

Kevin nói tới đây thì thở dài và có ý như không muốn tâm sự nữa:

- Thôi bà đi làm đi, không dám làm mất thì giờ của bà.

Lần này là lần thứ hai Kevin cố ý tránh kể chuyện riêng tư của chính mình.

Tôi làm việc với bệnh nhân lâu năm và lúc nào cũng tôn trọng sự riêng tư của họ, tôi cũng hiểu là đối với Kevin, sống trang trải một mình ngoài đường, góc xó và va chạm những thực tế hiểm hóc trong đời sống trên lề đường thì ông ta khó có thể tin tưởng ai để tâm sự về cuộc đời mình. Tôi chào Kevin sau khi chúc ông ta nhiều may mắn.

Những ngày kế tiếp tôi không đích thân đến thăm Kevin vì tôi nghĩ sự thăm viếng của tôi chỉ làm phiền ông ta thôi mặc dầu tôi vẫn hoài thắc mắc về cái tên họ Việt Nam của ông.  Tuy nhiên, mỗi ngày tôi vẫn theo dõi tình trạng sức khỏe của Kevin qua điện thoại với những người y tá săn sóc cho Kevin. Tôi cũng liên lạc với cô Nancy làm về xã hội nhờ cô lo cho Kevin một nơi chốn cư ngụ khi sau khi xuất viện.

Lúc nói chuyện với cô Nancy thì tôi mới khám phá ra Kevin là " khách hàng thường xuyên" của bệnh viện và cũng là người được cô Nancy dành rất nhiều thì gìờ lo lắng cho mỗi khi ông ta nhập  viện trong những năm qua.

Cô Nancy cho biết là Kevin rất bướng bỉnh vì cô đã từng lo cho Kevin đi đến ở viện dưỡng lão cũng như đến những nhà dành cho những người tàn tật, nhưng Kevin chỉ ở vài hôm sau đó lại bỏ đi ra sống lang thang trên đường phố trên chiếc xe lăn.  Chính cô Nancy là người xin giấy tờ cho Kevin có được chiếc xe lăn bằng điện để tiện việc di chuyển.

Cô Nancy cho tôi hay là Kevin đã và đang trải qua những khủng khoảng tinh thần sau khi rời quân ngũ (post traumatic stress), cho nên tính tình đôi lúc bất bình thường.

Một tuần sau đó thì cô y tá gọi cho tôi hay là Kevin đã đỡ nhiều và đã được đưa trở về lại lầu tám. Kevin có nhắn lại là ông ta muốn gặp tôi.  Tôi trở lên thăm và lần này thấy ông ta gầy guộc hẳn đi.

Sau khi chào hỏi qua loa, Kevin ngập ngừng:

- Có một chuyện làm phiền bà...

Trong khi tôi nhìn Kevin chờ đợi thì ông ta lấy từ dưới cái gối ra sợi giây chuyền có tượng Phật Bà bằng cẩm thạch mà lần trước Kevin đã khoe với tôi.  Lần này Kevin buồn bã nhắc lại:

- Tượng Phật này là của vợ tôi tặng cho tôi khi chúng tôi mới lấy nhau. Sợi dây chuyền bị đứt rồi, nhờ bà giữ giùm vì tôi không có chỗ cất sợ để mất đi.

Tôi cầm sợi giây chuyền vàng, thật sự sợi giây không bị đứt chỉ có cái móc bị gãy thôi. Trong khi tôi còn mân mê sợi giây chuyền trên tay thì dường như Kevin không cầm lòng được nên bắt đầu kể cho tôi nghe về cuộc đời bi thảm của ông.

Nếu nói theo số mệnh thì Kevin là người khổ hạnh cho nên cuộc đời của ông thật nhiều đớn đau.

Kevin lớn lên mồ côi cha mẹ, sống với một bà dì góa bụa.  Sau khi xong trung học hai năm thì Kevin bị động quân và được gửi qua Việt Nam đóng binh ở Kontum.  Nơi đây Kevin đem lòng thương một một cô gái miền cao nguyên chất phác, hiền lành.  Cha mẹ cô gái sống trong khu gia binh rất nghèo và đông con nên khi Kevin ngõ lời muốn cưới để đưa cô về Mỹ ở thì hai ông bà đồng ý ngay. Chẳng may sau một đêm khu gia binh bị pháo kích thì cô gái bị trúng đạn chết.  Kevin rất đau khổ và chỉ vài tháng sau khi ra chiến trường thì bị thương trên xương sống rồi được đưa trở về Mỹ.

Khi trở về với tấm thân tàn tật và sự ám ảnh tàn khốc của cuộc chiến điêu tàn ở Việt Nam khiến Kevin bị khủng khoảng tinh thần.  Vì phải mổ xương sống mấy lần nên Kevin nằm nhà thương gần cả năm trời. Lúc xuất viện thì bà dì góa bụa của ông ta qua đời.

Một thân một mình, Kevin sống qua ngày trong căn nhà nhỏ của bà dì cho đến khi bị bệnh chấn động mạch máu não thì không thể lo cho chính mình, và sau nhiều lần ra vào nhà thương thường xuyên, Kevin đồng ý vào một viện dưỡng lão ở tạm. Ngày tháng ở trong viện dưỡng lão này là một nỗi đọa đày đối với Kevin. Sống chung đụng với những người già nua nhiều thụ động càng làm cho Kevin qúa chán chường. Nhưng chính nơi chốn buồn tẻ này lại là môi trường mà Kevin đã gặp thêm một phụ nữ Việt Nam khác, người vợ mà ông quí trọng yêu thương nhất.

Cô Lài làm y tá phụ.  Một trong những phận sự của cô là mỗi tối giúp cho Kevin thay áo quần sửa soạn để đi ngủ. Vì hai chân của Kevin qúa yếu nên mỗi lần di chuyển từ cái xe lăn qua tới giường nằm thì cô Lài dường như phải dùng hết sức từ hai cánh tay của mình nâng cả cơ thể của Kevin để đưa qua. Dạo đó Kevin xử dụng chiếc xe lăn thường nên cái ghế không cao như xe lăn điện hiện đang có nên dự di chuyển từ chiếc xe lăn qua giường rất khó khăn.  Kevin thấy cô Lài nhỏ nhắn, mỗi lần cô phụ như vậy thì Kevin thấy rất áy náy.  Cô Lài tiếng Anh thì hạn chế nhưng cô cũng hiểu được sự quan tâm của Kevin đối với cô nên lần nào cô cũng nhắc Kevin là cô tuy nhỏ người nhưng lại mạnh, vả lại đây là nhiệm vụ của cô.

Mỗi ngày cô Lài đi làm vào ca chiều, Kevin ngồi ở ngay cửa nhìn cô thoăn thoắt đi vào và để ý là cô làm việc rất chăm chỉ, ai cô cũng lo lắng rất chu đáo cho nên tất cả mọi người trong viện dưỡng lão đó đều thương mến cô.

Kevin để ý là khoảng sáu giờ chiều sau khi phụ những bệnh nhân ăn uống xong thì cô Lài  ra ngồi một mình trên chiếc ghế đá ở một góc sân  bắt đầu ăn cơm và đọc một cuốn sách nhỏ trong tay. Sau vài tuần để ý thì Kevin mân mê lại làm quen.  Cô Lài lúc đầu còn rụt rè nhưng sau đó với vốn liếng Anh ngữ kém cỏi cô cũng hàn chuyện với Kevin.

Được biết cô Lài lúc trước ở miệt Phan Rang, khi cộng sản chiếm nước được vài năm sau thì  cha mẹ  cô mượn được một số vàng cho cô đi theo chiếc tàu chở mướn  qua được tận đảo bên Mã Lai.

Sau một thời gian đợi chờ mòn mỏi thì cô được bốc qua  Mỹ. Qua đến Texas cô vừa đi học chương trình ESL luyện Anh ngữ và vừa xin đi học ra làm y tá phụ. Với đồng lương có giới hạn của một phụ tá, cô Lài hàng tháng vẫn đều đặn gửi tiền về giúp cho cha mẹ nuôi đàn em ở Việt Nam.  Cô vẫn hằng mong muốn có dịp trở về thăm quê và thăm gia đình nhưng mỗi lần nghĩ tới tốn phí di chuyển thì cô lại tiếc, vả lại số vàng mà cha mẹ cô mượn bây giờ cô phải đi làm trả lại cho chủ nợ ở bên Mỹ này.

Kevin thấy cô cầm một cuốn sách mỏng bằng tiếng Việt Nam và mỗi ngày lại đọc vài trang sau khi ăn cơm. Cô Lài cho biết đó là cuốn phật kinh, cô đọc cho tâm hồn được thư thái. Cô là một phật tử sùng đạo với một niềm tin mãnh liệt là con người phải sống cho chân chính thì mọi việc sẽ tốt lành trong đời sống.

Lúc đầu nghe cô Lài nói thì Kevin chỉ cười ngạo báng, vì mỗi lần nhìn thân thể tàn tật của mình, nhớ tới những cảnh bom đạn, chết chóc trong cuộc chiến mà ông ta từng tham dự ở Việt Nam thì Kevin không khỏi giận dữ.  Kevin đâm ra nghi ngờ sự che chở của đấng linh thiêng.  Cô Lài nghe vậy vẫn không nản chí, cô tiếp tục đọc kinh và nhẫn nại nói về niềm tin của mình.

Sau một thời gian gặp gỡ, trò chuyện với cô Lài, Kevin cảm thấy lòng dịu lại. Nỗi buồn thì còn đó nhưng đã bớt được sự phẫn nộ đối với cuộc đời.  Riêng cô Lài cũng cảm thấy bớt cô đơn. Hai người trở nên tâm đầu hợp ý và môt năm sau thì tất cả mọi người trong viện dưỡng lảo GF hoan hỉ tổ chức một cái đám cưới nhỏ cho cả hai.  Kevin không ngờ đời mình lại may mắn như thế.  Cô Lài nhận lời cầu hôn của Kevin không một chút do dự, đắn đo.  Qùa cưới của Kevin dành cho cô Lài là lời tuyên bố sẽ ra tòa xin đổi họ theo họ của vợ là họ Ngô.

Tôi nghe câu chuyện tới đây thì cảm động rưng rưng nước mắt. Thì ra là như thế nên Kevin mới có họ Việt Nam. Nếu tôi là một nhà văn thì tôi có thể viết nên một câu chuyện tình rất tuyệt vời. Kevin tiếp tục kể:

- Bà biết không, Lài là một người vợ hiền và là một người đàn bà rộng lượng nhất trên đời. Tôi học được cái tính nhẫn nhục, vô vụ lợi của Lài.  Tôi tàn tật không lo được cho Lài, mỗi ngày Lài đi làm thì tôi chỉ biết đợi chờ và trong lúc đó thì tôi tìm hiểu thêm về đạo Phật.  Cuốn sách đầu tịên tôi đọc là cuốn sách của thiền sư Thích Nhất Hạnh.  Bà đã đọc "Đường Xưa Mây Trắng" chưa? Tôi không biết Phật giáo có bao nhiêu phái chỉ biết là thiền sư này viết sách qúa hay. Tôi càng đọc càng thấm thía những gì Lài đã cố nhẫn nại khuyên răn tôi sống một đời sống đầy ý nghĩa và rộng lượng bao dung bởi vì mai này ai cũng chết, chỉ có những gì mình để lại cho đời mới đáng kể thôi.

  Ông kể tiếp cho biết là sau khi làm đám cưới ông và cô Lài thuê một căn nhà nhỏ.  Cô Lài vừa đi làm vừa săn sóc cho ông.  Cuộc sống tuy vất vả vì cô Lài phải cáng đáng mọi chuyện trong nhà nhưng không bao giờ cô than vãn.  Nỗi mong muốn duy nhất của cô Lài là được trở về thăm gia đình.  Vì muốn có một số tiền chi phí cho chuyến đi nên cô Lài đi làm bất chấp gìờ giấc.  Kevin thấy xót xa cho vợ nên trong lúc ở nhà ông ta đóng những cái chuồng nuôi chim nho nhỏ và đứng trước những góc đường bán, hoặc bán cho những người làm trong nhà thương mà ông quen biết.

Nghe Kevin kể, tôi nghĩ tới hộp đồ nghề và cái chuồng chim xéo xẹo của ông trên chiếc xe lăn mà đâm ra tội nghiệp.  Tự nhủ là mai mốt Kevin lành bệnh thì tôi cũng sẽ đặt ông làm cho vài ba cái chuồng nhỏ nuôi chim sau sân nhà.

Kevin còn cho biết là cả hai vợ chồng ông đều ăn chay trường. Cô Lài ăn chay trường vì lời nguyền từ khi biết đưọc tin mẹ cô bị ung thư tử cung.  Cô mãnh liệt tin rằng với sự cầu nguyện hy sinh chân thành của cô thì mẹ cô sẽ tai qua nạn khỏi.  Kevin ăn chay vì trong lòng anh muốn cám ơn bà mẹ vợ đã có công nuôi dưỡng dạy dỗ vợ anh từ thuở nhỏ nên anh mới có được một cô vợ thật thà rộng lượng như vậy.

Tôi nhìn nét mặt khắc khổ của Kevin, không ngờ dưới bộ mặt hung hăng của người cựu chiến binh Việt Nam đó lại chất chứa môt tâm hồn dịu dàng chân thành.  Tôi đang tự hỏi không biết câu chuyện của Kevin kể sẽ đưa đến thêm những chi tiêt bi đát nào nữa thì không dưng Kevin nhìn tôi lạ lùng:

- Như tôi đã nói mai này ai cũng chết nhưng cái chết của vợ tôi thì quá tức tưởi, bất ngờ. Trời Phật không công bằng với tôi cho nên bắt tôi chịu đựng từ những khổ đau này đến tai biến khác.  Có lẽ kiếp trước tôi vụng tu đó bà.

Nói đến đây thì Kevin nghẹn lời, tia mắt quắc lên một tia nhìn giận dữ:

- Quê hương nhỏ bé của bà là mảnh đất oan nghiệt nhất mà tôi thấy trong đời. Chính mảnh đất ấy, bằng cách này hoặc cách khác đã cướp mất những yêu thương trong đời của tôi.  Lài là người đàn bà thứ hai đã bỏ tôi trên cuộc đời đầy cô đơn, buồn tẻ này.

Theo chuyện Kevin kể lại, tôi được biết cách đây ba năm, cô Lài mừng rỡ dành giụm được một số tiền để trở về Việt Nam thăm bà mẹ đang bệnh ung thư.  Kevin khuyến khích vợ nên về ngay để còn có thì gìờ ở bên mẹ trong lúc bà còn tỉnh táo.  Cô Lài hớn hở trở về và tính ở bên nhà cho trọn một tháng.  Hai tuần lễ đầu cô Lài điện thoại về cho chồng kể chuyện về gia đình nghe vui ghê lắm.  Rồi chỉ vài hôm sau đó anh nhận được một tin làm anh bàng hoàng, chới với.  Cô Lài trong lúc băng qua đường phố bị xe tông chết.

Tôi nhớ đến những lần bắt gặp Kevin lái chiếc xe lăn bất chấp hiểm nguy để băng qua đường trong làn sóng xe tấp nập. Phải chăng đây là sự thử thách ngạo mạn của ông với định mệnh? Như định mệnh đã cướp mất người vợ hiền lành cao qúi của ông.

Cô Lài chết trong lúc bà mẹ bệnh hoạn vẫn còn để thầm khóc nhớ thương con.  Kevin cũng thầm khóc thiết tha nhớ vợ. Trên đời này có lẽ không bao giờ anh có thể tìm được một người đàn bà nào khác đầy lòng từ bi như cô Lài.

Từ đó cuộc sống đối với Kevin không còn ý nghĩa, ông đâm ra gàn bướng, cáu kỉnh với mọi ngưòi.  Vài tháng sau Kevin gom góp hết chút tài sản chất lên chiếc xe lăn và ra sống dưới gầm cầu SC.

Tôi lặng người nghĩ đến số phận quá hẩm hiu của Kevin rồi bỗng thấy xót xa. Còn biết bao nhiêu người là nạn nhân của chiến tranh và nạn nhân của cuộc đời đầy rẫy thương đau này?

Tôi đem sợi dây chuyền đưa ra tiệm nữ trang nhờ người làm lại cái móc cho thật chắc.  Khi nhìn kỹ tôi thấy trên lớp vàng mạ phía sau tượng Phật bà, hai chữ LK quấn quít nhau như tên tuổi và cuộc đời của cô Lài và Kevin đã gắn chặt với nhau như một mối duyên được phật trời sắp đặt.

Ngày hôm sau tôi đi làm thật sớm ghé lên thăm Kevin trước khi đến văn phòng. Khi bước vào phòng của Kevin, tôi đụng ngay chiếc xe lăn bằng điện với đầy đủ "gia tài" của Kevin.  Kevin cho tôi biết là chiều nay ông ta phải chuyển qua một nhà thương dành cho cựu chiến binh cách đây một trăm dặm.  Vết thương lở loét của ông qúa sâu nên phải làm ghép da (skin graft) và nhà thương quân đội SW là nơi sẽ chịu tất cả phí tổn về việc mổ xẻ. Kevin chỉ ngay chiếc lồng chim xéo xẹo trên chiếc xe lăn và nói:

- Không có gì tặng bà làm kỷ niệm ngoài món qùa nhỏ này.  Bà tin đi bao giờ tôi khỏe, tôi sẽ trở về kiếm bà và sẽ sửa nó lại cho thẳng thớm.

Tôi cầm sợi giây chuyền bước đến đeo vào cổ cho Kevin:

- Đây là sự thương yêu của anh, hãy ráng giữ lấy niềm tin.

Trên khuôn mặt phong trần của người thương phế binh Mỹ bất ngờ có hai giòng lệ chảy dài và tôi bắt gặp một nỗi an hòa trong đôi mắt xanh biếc của Kevin khi anh bắt đầu thì thầm lời nguyện cầu: Nam Mô A Di Đà!


Nguyễn Thị Huế Xưa