Pages

Wednesday, April 30, 2025

Thiếu Úy: Huỳnh Văn Thái Và Bảy Người Lính Nhảy Dù Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975

Thái ngồi xuống vệ đường...Anh bâng khuâng nhìn chung quanh những người đồng đội...Họ đã theo anh tới tận giờ phút này...Những người lính Dù mặt mày hốc hác, nhưng chưa nghe ai mở miệng thở than...

Thằng Tăng Thiện Minh, chín tháng làm Nhảy Dù mà mắt vẫn còn ngơ ngáo non choẹt..Nó xin làm đệ tử anh bởi vì “em khoái cái mặt ngầu của thiếu úy”. Thằng nhỏ mới mười chín tuổi, người Hoa, còn có bà mẹ ở Chợ Lớn và mấy anh chị em làm ăn khấm khá, sẵn sàng chi tiền để nó được ở hậu phương làm lính kiểng...Má nó khóc hết nước mắt khi nó cứ nhất định đăng lính. “Má à, tui đi lính rồi chừng nào hết diệc cộng tui dề dới má mà...Má khóc goài dậy ? "Nó nhăn mặt, cố dấu mấy giọt nước mắt khi nói...

Thái đốt một điếu thuốc...Anh lắc đầu từ chối chén cơm thằng Minh mới nấu...Thằng nhỏ cứ năn nỉ “thiếu úy ăn chút gì đi, từ sáng giờ…” Thật ra cả hai thầy trò chưa có gì trong bụng, nhưng Thái không thấy đói...Anh chỉ mệt

Cả trung đội mấy chục người nay chỉ còn có tám thầy trò với nhau...Thái nhớ thằng Hòa, tình nguyện ở lại cản đường, chỉ kịp quẳng hai trái lựu đạn nổ được một băng M16 thì chết...AK cày nát ngực nó...Hòa chết, mặt nhăn nhó thảm hại, nằm chàng hảng giữa đường...Bạn bè cố gắng đào một lỗ cạn chôn tạm...Trung đội mất liên lạc, tự tìm lấy cho mình phương thể ứng xử...Giờ thì chỉ có một con đường – Mầy ngon mầy dô đây – Thái nghiến răng...Anh kiểm tra lại vũ khí...Mỗi người lính Dù còn lại bốn băng, hơn chục trái lựu đạn, hai M72, một M60 với hai dây đàn...Vậy là có đủ vốn để chơi rồi...Kỳ này thế nào anh cũng có lời...

“Mở liên lạc coi, …” Thái hy vọng sẽ còn một cấp trên nào, một đơn vị nào có thể liên lạc được...Ít nhất lúc đó anh sẽ dễ tính toán hơn...Tiếng se sẻ từ máy PRC25 của thằng Minh vẳng ra khi nó đang cố dò tần số...

Bỗng nhiên từ máy phát ra tiếng nói “Tôi Dương Văn Minh...Yêu cầu anh em bỏ súng chờ bàn giao…” Cái gì ?...Thái la lên “Vặn lớn lên coi Minh … Chờ bàn giao….” Thằng Cậy mếu máo :

- Mình thua rồi thiếu úy ơi,

Thằng Hưng hét lên :

- Thua cái con C... - nước mắt nó chạy dài trên gò má...

Thạch Sơn quăng ca cà-phê mặt tái mét...Thái cảm thấy lùng bùng lỗ tai...Cái gi ? Thua à ? thua việt cộng à ?đã đánh đâu mà thua ? anh nhớ tới những người lính trong trung đội đã chết, anh nhớ tới Hoa,tới Bằng, tới Tốt. Máu anh căng tràn trong cơ thể...Anh ước anh có thể nổ một phát súng vào đầu Dương Văn Minh...

Thái hít một hơi dài cố lấy lại bình tĩnh. Tính mạng của bảy người lính còn lại ở trong tay anh...Thượng sĩ Năm lo lắng hỏi “Tính sao thiếu úy?” “ Còn tính sao nữa, buông súng đầu hàng thôi” Thái gắt gỏng...Thật ra anh đã có một lối thoát cho chính mình...Anh thở dài, nhìn mấy người lính “Tụi bay lại đây”. Họ quây quần chung quanh anh...Thái bình tĩnh nói :

- Tụi bây nghe rồi đó, mình là lính, lệnh trên sao thì mình phải theo...Giờ phút này mình thua rồi, tụi bây bỏ súng xuống, rồi thằng nào muốn về nhà thì cứ đi...Không ai chỉ huy ai nữa...Tụi bây hiểu chưa ?

- Ơ tui không biết cái đầu hàng a, tui ghét việt cộng, tui đánh chết việt cộng, tui không đầu hàng, Ykron lên tiếng...

- Giờ phút này tao hết trách nhiệm, tụi bây cứ về nhà...

- Vậy còn thiếu úy tính sao ? Thằng Minh mếu máo..

- Tao ở lại...Dm bắn hết đạn tao tự xử tao...

- Em theo ông thầy, – thằng Minh la lên.

Thằng Hưng cười toe toét :

- Ông thầy, cho em bắt tay cái, mình Nhảy Dù mà ông thầy...

Thằng Cường rút trái lựu đạn ngắm nghía :

- Thua việt cộng nhục lắm ông thầy, còn mày, mày tính sao Sơn?”

Thạch Sơn lẩm bẩm :

- Ai sao tui vậy

- Rồi ai làm bậy mày cũng làm theo hả Sơn? Cường cười toe toét. Đến nước này mà nó vẫn còn giỡn được.

Thái nghiêm nghị :

- Anh em hãy suy nghĩ cho kỹ, phần tôi thì xong rồi, nhưng anh em còn có gia đình để lo. Tôi không muốn vì tôi mà anh em suy nghĩ ẩu tả. Lần đầu tiên Thái gọi họ là anh em và xưng tôi.

- Tôi chọn màu áo này để chiến đấu, tôi cũng sẽ chết với màu áo này. Tôi không thể đầu hàng, không chịu thua.

- Lính Nhảy Dù đâu có chịu đầu hàng, ông thầy. Thằng Minh nói.

Thái quay sang thượng sĩ Năm:

- Còn phần anh, về với vợ con anh đi anh Năm, và bỏ qua cho những gì mà tôi đã làm anh buồn.

- Thiếu úy, thật sự tôi khuyên thiếu úy và anh em suy nghĩ cho kỹ. Còn đánh đấm gì được khi lãnh tụ tối cao đã đầu hàng. Nhưng thật tình mà nói, tôi không thể bỏ anh em. Cả trung đội như huyết nhục của tôi, nay chỉ còn lại mấy mạng, làm sao tôi bỏ đi được. Tùy thiếu úy, nếu ông ở lại, tôi cũng ở lại.

Cả đám nhao nhao sau lời nói của Nguyễn Năm, Thượng Sĩ Nhảy Dù bị thương tích, nhưng vẫn sống sót qua bao trận đánh “Chơi tới luôn đi thiếu uý”.

Thái đưa mắt nhìn, giọng anh đầy xúc động:

- Cảm ơn anh em, Nhảy Dù Cố Gắng

- Nhảy Dù Cố Gắng, cả nhóm hét lên.

Thái vạch kế hoạch:

- Sức mình có thể chơi dài dài được, mình nằm đây chờ nó. Hễ xe tăng nó vô thổi cho hai trái M72. Cứ dùng lựu đạn khử mấy thằng tùng thiết. Tập trung hỏa lực M60 với M16, nhưng đừng phí đạn dược. Làm được không tụi bây?

- Nhảy Dù Cố Gắng mà ông thầy.

Thái căng mắt nhìn về phía trước. Anh đã quyết định và tự nhiên anh cảm thấy thanh thản. Anh chưa từng tâm sự với ai về lý do anh đã chọn Nhảy Dù. Anh đã nhìn thấy những người lính Mũ Đỏ chiến đấu như thế nào trong trận Tết Mậu Thân. Anh cũng đã nhìn thấy hình ảnh những người lính Dù miền Nam, binh chủng mà bọn Việt cộng vẫn tuyên truyền thích ăn gan uống máu tù binh, đút từng miếng bánh cho VC bị bắt, đốt cho họ từng điếu thuốc. Tính chiến đấu dũng mãnh làm địch khiếp sợ nhưng lại rất nhân đạo khi đối phương đầu hàng đã làm Thái cảm phục và ngưỡng mộ. Anh chọn chiếc nón đội trên đầu, anh phải bảo về danh dự cho chiếc nón đó.

Tám người lính chờ đợi. Họ không nhìn thấy quân thù tiền về hướng họ. Anh không thể chờ đợi mãi, anh cũng không thể buông súng. Anh chỉ còn một cách:

- Anh em sẵn sáng chưa?

- Sẵn sàng rồi thiếu úy

- Lời cuối tôi muốn nói với anh em: Tôi cảm ơn anh em đã theo tôi đến tận giờ phút này. Nước mình đã mất, tôi đã không làm tròn bổn phận với Tổ Quốc Dân Tộc. Tính khí tôi cũng không cho phép tôi đầu hàng chịu nhục với kẻ thù. Nay tôi chọn cho riêng tôi cái chết để đền nợ nước. Thái ngắt lời, giọng anh run run vì xúc động “ Tôi biết anh cũng có cùng ý nghĩ, nhưng giờ phút chót anh em vẫn có quyền quyết định,và bất cứ quyết định nào của anh em tôi cũng tôn trọng. Tôi không oán trách anh em gì hết.

- Em theo ông thầy,Thằng Hưng mếu máo

- Em cũng vậy,

Thằng Cậy, thằng Cường tiếp lời.

- Còn tao,t ụi bây bỏ đi đâu?

Tới phiên Tăng Thiên Minh, người Việt gốc Hoa, nhà có của ăn của để, nhưng khoái làm “Nhảy Dù” hơn lính kiểng.

- Ơ, tui thương cái ông thầy, cái ông thầy đi đâu tui theo đó,

Y Kron quả quyết.

- Chết thì thôi, sợ gì.

Thạch Sơn mân mê chiếc nanh

- Đây là lần đầu tiên tôi thua mấy thằng việt cộng, thiếu úy. Thượng Sĩ Nhảy Dù Nguyễn Năm uể oải.

- Được rồi, vậy anh em quây quần lại đây, Thái nói, giọng anh tỉnh táo đến đáng sợ:

- Tôi sẽ đếm một hai ba rồi tôi sẽ rút chốt hai trái lựu đạn. Đó là cách cuối cùng anh em mình sẽ đi với nhau. Anh em đồng ý không?

Bảy người lính gật gù, họ tự động làm thành một vòng tròn, người nầy sát với người kia. Đến phút cuối họ vẫn còn muốn ôm được nhau trong vòng tay.

Thái nhớ đến má, nhớ đến ba, nhớ đến đứa em trai. Hết rồi nhóc ơi, hết còn cơ hội đăng lính Nhảy Dù, hết còn cơ hội đội nón bê-rê đỏ. Chăm sóc ba má dùm anh nha nhóc. Ba ơi má ơi, con sẽ về thăm ba má trong mơ. Vân ơi, anh yêu em.

Thượng Sĩ Nguyễn Năm chợt nhớ kỳ lương tháng này ông đã kịp gởi về cho bà xã. Vậy là mẹ con nó cũng ấm cúng. Ông không buồn, ông chỉ hận vì bao nhiêu năm đánh nhau đây là lần đầu tiên ông thua trận.

Binh nhất Tăng Thiên Minh mỉm cười. Ít nhất cũng được chết trong quân phục Nhảy Dù. Minh nói thầm với má “Má à, con dề dồi nè, má đừng khóc nữa”.

Binh nhất Trần Ngọc Hưng cười toe toét “Giỡn chơi sao em, anh đâu có đào ngũ, bỏ bạn bè với ông thầy của anh được. Không sao, anh sẽ về thăm em luôn, nhớ chăm sóc ba má dùm anh”

Hạ sĩ Nguyễn Cậy đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh để Vinh Danh Thiên Chúa “Lạy Chúa con, con xin phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Xin Chúa gìn giữ thầy mẹ con. Ave Maria con yêu kính mẹ.”

Binh nhì Nguyễn Văn Cường. chợt nhớ mình còn thiếu tiền hai ly cà phê đá chưa trả lần dưỡng quân kỳ trước. Bé Ba ạ, thông cảm cho lính đi em.

Hạ sĩ nhất Ykron mắt bâng quơ nhìn xa xa, miệng thì thầm lời hát quê hương rừng núi. Trong đầu người lính Thượng chất phác chỉ hiện lên ý nghĩ “Ơ tui ghet viet cong”

Trung Sĩ Thạch Sơn mân mê chiếc nanh heo rừng “Tao sẽ đầu thai trở lại để chơi tiếp với tụi bay”

Tiếng đếm của Thiếu úy Nhảy dù Huỳnh Văn Thái, hai mươi bốn tuổi đời, ba tuổi lính hãnh diện đã chiến đấu tới cùng cho Tổ Quốc bằng Danh Dự và Trách Nhiệm nghe rõ mồn một “ Một, hai, ba…”. Và đến tiếng thứ ba, anh rút chốt lựu đạn…


Nguồn: LASAN TABERD | THIẾU ÚY : HUỲNH VĂN THÁI VÀ BẢY CHIẾN SĨ NHẢY DÙ | Facebook

Tuesday, April 29, 2025

Những Ngày Tháng Không Quên - Nguyễn Khôi Việt

 

Những ngày tháng Tư đúng là không quên được. Hàng năm cứ vào khoảng thời gian này, luôn trong lòng thôi thúc tôi viết một cái gì đó, nhưng bao điều đã viết ra hết rồi. Đành lấy bài viết xưa post lên đây, để chúng ta nhìn lại, và có thể, nhỏ chút nước mắt khóc thương cho miền Nam xinh đẹp của chúng ta đã lọt vào tay Cộng Sản.

Ngày 24 tháng 4 năm 1975

Buổi sáng, trời còn tối đen đã ba lô súng đạn lên GMC đi về hướng Trảng Bàng, Tây Ninh, nửa đường thấy pháo 130 ly nổ dọc theo quốc lộ, nó bắn để thị uy chứ xóm ấp hai bên đường đâu có đơn vị bạn nào ở đó, chỉ trúng sập nhà chết dân thôi.

Tiểu đoàn đổ quân xuống Lộc giang để giải toả xã này. Nếu không được thì một đại đội của tiểu đoàn bạn nằm ngoài trại Tân Hoà cạnh bờ sông Vàm Cỏ Đông sẽ đi đứt vì mấy ngày nay bị pháo dữ lắm. Thằng em cũ của mày đấy. Chắc mày mắc nợ nó. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng nói.

Đoàn văn Tiến- Tiến râu - đại đội phó của tôi trước kia, bây giờ qua làm đại đội trưởng của tiểu đoàn khác, lòng vòng rồi cũng gặp nhau. Nó bị vây mấy ngày rồi. Nghe nó báo qua máy truyền tin. Pháo dữ lắm anh, anh không vô được chắc mấy thằng em bị thương hôm giờ chết hết quá. Quên nói nó cũng là anh em kết nghĩa với tôi. Dân Huế, râu quai nón, uống rượu bằng tô. Ngang tàng không ai bằng.

Buổi chiều tối. Tiến quân qua cánh đồng ruộng khô bị khựng lại, liên đoàn báo xuống trên hướng tiến quân có đồn nghĩa quân bị đóng chốt ngay bên ngoài vòng rào, chỉ có hai ba chốt thôi nhưng mấy anh nghĩa quân chịu trận không ra được. Tiểu đoàn trưởng nói đào hố nằm. Đêm xuống, ông kêu bên trong đồn nằm yên không được nhúc nhích bắn chác gì hết. Ngoài này ông đích thân cầm ống dòm hồng ngoại tuyến chỉ huy trung đội thám báo bò vào đánh lựu đạn.


Ngày 25 tháng 4

Cả tiểu đoàn nằm lại bố trí chờ cho dân trong xã chạy ra, không nhiều lắm vì tụi nó kềm chế, không cho dân di tản. Nhưng vẫn phải chờ vì nếu vào sẽ đụng lớn, chỉ chết dân thôi. Lúc này pháo 130 li từ hướng Đức Huệ bên kia sông bắn qua, và từ Chà Rầy mật khu Bời Lời bắn tới. May sao từ sáng đến giờ chưa có em nào bị dính miểng. Pháo 130 li miểng nào miểng nấy bằng cái tô. Có điều họ cũng không bắn vào trong xã. Chắc tại họ đặt bộ chỉ huy trong đó, còn những đám chốt quanh làng bắn AT3(hoả tiễn chống tăng) và 82 không giật ra như mưa. ĐM...chắc hồi nào giờ tụi nó không được bắn. Lính chửi đổng. Từ đầu tháng đến giờ trời không mưa, nắng đổ lửa trên đầu.

Không có đường nào đánh ngang hông. Cả tiểu đoàn tiến theo hình chân chim vào mục tiêu.Pháo nhiều quá. Dễ chừng có đến ba vị trí pháo 130 li đang thả dàn bắn TOT( time on target) vào chúng tôi. Lên được chút nào thì đào hố nằm lại chịu. Hai cây 155 của sư đoàn 25 nằm ở sân banh gần thánh thất Cao Đài bị pháo trúng nổ tan tành, pháo 105 của quận Trảng Bàng cũng bị không khá gì hơn. Bây giờ chỉ còn đánh bằng hoả lực cơ hữu và tác chiến cá nhân mà thôi.


Ngày 26 tháng 4

Đào hố cá nhân nằm hai bên con đường, pháo bắn lai rai dọc theo đường và bìa xã từ sớm đến giờ. Bây giờ thiếu tá tiểu đoàn trưởng bận rộn với dàn hoả tiễn của "ngài" để phản pháo lại vị trí của mấy cây 130 li từ bên kia Vàm Cỏ Đông bắn qua. Hoả tiễn xin bên mấy xếp của Không quân. Phóng bằng ống phóng của trực thăng đặt trên xe Dodge. Hôm đóng quân trong nhà máy đường Hiệp Hoà năm trước, ông chỉ tấm bảng đồng ghi tên vài nhân viên trong nhà máy. Mày nhớ chỗ này nghe. Kiếm cho tao cái cưa sắt. Làm gì thiếu tá. Ăn trộm chứ làm gì mày. Đêm đó hai anh em ngồi cưa được một miếng lớn bằng hai bàn tay. Mấy hôm sau ngài ngồi hì hục mài đục dũa cả ngày. Sau đó ông hớn hở đưa tôi xem công trình hoàn tất là một bảng chia độ cái máy nhắm tự chế cho giàn phóng hoả tiễn của ông. Bắn xa vài cây số không biết sai lệch ra sao. Chứ lúc đánh "chốt, tầm xa 4,5 trăm thước bắn không trật chút nào.

Trong khi người dân chạy tán loạn từ Tây Ninh về Sài Gòn, thì em chạy ngược dòng người, một mình một xe lên kiếm chồng. Không biết làm sao mà cũng mò ra hậu trạm.

Trung uý Trình- đại đội trưởng Chỉ Huy Công Vụ chở em đến chỗ tôi đang bố trí quân. Đang pháo thế này mà chạy xe lạnh mỏ ác quá. Trình càu nhàu. Ông đặc biệt lắm thiếu tá mới để bà ấy vô chỗ này đó.

Nhảy xuống hố cá nhân ngồi nói chuyện trong lúc pháo rải rác khắp nơi, em nói: anh ơi về với em đi. Ở Sài Gòn người ta đi nhiều lắm.

Tôi chỉ cho em thấy 3 trung đội đang bố trí phía trước. Em nghĩ, anh là cái đầu mà dễ dàng bỏ đi vậy à. Em im lặng, nắm tay tôi. Em rất buồn và lo lắng, lúc nào cũng mang vẻ chịu đựng.

Chở em ra ngoài quốc lộ 1, pháo 130 li của chúng nó vẫn bắn dọc theo hai bên đường. Lạ cái là xe đò vẫn chạy. Với dân mình, chiến tranh một lúc nào đó đã làm con người chai lì và cứng cỏi ít có người dân nước nào sánh kịp. Tôi đưa em lên xe. Vì không dám để em chạy Honda một mình trên đường với quá nhiều bất trắc. Chiếc xe sau này lúc kéo quân đi, phải gởi lại Tha La xóm đạo. Mất.


Ngày 27 tháng 4 năm 1975

Chiếm được mục tiêu hoàn toàn vào buổi chiều. Có một chiếc Tinh Long C119 yểm trợ rất chăm chỉ cần mẫn. Đào hố nằm nghỉ lại trong làng, bên cánh trái có tiểu đoàn 1/50 của sư đoàn 25. Cũng nhẹ bớt phần nào. Đi vòng quanh kiểm soát, thấy nhà cửa, dân chúng thật là bi thảm. Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng kêu tôi đi với ông ra bìa làng, trèo lên xà ngang của một căn nhà ngói lớn trổ mái ngói trên nóc nhà, quan sát mục tiêu để vào cứu "thằng em". Chắc tiền sát viên của họ trông thấy, nên bắn gần chục trái 130 li xung quanh. Hai anh em bị sức nổ ép rớt từ trính nhà xuống. Nằm một hồi mới lóp ngóp bò dậy được. Phước đức ông bà không bị sao cả.

Nhưng nỗi lo là làm sao vào cứu "thằng em"ra được. Từ bìa làng tới căn cứ đó là một cánh đồng ruộng khô rất lớn. Chạy hết tốc lực may ra tấp vào được mấy bờ đê. Còn không thì đưa lưng ra cho pháo dập chắc chết hết.

Rồi đến sẩm tối, sau cả ngày bò lăn, lê lết trên cánh đồng, cũng đánh bật hết các chốt chung quanh căn cứ Tân Hoà, "bắt tay" được với thằng em bơ phờ râu ria hốc hác. Nó bị vây và pháo gần nửa tháng chứ ít gì. Anh biết không? Đất trong trại bị pháo riết rồi tơi như cát hết. Nó nói. Mừng cho nó là không có binh sĩ nào chết. Chỉ toàn bị thương. Không có chú nào bị nặng lắm. Nhưng cũng chở đầy một xe GMC thương binh. Đại đội tôi bị thương tám binh sĩ và một chuẩn uý mới ra trường bị thương vào đầu gối. Từ hôm 24 đến giờ chỉ toàn bị thương. Không có ai chết. Hên quá.


Ngày 28 tháng 4 năm 1975

Trung tâm hành quân cho biết là khu ngã ba Vựa heo, tức phía sau lưng, bị Việt cộng đóng chốt. Nên tiểu đoàn 1/50 được lệnh quay trở ra đánh giải toả. Có nghĩa là chúng tôi sẽ nằm trong tình trạng khó khăn hơn với mục tiêu phía trước, địch nằm sau lưng. Rồi khi tiểu đoàn đó ra tới thì nghe trong tần số hành quân những chuyện buồn ngoài dự đoán, là viên trung tá tiểu đoàn trưởng dẫn quân ra thay vì đánh giải toả, thì lại đầu hàng địch quân. Tiểu đoàn trưởng nhận toàn những tin không vui, ông than thở: chúng nó đánh giặc như c...Thấy tình hình mà tao muốn tự tử quá. Pháo bắt đầu nặng hơn. Lúc lội qua một con kinh đào, đại uý Phong tiểu đoàn phó đang đứng trên bờ la hét thì bị một trái 130 li nổ bên bờ kia, hơi ép rơi cái ầm xuống kinh. Mấy thằng em vội vàng nhảy xuống lôi lên. Nghĩ lúc đó tưởng cha này thế nào cũng khó nuôi rồi. Té ra vẫn ngoác miệng nà nà nắm nắm. Ông thần này nói ngọng không chịu được. Nờ thành lờ, lờ thành nờ. Nghe là thấy buồn cười. Mà cả đám lúc đó cười thiệt.Hình như tới một giới hạn nào. Chuyện sống chết đều coi thường. Cười giỡn như không. Dù rằng có lúc cả đám mặt dài ra như mặt ngựa. Nhưng chẳng phải thằng nào cũng ngon lành. Hồi sáng sớm trung uý Hiền, đại đội trưởng đại đội 2 thay đồ dân sự đào ngũ, bỏ đại đội của nó bơ vơ, trốn mất tiêu. Trong khi nguyên đại đội lính tráng còn nguyên không mất ai.

Vẫn còn chiếc Tinh Long C119 bao vùng bắn yểm trợ. Nhưng đột nhiên, lúc đó khoảng 9 giờ tối, khi chiếc này đang chăm chỉ bắn thì cả một rừng đạn phòng không bắn lên nổ như sao trên trời. Đến lúc đó chúng tôi mới biết là Bắc quân đã ở đầy quanh Đức Huệ. Chắc phải vài chục khẩu phòng không bắn lên chứ không ít. Giờ này mới ló mặt ra, chắc để dằn mặt thị uy. Khoảng 11 giờ đêm, nghe tiếng xe tăng từ phía bờ sông Vàm Cò Đông khoàng cách hơn cây số đường chim bay. Tụi nó qua sông. Xe tăng mở đèn sáng choang như ban ngày không chút e dè. Mẹ! Đất nước mình mà nó chạy rần rần coi mình như pha. Tất cả chuẩn bị M72, và lựu đạn. chuẩn bị tử chiến. Nhưng cuối cùng bọn nó chuyển hướng không đi ngay mình mà đi về Đức Huệ.

Lầm lủi trong đêm. Chúng tôi quay ngược trở ra để giải cứu cho bộ tham mưu chi khu Trảng Bàng. Pháo bên địch cứ bắn 3 trái nổ thì lại bắn 1 trái sáng, suốt cả mấy tiếng đồng hồ liền, chắc để họ quan sát xem bên trong có di tản không.. Lúc trung đội thám báo đang cắt dây kẽm gai để bên trong có đường ra. Bên trong pháo binh của mình bắn trực xạ ra hai trái. May mà không có ai bị thương. Khi trước đó đã liên lạc rất chặt chẽ rồi. Chẳng hiểu bên trong họ làm cái gì.


Ngày 29 tháng 4 năm 1975

Kéo quân vào trú trong Tha La xóm đạo. Tới giờ thì đã hoàn toàn mất liên lạc với những đơn vị chung quanh, kể cả trung tâm hành quân. Kệ, cứ kéo vào quán uống cà phê cái đã. Tha La cảnh đẹp thật, vào đó mát rượi với những khóm Trúc hai bên con đường làng. Hèn chi được Dzũng Chinh đưa vào nhạc.

Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng dự tính sẽ đặt mìn giật sập cây cầu từ ngoài bưng vào Tha La, để bộ binh và tăng của Bắc quân không vào theo ngã này được. Nhưng sau thấy chỉ thiệt hại cho xã và dân. Nên thôi.

Chợp mắt được hơn tiếng đồng hồ sau mấy ngày không ngủ. Sẽ di chuyển đêm để về Hóc Môn lập phòng tuyến cuối cùng

Điều đáng nói là khi đơn vị triệt thoái. Ngoảnh nhìn lại lần chót ráng chiều tuyệt đẹp khắp tàng cây cọng cỏ, trên những rặng Trúc vàng khắp Tha La. Phía ngoài xa kia, nơi đầu cầu bìa làng. Tôi thấy trong đồn nghĩa quân, người lính vẫn ngồi trên vọng gác. Và tôi biết chắc rằng, anh hẳn đã nghe tường tận những gì diễn biến qua đài phát thanh Sài Gòn mấy ngày nay.

Đó là hình ảnh cô đơn, lẻ loi nhất, nhưng cũng đầy ấn tượng bi hùng nhất mà tôi không bao giờ quên được. Đó chính là những gì mà người ta hay nói về. Đó là Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.


Ngày 30 tháng 4 năm 1975

Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4. Toàn đơn vị di chuyển về hướng Hóc Môn, ngoại ô Sài Gòn với mục đích lập một phòng tuyến tử thủ, cho dù liên lạc vô tuyến với trung tâm hành quân và các đơn vị bạn không còn nữa. Đâu khoảng xế trưa mở radio nghe thấy Trịnh Công Sơn hát Nối vòng tay lớn mà không khỏi chửi thề. Cả tiểu đoàn đi âm thầm dọc theo bưng Thái Mỹ,sau này nghe nói có tên là nông trường Lê Minh Xuân. Anh và một số sĩ quan mà tôi không rõ đơn vị đi theo đại đội chúng tôi. Đến ba giờ chiều thì chạm địch. Anh bị đạn trúng ngực. Biết là không thể sống được trong tình trạng tuyệt vọng đó, anh nói tôi giữ cái bóp giấy tờ để đưa lại cho vợ của anh. Tôi đã nợ anh một lời hứa và xin anh tha lỗi. Vì đến cuối ngày khi tôi bị bắt thì tất cả những đồ đạc giấy tờ cá nhân, áo trận có cấp bậc của mọi người bị lột xuống chất thành đống và họ đã đốt tất cả. Tất nhiên cái bóp giấy tờ của anh cũng chung số phận. Tôi không quen anh để biết nhà hầu sau này có thể tìm kiếm. Chỉ biết anh là đại úy Lê văn Cang (hay Can ??) trưởng ban 3 Hành quân của quận Trảng Bàng. Xin lỗi chị Cang rất nhiều. Cũng không biết chị có còn sống sót qua cơn binh lửa đó hay không. Ngày ra tù tôi cũng cố gắng hỏi thăm, nhưng biết đâu mà tìm trong thời điểm đó. Thôi, nếu chị còn sống và nếu tình cờ đọc note này, thời gian qua đi tôi nghĩ những đau đớn cũng đã phai nhạt, nhưng nếu chị rơi nước mắt nhớ anh, thì cũng an ủi là trong giờ phút cuối cùng anh Cang vẫn nhớ đến chị và các con: “anh đưa giùm cho vợ tôi, nói là tôi yêu bả”.

Đại đội tôi trong thời điểm cuối này nhiều người đã bị thương rất nặng, tôi không nghĩ họ sẽ được chữa trị và sống sót. Những thương binh đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hoà còn bị đuổi ra ngoài, huống hồ những kẻ bị thương ngay tại trận địa. Xem ra tôi đã mắc nợ và có lỗi với rất nhiều người.

Còn về thiếu tá tiểu đoàn trưởng. Ông đã không vào cùng chỗ với chúng tôi, mà băng trong lau sậy của bưng Thái Mỹ về nhà gần Sài Gòn. Đó là một quyết định khôn ngoan. Ông quá nhiều chiến công. Bắt được ông, điều chắc chắn đó là cái chết.


Ngày đó 2 tháng 5.

Tôi và những người bạn sĩ quan bị bắt vào giờ thứ 25, đêm 30-4 tập trung tại một trường học. Trưa ngày 1 tháng 5 được ra gặp em. Em mắt khóc tiều tuỵ, đứng cách nhau hàng rào kẽm gai. Mất nước rồi anh ơi. Câu nói lập đi lập lại của em ngập với chan hoà nước mắt, được đứng với nhau 15 phút ngắn ngủi, chẳng nói được với nhau thêm điều gì. Cuối tháng chưa có lương, chỉ có đúng mười ngàn đưa cho em vì biết chắc rằng sẽ chẳng có gì để mua bằng tiền của miền Nam Việt Nam được nữa.

Sáng 2 tháng 5 . Bị dẫn đi về hướng bờ sông Vàm Cỏ Đông. Không biết sẽ đi đâu, chúng dẫn đi dọc theo thị xã, vẫn có người dân chạy theo dấm dúi cho chúng tôi chiếc áo, đôi dép, mặc cho đám vệ binh hầm hừ quát tháo. Nhớ hoài cô bé mặc chiếc áo sơ mi còn huy hiệu của trường trung học, chạy theo đưa cho tôi chiếc bánh tét và đôi dép, nước mắt đầm đìa: Anh ơi, mất nước rồi. Y hệt như câu em của tôi hay nói.


Cuối cùng sau hơn nửa tháng đi bộ, băng qua những xóm làng giáp biên giới bị Việt Cộng chiếm từ 72. Những đứa trẻ ốm gầy khẳng khiu, quần áo tả tơi nhưng vẫn chạy theo đám tù binh ném đá và chửi: Tù binh ngoan cố. Chúng tôi tới một trại tù nằm bên kia biên giới Miên, giáp Phước Long. Trại tù đầu tiên của nhiều lần chuyển trại tù sau đó. Trại Nước ngập. Cái tên nghe nhiều khủng bố đe doạ. Bước vào trại, kinh hoàng thêm khi nhìn thấy những thân hình gầy guộc,với những khuôn mặt xanh xao như ma đói, không còn chút sinh khí nằm trên chõng tre, sâu dưới tàn lá của cây rừng rậm rạp, mà tia nắng mặt trời không qua lọt. Nơi đây đã giam giữ những người tù binh trong chiến tranh.

Tôi và em. Đến khi gặp lại nhau lần đầu tiên khi được thăm của tháng 8 năm 1977. Mới biết rằng trong buổi sáng ngày tháng 5 tang thương đó. Khi đoàn tù binh bị dẫn đi trước đó khoảng nửa tiếng. Em đã chạy theo tôi băng đồng, qua suối, qua những trảng ruộng khô nắng bốc khói của ngày tháng 5 để mong được nhìn thấy chồng lần cuối. Vì biết đâu sẽ không bao giờ thấy nhau lần nữa.

Thương em như câu hát: ơn em thơ dại từ trời, thơ dại từ trời, từ trời theo ta, theo ta từ trời. Xuống biển lượm đời, lượm đời ta lên ...

Em tôi ngày ấy. Trong binh biến tao loạn mà chạy từ Sài Gòn xuống kiếm chồng nơi mịt mù bom đạn bất kể sống chết. Và tôi chắc chắn rằng trong thời gian đó. Cũng có trăm ngàn người vợ lính cơm nắm cơm gói, không quản thân mình cam go cùng khổ để kiếm cho ra người chồng lính của mình, dù rằng chỉ còn là một thân xác rữa nát.


Nguyễn Khôi Việt

Ngày Giỗ Của Ba Tôi - Khánh Lưu

 

-Ba con vẫn còn mất tích mà!
Đó là cái lý của mẹ mỗi khi chị em tôi tính chuyện lập bàn thờ cho ba. Mẹ vẫn hy vọng một ngày nào đó ba sẽ đột ngột quay về.

Lần cuối cùng ba về là tết năm Ất Mão nhưng chỉ ở nhà được mỗi ngày Mồng Một là ba phải về đơn vị vì tình hình chiến sự ngày đó nóng lắm. Sau tết, tin từ các mặt trận ngày một xấu. Tây nguyên thất thủ, Quảng Trị đánh lớn rồi thất thủ, quân VNCH rút về Huế rồi co cụm tại Đà Nẵng. Tiếp đến là tin mất Tam Kỳ, Nha Trang, cuối cùng là trận cầm cự đẫm máu Xuân Lộc rồi miền nam thất thủ hoàn toàn.

Từng ấy ngày diễn ra chiến sự, mẹ tôi đứng ngồi không yên. Không đêm nào bà trọn giấc, cứ thấp thỏm lo cho ba tôi giữa làn tên mũi đạn.
Tin Sài Gòn giải phóng qua radio, mẹ tôi thở phào:
-Vậy là hoà bình rồi! Hết đánh nhau rồi! Ba con sẽ sớm trở về thôi.
Bà hy vọng sẽ một đêm có tiếng gõ cửa đánh thức để bà được ôm ba tôi khi ông đột ngột xuất hiện. Rồi tiếng gõ đợi chờ cũng đến. Đêm đó nghe tiếng gõ, mẹ bật dậy sung sướng: “Ba con về!”. Bà ào ra mở cửa. Bà và hai chị em tôi sững người. Không phải ba mà là ba người cách mạng. Một người mặc đồ dân sự, hai người còn lại mặc đồ bà ba mang súng.
Mẹ tôi mời họ ngồi. Người cán bộ dân sự từ tốn:
-Tôi đến hỏi tin tức anh nhà. Đã hơn một tháng vẫn chưa thấy anh ấy lên trình diện chính quyền cách mạng.
Lúc đầu mẹ tôi nghe sợ nhưng nghe người cán bộ nói mẹ cũng an lòng, bà đáp:
-Tôi cũng mong anh ấy về hoặc tin tức về anh nhưng đến nay vẫn chưa thấy. Khi nào ảnh về tôi sẽ bảo ảnh nhanh lên trình diện. Gia đình cũng mong các anh giúp đỡ, nếu có tin tức gì về chồng tôi xin báo cho gia đình tôi biết.
Họ đi ra, để lại niềm hy vọng cho mẹ tôi hết tính bằng ngày, chuyển qua tháng rồi tính bằng năm. Ba tôi vẫn biền biệt.

Những ngày sau đó là những ngày khốn khổ. Gia đình tôi là gia đình nguỵ quân. Mẹ tôi xoay xở đủ thứ để lo cho ba miệng ăn. Của cải rồi vật dụng trong nhà từ dây chuyền, hoa tai sau đến quạt máy, bàn là… cái gì bán được mẹ cũng bán để lo cho cuộc sống khốn khó của ba miệng ăn.

Chị em tôi đi học lại nhưng ba năm sau chị phải ở nhà cùng mẹ bươn chải, bán bánh, bán xôi ở bến xe để có tiền lo cho cái ăn cái mặc và để nuôi tôi đi học. Khổ quá, dù cật lực cũng không đủ ăn, chị tôi xin đi công nhân đường sắt. Mẹ tôi thương con rướm nước mắt nhưng không còn đường nào khác. Tôi cũng muốn nghỉ học để đi kiếm việc làm nhưng mẹ nhất quyết không cho. Mẹ buồn buồn: “Chị con nghỉ học giữa chừng mẹ đau lòng lắm rồi, con mà nghỉ nữa, ba về mẹ ăn nói với ba sao đây!”
Mẹ tôi vẫn hy vọng. Khắp trại cải tạo từ nam ra bắc, ai bà biết có người thân cải tạo cũng nhờ hỏi tin tức về ba tôi. Bà vẫn đợi chờ, không có tin trong nước, bà mong tin từ nước ngoài. Biết đâu ba tôi đã được định cư ở một quốc gia nào đó.

Tôi tốt nghiệp cấp 3, định nộp đơn thi vào đại học nhưng đơn tôi đã bị gạt khi chưa kịp đến “vòng gửi xe” vì lời nhận xét trong lý lịch:
Cha: Đại uý, sĩ quan ác ôn nguỵ.
Tôi chán nản không thiết gì với tương lai giờ chỉ lo tìm việc gì kiếm được tiền giúp mẹ.

Nghe ý định mở quán sửa xe đạp, mẹ tôi ủng hộ. Bà chắt bóp đồng tiền kiếm được và vay mượn thêm mua cho tôi bộ đồ nghề. Nhà tôi mặt phố nên tôi làm quán sửa xe ngay tại nhà.
Từ sửa xe đạp tôi mày mò tìm hiểu rồi sửa được xe máy honda. Tuy không khá mấy nhưng cũng có được đồng tiền giúp mẹ. Năm năm sau chị tôi lấy chồng xa, mẹ tôi cũng yếu dần vì gánh xôi trên vai mẹ. Một hôm mẹ về bảo tôi:
-Con nè! Mẹ nghe ngoài bến xe họ nói là từ nay thi đại học họ bỏ xét lý lịch. Hay là con nộp đơn thi thử.
Tôi cười buồn:
- Năm năm rồi, chữ thầy đã trả cho thầy, còn nhớ chi đâu mà thi hả mẹ!.
Mẹ vãn động viên:
- Con từng là học sinh giỏi nhất trường mà! Con thử ôn  lại hay đi học thêm, mẹ dành dụm được ít tiền chắc cũng đủ cho con học.
Tôi tìm hiểu và đúng như mẹ nói. Trong công cuộc “mở cửa” nhà nước đã bước đầu “mở trói”, bớt phân biệt thái độ chính trị, trước hết là cho thành phần con em gia đình dính líu đến chế độ cũ được học đại học.
Tôi bỏ ra ba tháng ôn luyện kiến thức cơ bản, vốn gần như quên sạch. Sau đó bằng đồng tiền tích cóp ít ỏi, tôi lùng mua các cuốn sách luyện thi đại học. Tiền mẹ cho, tôi xin ghi tên học mấy khoá luyện thi đại học cấp tốc.
Đúng vậy, lần này làm lý lịch, phần chứng nhận của phường chỉ ghi: Lý lịch khai đúng như hồ sơ tại địa phương. Tôi nộp hồ sơ thi vào đại học kinh tế.
Tôi đậu đại học. Mẹ tôi mừng phát khóc khi tôi đọc điểm thi trên giấy báo khá cao để khoe mẹ.

Tôi vào trường đại học trong điều kiện cực kỳ khốn khó. Chị tôi không đủ sức lo cho gia đình chị thì làm sao có thể giúp tôi. Đôi vai mẹ cũng không còn sức nuôi tôi trên gánh xôi đi - về của mẹ. Tôi chống chọi với miếng ăn nơi thành phố đã khó huống gì việc học. May mà trong cái khó ló cái khôn. Trường đại học có một khoảnh đất hẹp, cỏ mọc giáp đường. Tôi lên ban giám hiệu trình bày hoàn cảnh, xin được đặt tạm cái lều chỗ đó để làm quán sửa xe. Thông cảm hoàn cảnh của tôi, nhà trường đồng ý. Vậy là tôi đã có cần câu cơm. Một buổi đi học, một buổi tôi thay bộ đồ, làm anh thợ sửa xe bên cái quán tềnh toàng với cái tên rất gợi: “Quán sửa xe Sinh viên”. Tôi sửa chủ yếu xe đạp cho sinh viên. Giá cả cũng rất “sinh viên” vì ai cũng nghèo mà!

Qua gần 4 năm tôi bám trụ “cần câu cơm” để học và để mơ về tương lai của mình. Có lẽ ở trường tôi là sinh viên nổi tiếng với 3 cái nhất: Sinh viên già nhất, nghèo nhất và… giỏi nhất khoá.
Giữa học kỳ 1 năm cuối, trường có buổi hội thảo về thị trường Châu  Âu. Diễn giả là một tiến sĩ người Thuỵ  Sĩ, Dr Moolie Hoods. Sinh viên tham dự phần lớn do tính hiếu kỳ vì ngày đó khái niệm “kinh tế thị trường” còn lạ lẫm lắm, có lẽ trừ tôi ra. Từ khi đọc được cuốn Economics: An Introductory Analysis của nhà kinh tế học người Mỹ, Paul Samuelson, tôi hiểu rằng kiến thức kinh tế học được ở nhà trường chỉ là hạt cát, nhiều khi những điều học từ giáo trình xem ra rất phản quy luật. Do vậy được tham gia dự thính buổi hội thảo với tôi là cơ hội quý giá nhất để hiểu biết thêm về nền kinh tế châu  Âu tư bản.

Tôi chăm chú nghe ngài Hoods giới thiệu về kinh tế châu Âu trong giai đoạn tiền hợp nhất thành EU và tương lai sắp tới mà cứ há hốc mồm. Tôi không cần nghe qua phiên dịch, thậm chí người phiên dịch trong nhiều ngữ cảnh dịch rất tệ. Tiếng Anh với tôi cũng không khó khăn gì vì từ hồi 5 tuổi, ba tôi đã gửi tôi vào trường của hội Việt - Mỹ nên sau 7 năm, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ thứ hai của tôi rồi. Thời gian gần đây tôi thích tìm đọc các sách báo bằng tiếng Anh và nghe đài nước ngoài nên vốn liếng Anh ngữ của tôi ngày được nâng cao.

Sau bài giới thiệu về nền kinh tế châu Âu, ngài Hoods khuyến khích sinh viên đặt câu hỏi để ông trao đổi, trả lời. Chỉ một vài sinh viên đứng lên dè dặt đặt câu hỏi mà kiến thức chủ yếu không vượt qua được những gì tiếp thu tại giảng đường.
Vẻ thất vọng thoáng hiện trên khuôn mặt ngài Hoods. Đợi không còn ai hỏi nữa, tôi đứng dậy đặt câu hỏi bằng tiếng Anh. Mắt ông sáng lên đầy thú vị vì chỉ có tôi là sinh viên trao đổi trực tiếp bằng tiếng Anh với ông.

Diễn đàn trở nên hấp dẫn vì cuộc trao đổi và tranh luận bằng tiếng Anh chỉ có tôi và ngài Hoods. Sinh viên chủ yếu ngồi nghe chứ phần lớn không hiểu hết chúng tôi tranh luận về đề tài, nội dung gì, chỉ biết rằng họ rất ngưỡng mộ mỗi khi tôi đối đáp bằng tiếng Anh và được ngài Hoods gật đầu kèm với nụ cười.

Buổi chiều, khi tôi còn loay hoay trong bộ đồ dính đầy dầu mỡ để sửa xe thì bỗng nghe tiếng gọi: “Hi!”. Tôi ngẩng lên thì ngài Hoods tay cầm máy ảnh vừa nháy tôi một pô. Tôi đứng dậy chào, đưa tay bắt nhưng sực nhớ tay mình đang nhem nhuốc, định rụt về thì ngài đã bắt tay tôi lắc mạnh, cười tươi thân thiện: “No problem! you’re good!”. Tôi lấy chiếc ghế đòn, phủi bụi mời ông ngồi. Ông đưa máy ảnh chụp “gara” tôi thêm vài kiểu nữa rồi ngồi xuống ghế. Cứ tưởng sau buổi hội thảo khi sáng ông đã đi rồi. Ông bảo đoàn ông còn buổi chiều làm việc với nhà trường về việc tài trợ học bổng tương lai. Người phụ trách đoàn ông đang làm việc với ban giám hiệu, ông tranh thủ dạo chơi quanh trường chụp mấy kiểu ảnh làm kỷ niệm và không ngờ gặp tôi nơi đây. Ông hỏi tôi về gia đình, về tài chính học tập. Tôi kể sơ về hoàn cảnh của mình và cười chỉ bộ đồ nghề sửa xe bảo là “nhà tài trợ tài chính” cho tôi suốt 4 năm đại học. Ông cười, trong nụ cười chứa đầy thông cảm. Cuối buổi ông hỏi tôi là có khi nào nghĩ đến du học nước ngoài không? Tôi lắc đầu bảo là tôi sống được để học là nhờ cái “gara” này thì lấy tiền đâu mà ra nước ngoài. Chỉ mong học xong có được việc làm là mừng lắm rồi.
Ông chia tay tôi bằng nụ cười với ngón tay “number one” cùng với một lời khen: “good!”

Một tháng sau, một người bạn học báo là tôi có thư từ nước ngoài. Tôi mừng phát run, chạy lên văn phòng khoa. Cứ nghĩ là ba tôi ở một nơi nào đó gửi về. Nhưng khi nhận thư, xem lại là thư ngài Hoods gửi cho tôi. Tôi đọc thư. Dr Hoods kể rằng đã đọc qua học bạ của tôi, về nước ông đã trao đổi với  viện công nghệ danh tiến của Thuỵ Sĩ là ETH Zurich và xin cho tôi được 1 suất học bổng toàn phần để làm luận án Master sau khi tôi tốt nghiệp đại học. Kèm theo thư là các tài liệu giới thiệu về trường  ETH Zurich cùng các mẫu đơn và bản hướng dẫn về hồ sơ xin học bổng.
Dù không phải thư của ba nhưng tôi mừng khôn xiết. Úp lá thư ngài Hoods vào ngực tôi nhắm mắt cho cơn mơ vượt khỏi dải đất hình chữ S bay đến tận trời  Âu.

Tôi tốt nghiệp với tấm bằng loại giỏi. Theo hướng dẫn, tôi làm đơn và gửi cho viện ETH Zurich rồi chờ đợi. Một tháng, hai tháng tôi đợi thư trả lời từ Thuỵ Sĩ nhưng đến tháng thứ ba thì hy vọng trong tôi tắt lịm. Tôi lại quay về thực tại là mơ ước được một chân nhân viên quèn ở bất kỳ công ty nào để có việc làm.
Trong cơn tuyệt vọng thì ngài Hoods như từ trên trời rơi xuống. Ngài quay lại Việt Nam tìm tôi vì tin chắc có chuyện không hay nào đó xảy ra với tôi vì ngài đã liên hệ với viện ETH Zuủich. Họ báo rằng đã gửi thư chấp nhận đến 2 lần  nhưng không thấy tôi liên hệ lại. Khoá học mới đã học 1 tháng nhưng không có tên tôi nên ông quyết định sang tìm tôi. Khi biết tôi chưa nhận được bất cứ thư nào, ông đã hiểu ra. Ông cầm tay tôi động viên: “Đừng từ bỏ hy vọng, anh bạn trẻ! Tôi sẽ làm hết sức mình”.

Ông chia tay tôi bay ra làm việc và nhờ đại sứ quán Thuỵ Sĩ tại Hà Nội can thiệp. Chưa đến một tuần, hai thư chấp nhận của viện ETH Zurich gửi các tháng trước đã đến được với tôi.
Nửa tháng sau tôi từ giã mẹ và chị, bay qua châu  Âu bằng vé máy bay do ngài Hoods tài trợ.

Năm sau, tôi đã xong luận án Master rồi được luôn học bổng toàn phần để lấy bằng tiến sĩ về kinh tế tại viện ETH Zurich danh giá. Thời gian học tập tôi luôn được sự giúp đỡ chân tình của Dr Hoods. Ông là ân nhân, là bạn và là đối tác của tôi sau này. Ngày nhận bằng tiến sĩ, tôi không có mẹ bên cạnh để tri ân nhưng tôi được hân hạnh có ngài Hoods thay mẹ trong buổi vinh dự trao bằng. Ngài rất tự hào về tôi. Hôm sau, một tờ báo Thuỵ Sĩ với tít: From a bicycle repair student to a doctor of the prestigious university.
(Từ một sinh viên sửa xe đạp đến tiến sĩ của một đại học danh tiếng)
Bài báo với hình tôi ngồi sửa xe mà Dr Hoods chụp năm xưa cùng với hình ảnh tôi tươi cười nhận bằng tiến sĩ hôm qua chiếm hẳn một trang báo. Thì ra bài là của Dr Hoods viết về tôi.
Từ bài báo này, cùng với lời giới thiệu của Dr Hoods mà Viện Nghiên cứu chiến lược kinh tế Đông Nam Á Thuỵ Sĩ  (gọi tắt là IESSAS) mời tôi về làm việc.
Một năm sau, IESSAS mở văn phòng đại diện tại Việt Nam ngay trên thành phố quê tôi,. Tôi được cơ hội trở về với quê hương cùng mẹ, cùng chị.

Tôi trở thành cầu nối giữa Việt Nam - Thuỵ Sĩ về quan hệ kinh tế. Các nhà đầu tư Thuỵ Sĩ qua giới thiệu của tôi đã đầu tư rất nhiều dự án tại Việt Nam đặc biệt là tại thành phố nơi tôi sống. Trường đại học kinh tế nơi tôi từng học, qua mối quan hệ với Dr Hoods tôi đã tìm được nhiều suất học bổng sau đại học cho các khoá sinh viên sau này.

Trên Facebook cá nhân, tôi đặt ảnh ba tôi làm avatar và hình nền là ảnh tôi ngồi sửa xe năm xưa mà Dr Hoods chụp tặng tôi. Thỉnh thoảng mở facebook, tôi lại được nhìn ba tôi cười. Nhìn chân dung thời trai trẻ trong bộ quân phục lính dù mà tôi thầm ngưỡng mộ. Cám ơn ba, cuộc đời này con luôn tự hào được là con trai của ba. Tôi nhìn hình nền để được nhắc nhở rằng: Dù hôm nay tôi có là tiến sĩ danh giá thì quá khứ năm xưa, tôi đã từng là cậu sinh viên sửa xe đạp để tự nuôi mình.

Một đêm, nghe messenger báo tin nhắn, tôi tỉnh thức, nhìn màn hình điện thoại, có ai đó nhắn cho tôi:
-Xin chào!
Tôi nhắn lại: “Xin chào!”
Nhìn nick name là John Le, tôi đoán là một Việt kiều. Người đó nhắn tiếp:

-Xin lỗi, cháu có phải là con trai của đại uý Giang, Hoàng Thanh Giang, không?
Tôi bật dậy, tim đập dồn. Tôi nhìn avatar của người đang chat. Đó là người đàn ông ở tuổi 70 trong quân phục lính dù, mũ đỏ giống quân phục ba tôi. Đôi đáp:
-Dạ, đúng rồi, con là con trai của ba Giang. Bác biết ba con à?
-Bác là trung uý Tá, Lê Văn Tá là đại đội phó của ba con.
Tôi mừng rơn mà tim đập thình thịch.
-Vậy bác có biết tin tức gì về ba con không?
Bác không đáp mà hỏi lại: - Vậy từ đó đến nay con không có tin tức gì về ba à?
-Dạ không, con và mẹ không biết ba còn hay mất.
Một lát lâu bác nhắn lại: - Ba con mất rồi!
Dẫu biết câu trả lời sẽ không chút hy vọng nhưng lời chat của bác làm tôi không khỏi bàng hoàng.
-Ba con mất ở đâu? Khi nào? Bác biết không?
-Ba con mất trên cầu Sài Gòn vào buổi sáng 30/4/1975.
Rồi bác kể: Sáng hôm đó đại đội ba tôi chỉ còn hơn 10 người. Vì bị truy kích nên phải rút về cố thủ trên cầu Sài Gòn. Cuộc giao tranh ác liệt vẫn chưa dừng lại. Quân số và súng đạn không thể đối chọi với quân giải phóng. Phải rút tiếp thôi! Ba tôi cùng hai đồng đội bò lên phía trước thu hút hoả lực địch để toán còn lại phía sau có cơ hội thoát lui. Khi trung uý Tá cùng các chiến hữu về được bên trong cầu Sài Gòn thì hoả lực đã nổ tung khiến thân xác ba tôi cùng hai chiến hữu của ông bị hất tung lên rồi rớt xuống sông. Khi trung uý Tá rút về đến ngã tư Hàng Xanh thì trên loa truyền thanh, Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng và yêu cầu các lực lượng quân đội VNCH bỏ súng.

Tôi ngồi úp mặt vào lòng hai bàn tay. Tưởng tượng lại phút giây chiến đấu không cân sức nhưng bi hùng của ba tôi năm ấy trên cầu Sài Gòn mà nước mắt giàn dụa. Bình tâm lại tôi gọi điện thoại cho mẹ. Mẹ tôi nghe máy khi nghe tôi báo là đã có tin tức của ba. Câu đầu tiên mẹ hỏi là “ba con giờ đâu rồi?” Tôi ngậm ngùi kể lại nội dung vừa chat với bác Tá. Mẹ tôi im lặng nghe tôi kể, khi tôi nghe mẹ nấc lên trong điện thoại là mẹ tắt máy.
Ngày hôm sau mẹ điện thoại bảo là tôi đưa mẹ vào cầu Sài Gòn được không? Tôi bảo được. Chiều hôm sau, theo chuyến bay, mẹ, chị và tôi vào Tân Sơn Nhất rồi đón taxi đến cầu Sài Gòn.

Chúng tôi đi bộ dọc theo thành cầu mà mường tượng trận đánh cuối cùng năm xưa. Cầu Sài Gòn người xe như mắc cửi. Dưới cầu, sông Sài Gòn lượn lờ mang những mảng lục bình trôi về biển. Trong dòng nước bao la ấy, thân xác, thịt da ba tôi cùng với bao người của hai chiến tuyến và những người dân vô tội năm xưa, bao năm nay đã bị rửa trôi về cùng biển mặn. Chiến tranh đã lùi xa nhưng nỗi đau vẫn còn ở lại với bao người trong đó có gia đình tôi. Mẹ thẩn thờ nhìn những mảng lục bình trôi xuôi như cố tìm dáng hình ba tôi trong ấy.
Qua đến bên kia cầu, tìm được nơi, tôi thắp bó hương rồi trao nửa bó cho mẹ, nửa còn lại chị em tôi chia ra cắm xung quanh. Mẹ tôi quỳ hướng về sông, lâm râm khấn. Chắc trên trời ba tôi đã hiểu nỗi đau trong lời khấn của mẹ. Bà đã đi gần nửa thế kỷ trong thân phận  người vọng phu. Mẹ tôi cắm phần hương trên mô cát gần đó để mặc cho làn khói bay xa. Tôi mong sao làn khói kia cuốn bớt nỗi đau trong lòng mẹ. Hương tàn hơn nửa, tôi bảo mẹ:
-Thôi mình về đi mẹ.
Mẹ không quay lại, giọng buồn buồn:
-Hãy để hương cháy thêm lát nữa đi con.
Hai chị em tôi lặng im, chắp tay đứng sau lưng mẹ, cứ để mẹ thì thầm từ tận đáy lòng với ba tôi trong cõi hư vô. Nén hương cháy hết, tắt hẳn, mẹ mới quay lại gật đầu: - Mình về thôi các con!

Vậy là gia đình tôi chọn 30/4 là ngày giỗ ba tôi. Hôm nay là ngày giỗ đầu tiên của ba. Gia đình cũng vừa nhận được tin vui là bác Tá, chiến hữu của ba cũng về dự giỗ. Bác bảo rằng đây là lần về Việt Nam đầu tiên kể từ ngày bác định cư ở Mỹ. Trước khi đáp chuyến bay tiếp theo về thăm gia đình tôi, bác sẽ đến cầu Sài Gòn thắp hương tưởng niệm ba tôi cùng đồng đội bỏ mình ngày đó. Hy vọng cuộc tương phùng này, qua bác, gia đình tôi sẽ biết thật nhiều về đời binh nghiệp của ba, đặc biệt là trong những ngày cuối của cuộc chiến.

Sáng nay tôi dậy sớm, sửa sang và dâng hoa bàn thờ ba trước khi đi dự buổi lễ kỷ niệm ngày “Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước” do Uỷ ban nhân dân thành phố mời. Vì tính chất trong quan hệ đối ngoại giữa cơ quan đại diện viện nghiên cứu với cấp chính quyền sở tại mà tôi không thể không dự.

Buổi lễ diễn ra hết sức "hoành tráng"v. Trước khi vị chủ tịch đọc diễn văn là các màn trình diễn múa vui văn nghệ. Các bài ca đi cùng các vũ điệu tái hiện những giây phút hào hùng của ngày chiến thắng năm xưa.


Vị chủ tịch lên đọc diễn văn kỷ niệm ngày chiến thắng. Các điệp khúc “Mỹ cút, nguỵ nhào”, “Chiến thắng vinh quang dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng” gần nửa thế kỷ được lặp lại trong giọng đọc đầy tự hào của vị chủ tịch. Trước khi kết thúc buổi lễ, dàn đồng ca lên sân khấu hát vang bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tôi quay lại, chỉ có quan khách ngoại giao nước ngoài, kể cả tôi là còn ngồi. Hầu hết hội trường đều đứng dậy hát theo trong nhịp vỗ tay tự hào.

Khi người dẫn chương trình tuyên bố bế mạc, tôi đứng dậy. Vị chủ tịch thành phố tiến đến tươi cười bắt tay tôi. Ông cám ơn tôi vì đã tham dự cùng với lời mời trân trọng:
-Hôm nay là kỷ niệm ngày chiến thắng, Uỷ ban có tổ chức buổi tiệc trưa long trọng, xin mời anh đến dự.
Tôi cười đáp lại: - Rất cám ơn lời mời của anh nhưng trưa nay tôi không thể.
-Anh bận việc gì à? Vị chủ tịch hỏi lại, tôi rời bàn tay ông còn đang nắm chặt, trả lời:
- Hôm nay là ngày giỗ ba tôi.


Khánh Lưu