Saturday, April 12, 2025

Áo Dài Ba Miền Việt Nam Và Thơ - Nguyễn Duy Phước

Quốc Thể Cho Ai? - Nguyễn Tiến Tường


1. Thi thoảng nhìn tấm khăn len trên vai người con gái Việt ở miền Nga giá buốt, nghe một điệu hát quê hương bên ánh lửa xứ Lào, lòng tôi rức lên một cảm xúc hỗn mang.

Tôi vui vì đồng bào tôi tìm được một nơi cho họ một cuộc sống khác. Tôi cũng buồn, trong mắt của những người viễn xứ luôn có điều gì đó buồn bã, tiếc nuối.

Bạn tôi ở Úc, lấy vợ Việt. Vợ 17 tuổi làm lễ rồi đợi đủ tuổi làm đăng ký. Đợi thêm vài năm để vượt qua các cuộc sát hạch của xứ bạn. Họ kiểm tra cả những tấm hình trước kết hôn để chắc rằng họ không đính hôn giả.

Anh tôi sang Úc tìm đường cho các con mai này. Anh làm công việc cắt thịt, làm cả hai ca, là một điều cấm. Ngày làm đêm ngủ, bàn tay bấy máu. Anh live stream về cho chị, hai người tươm nước mắt…

Những người quen tôi những tháng đi về để giữ điều kiện nhập tịch. Họ bảo cô đơn và lạnh lẽo, buồn lắm nhưng vì con.


2. Úc, Mỹ Canada… với những chính sách nhập cư hà khắc, không còn là “thiên đường” của người Việt. Nó chỉ còn rộng cửa với người giàu. Mỗi năm tầm 9 tỷ đô ra nước ngoài, theo các chuyên gia. Và trong số những người giàu đó, chắc rằng không ít quan chức.

Thiên đường thứ hai của người Việt hiện tại hầu hết là Đông Âu, để lưu lại được vào Nhật, Hàn cực khó. Mẹ bạn tôi ở Nga bao nhiêu năm, đến khi xế bóng muốn về quê nhưng hai bàn tay trắng. May mắn sao bạn tôi có chút công danh như ý, đón mẹ về.

Nước Lào đang là lựa chọn mới nổi. Người miền Trung sang bên đó làm gỗ, làm ve chai. Mấy lúc nhàn rỗi lại về. Họ dắt díu nhau đi tìm đất sống. Nước Lào hiền dịu cưu mang rất nhiều người con quê tôi.

Ly hương là lựa chọn nghiệt ngã. Càng nghiệt ngã hơn cho những con người “sống chui” nơi đất khách. Nép mình trong phòng sợ hãi. Chờ siêu thị hết giờ để lấy thịt hết hạn, ăn nội tạng mà người ta không ăn…


3. Tôi không cổ suý đồng bào tôi ra đi. Nhưng tôi lấy gì để níu họ ở lại? Tôi nhìn vào thực tế đắng cay: Ai cũng muốn ra đi. Tài năng chất xám ra đi, người giàu có ra đi, tôi chưa bao giờ trách họ.

Tôi trách quốc gia. Một quốc gia để công dân của mình không có đất sống, phải ngậm đắng ra đi lựa chọn cuối cùng. Quốc gia mà đến y tế và giáo dục người ta cũng tìm đường tị nạn. Đến cả việc dồn dân đô thị cũng không còn đất cho người nữa rồi.

Tôi trách quan chức. Họ cũng là những kẻ ra đi. Nhưng là đi trong nhung gấm. Tài sản ở nước ngoài, con cái ở nước ngoài. Tiền đó ở đâu? Chắc chắn là góp lại từ những mảnh đời của nhân dân tôi lam lũ.

Nhân dân đánh bạc với cuộc đời cũng chỉ để mong chắt mót một chút của cải từ viễn xứ mang về quê hương, cho mình và cho người xung quanh mình. Họ có thể sai nhưng có gì đáng tội?

So với quan chức vơ vét quê hương để mang đi vương giả đầm ấm ở thiên đường, ai mới là tội phạm?

Quốc gia rừng vàng biển bạc đã không nuôi nổi những công dân lương thiện. Để họ phải vượt sóng xé trời tìm nơi khác. Quốc gia ấy lấy tư cách gì đòi hỏi nhân dân giữ gìn quốc thể?

Quan chức ăn là mặc lượt đu bám những chuyến xuất ngoại. Quan chức mang cả vợ con bằng tiền của nhân dân đi du lịch shopping có nghĩ đến quốc thể hay không?

Đừng nói về quốc thể. Khi quốc thể của các người là miếng bít tết vào mỗi buổi sáng, còn quốc thể của nhân dân là tô cơm hẩm cuối chiều!”

 

Nguyễn Tiến Tường

Mẹ Tôi, Người Vợ Lính Miền Nam - Trang Diệp


Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt.

Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi "thất tình", đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng "chưa có ai" khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.

Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.

Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!

Chiến tranh leo thang trong giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài..., tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.

Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch "ngụy quyền" và có chồng đi "học tập cải tạo" không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.

Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.

Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là "gian khổ chập chùng", phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.

Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.

Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.

Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người. Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau; có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói "Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn". Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.

Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.

Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.

Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.

Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.

Cầu mong cho những tháng ngày còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.


Trang Diệp

Share Lại Người Lính Già TQLC

Nửa Hồn Thương Đau - Thanh Tâm Tuyền - Ca Sĩ Thông Minh Nhân Tạo

Friday, April 11, 2025

Chuyện Người Cựu Thiếu Sinh Quân - Người Phương Nam


 
Tôi quen biết một anh cựu sĩ quan xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu khi tham gia sinh hoạt trong một Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh. Anh có nickname là "Tùa Hia" vì anh có một quá khứ "ngầu", lại vui tính thân thiện với mọi người nên rất được các bạn mến mộ, nhứt là các nàng đều coi anh như đại huynh trong nhóm cho dễ bề nhõng nhẽo. Một bữa nọ, khi tôi nhận được youtube "Hồn Nước Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam" *, từ một người bạn email, thấy trong đó có đọan vinh danh trận tử thủ oai hùng trong quân sử ngày 1/5/1975 của những thiếu sinh quân 15-16 tuổi, những đứa con mồ côi của quân đội, tôi vội chuyển cho anh xem vì nghĩ rằng anh bận đi làm không có giờ lục lạo trên net.

Ai dè hôm sau tôi nhận được hồi âm của anh. Anh viết rằng:

Cám ơn muội muội đã chuyển cho huynh cùng xem.   
Muội hãy xem lại YouTube này (rất hay), ở phút khoảng 30, họ nói về trận đánh sau cùng và buổi lễ "Hạ Kỳ" cuối cùng trên toàn lãnh thổ của VNCH vào ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Mấy đứa em TSQ đã cầm đầu trong "Trận Đánh Cuối Cùng" ở trường TSQ là "đệ tử ruột" của huynh.  Cấp chỉ huy đã "tử thủ" sau cùng... cũng là anh của huynh. 

TSQ sau khi ra trường sẽ gọi là Cựu TSQ hay AET và sẽ mang một huy hiệu nhỏ (pin) có chữ AET.  Tất cả các AET trên toàn thế giới đều mang một huy hiệu giống nhau vì đây là một tổ chức của "Liên Hiệp Pháp". AET là 3 chữ viết tắt của tiếng Pháp: Ancient Enfant de Troupe.  Về sau, tụi này dịch chạy ra là: Anh Em Ta!.   Tất cả các AET sẽ gọi nhau bằng anh em chứ không gọi theo tuổi tác hay cấp bực.

Khi ra trường TSQ, huynh được tiếp-tục học ở trường Quân Y.  Nhưng chỉ học được 9 tháng thì bị đuổi ra khỏi trường Quân Y và đày ra tác-chiến.  Phục vụ cho đơn vị Nhảy Dù trong một thời gian ngắn, Huynh lại bị bắt về để học ở trường VBQG/Đà-Lạt.  Nói là đi lính lâu năm, nhưng hầu hết tuổi lính của huynh đều nằm trong các quân trường!..  

Huynh có gặp lại vài em TSQ đã cầm đầu cho cuộc tử thủ ở trường TSQ vào ngày 30/4/75 và 1/5/75. Hai em mà huynh gặp lại được là em Lâm A Sáng ở Toronto/Canada và em Nguyễn Anh Dũng,Colorado. Hai em này có tường thuật lại cuộc tử thủ và buổi lễ "Hạ Kỳ" cuối cùng của VNCH trên các trang mạng về quân đội VNCH.     
Không những là "đệ tử ruột" ở trường TSQ, hai em S và D cùng nhiều em TSQ khác, còn là "đệ tử" của huynh khi sinh hoạt hướng đạo với hội đoàn Hướng Đạo/ Vũng-Tàu.  

Các em TSQ từ những năm 70 trở về sau đều biết huynh và xem huynh như là "thần tượng" của họ. Vì lúc đó huynh là Liên Đoàn Trưởng của Trường (có 1,400 TSQ). Huynh lại là Trưởng Ban Nhạc Nặng (quân nhạc), Trưởng Ban Nhạc Nhẹ (nhạc sân khấu) của trường. Năm 1971, huynh lại lãnh giải vô địch đai đen/Thái Cực Đạo/ cấp toàn quân.  Thấy huynh "nổ" dữ chưa???...   

Cũng trong YouTube này, ở vào phút 33 - 35... có đọan phim quay lúc trường TSQ đi diễn hành ở Sài-Gòn vào năm 1971.  Người đi đầu cho toán diễn hành của trường, đang chào tay khi đi ngang qua khán đài chánh... là huynh đó!.  Vì đang "chào tay" nên muội  không thấy được mặt, chỉ thấy được dáng người.  Mà dầu có thấy được mặt, muội cũng hỏng biết là ai??.. vì lúc đó huynh còn "nhỏ xíu"!!!...   

Sau 75, Huynh chỉ đi "học tập cải tạo" 6 tháng, vì huynh "thức thời" biết người biết ta, khai mình là khóa sinh SVSQ tép riêu thôi chứ không dại gì khai thiệt để bị "cải tạo" mút mùa!.  Sau đó, Huynh lại bị "nhốt" trở lại về tội "âm mưu lật đổ nhà nước cộng sản". Lần này, huynh lại được các em TSQ giải cứu. Trong số đó, có 1 em là cháu ngoại của Tổng Thống Trần văn Hương... đã "húc tù" và đưa huynh xa lìa VN. 

Bây giờ thì muội biết thêm nhiều về cuộc đời của Huynh. Có lần, một cô em trong nhóm đã thắc mắc: 
     - Em biết đại huynh rất "võ biền", nhưng sao em thấy huynh rất Cool chứ không ồn ào hay quá khích như mấy ông quân đội mà em từng quen biết??...  
Huynh trả lời: 
      - Vì Huynh là đại huynh của tụi em, huynh phải làm gương cho tụi em biết lúc nào mình phải cần "buông xuống"... và phải biết "Tự Thắng Để Chỉ Huy"!!!...  

Quanh năm suốt tháng, Huynh ít khi nào bị bệnh nhưng mỗi năm gần tới ngày 30/4 là huynh nghe nhức nhối trong tim, đau cho tháng tư xưa rả ngũ tan hàng để giờ này phải xa lìa quê cha đất tổ, lưu lạc xứ người!

Trong đời binh nghiệp của huynh, huynh được may mắn hơn nhiều đồng đội khác, tứ chi và ngũ quan của Huynh vẫn lành lặn... mặc dầu mình mẫy cũng thẹo tích tùm lum. Chưa phải là thương phế binh!.  Cũng về Tổng Y Viện Cộng Hòa... để thăm bạn bè, chứ không hề "nằm" ở đó.   

Muội không có dính dáng gì tới mấy ông "lính Ngụy", nhưng coi bộ muội có nhiều cảm tình với mấy ông bên "phe thua cuộc"?? quá... Cám ơn muội muội. Đó là niềm an ủi lớn lao đáng quý cho những người lính già thất thế vô dụng như huynh bây giờ!.   

"Canh bạc chưa chơi, đà hết vốn;  
Cờ còn nước đánh...  đã lưu vong!."      (Thơ Thanh Nam)

AET Tùa Hia

* Tiếc rằng video này không còn hiện hữu để chúng ta có thể xem lại.

Người Phương Nam

Cám Ơn Một Người Đã Đi Qua - Lê Phùng Xuân

 

Bỏ nước ra đi

Sống đời lưu vong,

Phận mình nào có sá gì,

Thương người ở lại cu ky ôm sầu.

(Thiên ca bốn, Lê Phùng Xuân)

Khi Xuân trở về, cơn mưa đã dứt hột. Con đường trở nên lầy lội hơn. Bùn trền trệt như đám trái đười ươi bị mắc mưa. Chàng bước đi nặng nề. Hai chơn bang bang như đi hàng hai cho đỡ bị trượt té. Rút cuộc chàng cũng cà lê cà lết về tới lều. Hậu cứ tiểu đoàn nhỏ xíu. Hổng có trại gia binh. Các đại đội hông có chỗ trú quân. Họ chia nhau từng khu trong vườn cây cà phê, sầu riêng, mít của dân chúng quanh Xuân Lộc. Vành đai ấp chiến lược vẫn còn, nên đóng quân bên trong rất an toàn. Họ căn lều lụp xà lụp xụp dưới những tàng cây, che mưa che nắng. Độc thân chỉ cần một cái poncho và một cái võng là đủ. Những người lính có vợ phải che thêm những tấm ni lông cho rộng ra. Những ngày nắng ráo, hai vợ chồng nằm dưới đất. Những hôm mưa, họ treo võng kè kè sát bên nhau trong cái lều chật hẹp.


Bùn đỏ bám đầy đôi giày. Xuân lấy một khúc cây nhỏ gạt bớt đất đỏ. Chàng ngồi trên võng, chật vật tháo đôi giày ra mà hông để tay dính bùn. Cái radio ấp chiến lược màu xanh vang lên tiếng hát buồn trong lúc mưa gió như thế này. Mừng luôn luôn bắt đài Quân Đội từ 7 giờ đến 9 giờ tối. Nó mê giọng êm thủ thỉ của cô Dạ Lan. Gần sáng, là gia đình Bác Tám của đài khác. Còn lại là radio ra rả suốt ngày. Xuân nghe riết phát chán.
- Hao pin lắm. Sao hông tắt Mừng?
- Tui xin pin tép của thằng Hòa. Đâu có hao, thẩm quyền.
Mừng hông biết cách ghép. Lúc thì hai tép, lúc thì ba tép, làm cho cái radio kêu rè rè. Chắc nó bỏ đi đâu rồi.
- Cô Mận!Tắt rađio đi. Cô vừa ca mà để máy như vậy ai mà nghe được.
- Trung Úy tắt đi. Tui làm biếng đứng dậy quá hà!
Phùng Xuân đi đến chỗ Mừng. Chàng tắt radio cho bớt ồn. Nghe cổ ca ơ ơ theo cái võng lắc lư, đong đưa còn đỡ buồn hơn.
 
- Mừng! Có phải em gái của mầy thiệt hông hay là bồ bịch đó mậy?
- Dạ, em tui thiệt mà Trung Úy?
- Sao cổ hông ở nhà mà đi theo mầy làm gì?
- Gia đình có hai anh em. Mùa này ở quê hông có việc làm. Nó nhớ tui. Nó buồn nó lên thăm tui. Hổm rày, tui kêu nó đi dìa đi mà nó chưa chịu dìa. Hổng biết mắc chứng gì mà nó khoái ở đây hoài. Nó nói lúc rày ở dưới quê chưa có việc, chờ gần Tết, lúa chín. Lúc đó họ mới kêu công gặt.

Cô Mận còn trẻ, khoảng dưới đôi mươi, bới tóc đuôi gà theo kiểu con gái miệt vườn. Má bầu trắng, tròn trĩnh xinh xắn, có duyên con gái. Cổ vui tươi và nói tía lia khi kể chuyện nhà quê. Khi nào tới bữa cơm, là cổ cũng có chuyện để nói.
Hàng ngày Mừng nấu cơm cho Xuân và em nó. Ba người ăn cơm chung. Xì xà xì xụp cho qua bữa: canh rau, cá khô, rau canh, khô cá, mì gói, gói mì! Cô Mận mũm mĩm cười, hơi ló hai cái răng nanh khi nghe Xuân nói như thế. Ăn xong, việc của cổ là rửa ba cái gà mên, treo lên đầu võng. Rồi cổ nằm võng đong đưa qua lại, tiếp tục ca nữa. Mỗi lần ư, ư là gân cổ rung lên như gà giò mới biết gáy.
- Ca hoài sao cô Mận? Hổng chán à?
- Tui đâu biết ca tân nhạc. Mà Trung Úy có mê vọng cổ hôn? Tân cổ giao duyên cũng hay lắm à nghen!
- Ơ…ơ…Cũng biết thưởng thức chút chút. Tui nhớ hồi khoảng năm 1958 hay 1959 gì đó, tui có đến rạp hát một lần. Cái rạp đó ở đâu trên đường Nguyễn Trãi. Tên là Thủ Đô thì phải.
- Để làm gì ?
- Thì để xem hát chớ làm gì. Thằng bạn học có người quen trong đó. Nó dẫn vô hổng có tốn tiền. Bữa đó, tui hông nhớ gánh hát tuồng tích gì, nhưng tui hổng quên được cô đào Bích Sơn và kép Hoàng Giang. Họ diễn hay lắm. Khán giả vỗ tay muốn bể rạp luôn. Cô Bích Sơn, người Bắc, còn kẹp tóc, mà ca cải lương mùi lắm. Tiếng nói kép Hoàng Giang cũng rổn rảng.

Tụi tui ở trong cánh gà thấy đủ thứ hết trơn. Xong tuồng, hạ màn. Cô đào Bích Sơn và kép Hoàng Giang lên xe hơi về nhà. Sân khấu ngổn ngang. Họ lo dọn dẹp mọi thứ. Chừng đó, cũng đã gần hai giờ sáng rồi mà họ có ngủ đâu. Tui thấy họ tụm ba tụm năm chia nhau đánh bài. Nào cát tê, bài cào, xập xám, phé. Ối thôi, tùm lum. Tiếng cãi cọ vang rền. Đã đời, họ lăn đại ra ngủ trên sàn. Trời nóng, nam trần trùi trụi, ngáy khò khò. Nữ, quần vén lên cao, áo tốc lòi ngực ra, ngủ say như chết.
Gần trưa hôm sau họ mới dậy, rồi quây quần quanh chiếc bàn hình chữ nhựt ăn cơm với chỉ độc nhứt có món mắm chưng hột vịt và những tô rau trộn đủ thứ.

- Cái đó là Trung Úy coi cải lương. Nhưng mà trong cải lương cũng có ca vọng cổ.
- Tui đâu phân biệt được.
- Vọng cổ là một bài hát có 32 nhịp, như hổm rày tui ca cho Trung úy nghe đó.  Mùi lắm à nhen! À, mà rồi, Trung Úy có ăn hôn?
- Có. Tụi tui cũng xáp vô ăn luôn. Tui thấy đào chánh, kép chánh họ sung sướng. Chớ những người phụ coi bộ họ sống cũng chật vật lắm.
- Vậy là Trung Úy cũng mê mê vọng cổ rồi đó. Để hôm nào tui ra chợ kiếm mấy bài tân cổ giao duyên thiệt mùi, tui ca cho Trung Úy nghe chơi đỡ buồn.

Dưới võng của cô Mận có đủ thứ những cuốn tập nho nhỏ, chất cho một đống. Buổi sáng, cô đi chợ với anh cô. Hôm nào Xuân làm biếng, hoặc đường bùn lầy trơn trợt chàng hông đi, Xuân nhờ cổ mua một tờ báo. Ở đơn vị chỉ có báo Tiền Tuyến. Đi chợ về, cô lo cơm nước. Ăn rồi, cô nằm ca ít bài. Xong, bỏ võng treo tòn teng ở đó, đi tới chỗ mấy bà vợ lính, nói chuyện ba hồi ba đổi, rồi đi rủ chị Hiền ra suối tắm.
Từ ngày anh Hiền chết đi, chị Hiền hông chịu về quê, ở lại đây, sống cùng với đại đội. Chị đi chợ mua thức ăn nấu cho mấy người lính độc thân. Vì thế, chị cũng có cái ăn cái uống sống đắp đổi qua ngày. Mỗi người lính có một ca gạo (khoảng 600g)(1) mỗi ngày. Họ ăn hông hết. Hai người là dư một phần cơm cho chị. Về quê làm gì? Quê chị đâu miệt Phan Rang, nghèo lắm.


Dòng suối nhỏ, ở cuối đầu sân bay, chảy xuyên qua vườn cà phê ông Đại Tướng Lê văn Tỵ. Dòng suối nầy là nơi tắm giặt và cũng là nơi lấy nước ăn uống cho cả đại đội khi về trú quân ở Long Khánh. Hình như có giờ giấc và nơi ấn định sẵn đâu hổng biết. Đàn ông và đàn bà có khu riêng biệt. Đầu nguồn là nơi lấy nước để ăn uống. Chính giữa là nơi tắm giặt của đàn bà, trẻ con. Dưới cùng là của các ông. Vì hông có nhà tắm, các bà và các cô thường mặc nguyên quần áo khi tắm. Có người bỏ áo, kéo quần lên tận ngực. Khi họ đến đó, trời còn nắng. Một đám người đang tắm và giặt quần áo. Thêm mấy đứa con nít đùa giỡn bắn nước tung tóe…


- Ê.  Đừng vô chỗ lùm tre thay đồ nghe chị Hiền!
- Sao vậy?
- Chị hổng nghe hôm trước vợ Hạ sĩ Y Clip mang con ra suối đẻ rồi chui vào lùm tre đó. Bả vạt nang tre cắt rún cho con sao? Ý, thấy mà ghê!
- Tội nghiệp. Ông đó người Thượng, ở đâu trên miệt KonTum- PleiKu. Ổng đi lính lâu lắm rồi, trước anh Hiền của tui.
- Sao ổng hông chịu đem vợ vào nhà thương để đẻ?
- Mấy người Thượng họ theo tục lệ của họ. Họ hông đem vào nhà thương đâu. Đẻ xong họ còn đem con xuống suối tắm nữa cà.

Y Clip, hơi lớn tuổi, nói tiếng Việt lơ lớ, thật thà, ít trò chuyện với anh em trong đại đội. Ai có hỏi thì nó trả lời một vài tiếng, rồi mỉm cười. Hai vợ chồng chiếm một góc xa ở cuối bìa vườn, quây lá chuối chung quanh thành một căn lều nho nhỏ. Họ chứa đủ thứ: nồi niêu, xoong chảo, lon guigoz, thùng đạn đựng nước…Cô vợ ở trong đó, ít khi ra ngoài.  Thậm chí khi đẻ con rồi, cô hông bao giờ bồng con ra.
Anh chàng người miền núi này đi rừng rất giỏi, biết nhiều loại rau ăn được. Và đã nhiều lần đơn vị hông tìm được suối, Xuân quá khát. Y Clip đã cắt dây chìu từng đoạn để lấy từng nắp bi đông nước cho Xuân uống.


- Chị Hiền!Chị có đem nước về hôn?
- Hông. Nhờ trời mưa, tui hứng được mấy thùng và hai ba ống đạn. Chắc nấu cơm, rửa chén cũng được mấy bữa.
- Còn em phải đem hai thùng. Ba người thì cần nhiều hơn. Anh hai em ảnh xài hao nước lắm.
- À. Mà còn cho ông Trung Úy. Ổng lấy nước tắm nữa chứ gì?
- Hông. Ổng lấy nước rửa chưn hông hè.
- Sao hổng lấy nước nhiều nhiều cho ổng tắm?
- Thôi đi bà. Ổng muốn tắm thì đi ra suối tắm chứ. Tui đâu có hầu ổng. Bà muốn gì vậy?Bộ bà cũng muốn hả? Ổng chưa có vợ đó nghen!
- Ê! Đừng gắp cá bỏ cho người khác nhen! Tui thấy có bữa, trước lều của ổng có một ống nước.
- Hôm nào anh hai em siêng, ảnh vác về cho ổng tắm đó bà! Tui hổng có siêng như vậy đâu!

Hai người vừa thay đồ vừa cười như nắc nẻ. Rồi họ ngắt nhéo, la chí chóe trong lùm cây cà phê. Chị Hiền thầm nghĩ. Coi vậy chớ con nhỏ này ghê lắm. Mấy hôm nay, chị thấy nó mắc võng gần ông Trung Úy hơn. Chị hỏi. Nó nói bà chủ vườn kêu đừng cột võng vô góc cà phê. Đung đua hoài, long gốc, chết cây. Bây giờ nó xê lại gốc soài riêng càng sát ổng hơn. À, mà nó thấy diện hơn lúc trước: chảy đầu bẽ ba gọn ghẽ và mặc áo bà ba bông coi đẹp đẽ. Và nghe nó ca nhiều bài vọng cổ mùi lắm. Cái gì mà yêu anh lính chiến xa nhà…Chị tủm tỉm cười.
 
   - Bà cười cái gì đó bà? Ờ, mà Chị Hiền?Sao chị hông lên phụ với bà Tư Thiệt bán có đỡ hơn hôn?
- Thằng Lưu Anh nó ở trên đó rồi. Nó đeo con Tươi như sam.  Hơn nữa con nhỏ sắp đẻ rồi còn gì.
Lưu Anh là người Tàu Chợ Lớn, đi quân dịch đã hai năm nay. Nó hiền từ, tháo vát, cao lớn cũng khá đẹp trai. Hông hiểu sao nó chiếm được cảm tình của bà Tư Thiệt. Chồng bà này đã chết trận hơn mấy năm nay. Bả hông chịu về quê, bám theo đại đội mở cái quán nho nhỏ bán đủ thứ như gánh hàng xén. Lính đại đội làm biếng ra chợ-hơn nữa từ chỗ đóng quân cuốc bộ ra chợ cũng xa hơn hai cây số-nên thiếu chút đỉnh đến tiệm bả mua mau hơn.  Đôi khi có những món như: mì ăn liền, rượu đế, khô mực nhậu lai rai… rất tiện lợi cho mấy anh chàng lính độc thân. Bả còn cho mua chịu- ghi sổ- đến kỳ lãnh lương thì trả lại.

Bà chỉ có độc một đứa con gái. Năm nay, cô bé cũng được khoảng 15 tuổi. Cô này có nước da trắng mượt mà, cặp mắt trong sáng và có nụ cười rất tươi. Cô có da có thịt, cao ráo hơn mẹ.  Nhiều chàng lính độc thân cũng ngấm nghé. Bà mẹ, hơi lùn, ít khi cười, có lẽ vì bà hơi lé kim và một mắt bị cườm. Nhưng, bà rất lanh lợi và nói chuyện có duyên.

Từ khi về đại đội, chỉ mươi ngày sau là thằng Lưu Anh đi gánh nước, đi chợ chở nước đá, la de, rượu đế và các thứ lặt vặt…Lúc đó con bé Tươi mới có 13 tuổi. Mới đầu thằng Lưu Anh còn về võng nó ngủ. Nhưng sau đó, nó ở lì trên tiệm, hông về lều, trừ khi nào có phiên cắt gác. Lần lần nó thay bà Tư cáng đáng mọi công việc. Và cuối cùng, cô bé Tươi có bầu lúc 14 tuổi.  Trong đại đội, hông ai nói gì vì bà Tư có thưa gửi gì đâu. Thằng Lưu Anh khôn, lăn chai bám riết rồi cũng được. Còn mấy thằng Bình, thằng Thiện cứ đứng vòng ngoài đưa mắt ngó thì được cơm cháo gì! Và con Tươi thản nhiên mang cái bụng bầu chang bang cặp kè đi chợ với thằng Lưu Anh bổ đồ hàng bữa…

Chiếc GMC chở trung đội vũ khí nặng sắp sửa chuyển bánh. Lưu Anh, mang súng đứng dựa vào thành xe nhìn Tươi vừa ẵm con ra đứng trước cửa quán. Đứa con còn đỏ hỏn, chưa đầy tháng. Tiếng nói om sòm, tiếng la hét của những người lính khác vang lên gần như lấn át tiếng máy nổ của bốn xe nhà binh. Kẻ dặn vợ con, người dặn kẻ ở lại lo dùm công việc này, công việc nọ.
Đoàn xe chưa có lệnh di chuyển. Xuân và Chúc còn đứng dưới đất. Hai đứa đang nói chuyện.
- Cuối cùng rồi tao cũng gặp mầy.
- Tớ đâu có ngờ cậu ở Sư Đoàn này.
- Ờ!Cái Sư Đoàn có số 10 này làm cho ông Hoàng Tử lưng gù mới về khó chịu. Ông tin dị đoan. Số 10 là bù. Thế là đổi thành 18. Chín nút là nhứt rồi.

Hổng hiểu rồi đây chín nút có ngon lành hay hông hay là chúng nít???
Đỗ Bá Chúc hông thích đi sĩ quan. Nó hông khai bằng cấp. Để khỏi bị động viên, nó lo nhảy trước. Nghỉ dạy, nó chạy chọt làm anh binh nhì phòng hai của Tiểu khu Tây Ninh, tà tà ở văn phòng. Một ít sau, nó chán lính bàn giấy. Hơn nữa bị các sĩ quan và thượng sĩ ít học hơn nó đì nó. Nó nản. Nó đi lính biệt kích một thời gian. Cuối cùng, chàng ta bèn nộp đơn vào Thủ Đức. Ra trường với cái quai chảo, nó phân vân chưa biết chọn nơi nào.  À!Cái Sư Đoàn 18 có số tốt, lại ở gần Sài Gòn. Thế là hắn về đây. Phùng Xuân cho nó về làm Trung đội trưởng Trung đội 3.
Hai đứa gặp nhau, bá vai chửi thề. Tổ cha mày, sao lại ra tới đây! Họ kịp chưa nhậu một bi đông rượu đế nào. Có lệnh hành quân.
 
****
 
Sông La Ngà là phụ lưu của sông Đồng Nai, bắt nguồn từ Di Linh. Khi đến bán bình nguyên Gia Rai, sông chảy ngoằn ngoèo, tạo nên những cái hồ bán nguyệt rất đẹp mắt từ những khúc đoạt giang. Đồng xanh bát ngát, trù phú. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có những khu trù mật Võ Xu,Võ Đắt dành cho những gia đình từ Trung Phần vào đây lập nghiệp. Nơi đây còn hoang dã. Có rất nhiều thú để săn bắn như nai, min. . . Voi đôi khi còn đi từng đàn. Cá dưới sông suối còn dẫy đầy. Gần quận Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy), có Biển Lạc rộng khoảng 5km2, có rất nhiều loại cá …

Xuân rít một hơi dài điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ lỏng le, rồi búng tàn ra xa. Đoàn xe bắt đầu đi về Tân Phong, qua Suối Cát.  Đến ngã ba Ông Đồn, quẹo trái. Ngọn núi Chứa Chan cao chễm chệ nằm sát đường. Bụi đỏ tung mịt trời. Xe sau hông nhìn thấy xe trước. Gia Ray kia rồi. Hậu cứ của Trung Đoàn 52 trên đồi Phượng Vĩ. Hàng năm Sư Đoàn hành quân về vùng này khoảng đầu năm, lúc mùa gặt sắp tới, để bảo vệ dân thu lúa, hông cho VC về lấy.


Đại đội đóng quân cuối xã Võ Xu, sát những cánh đồng lúa đang ngả màu vàng. Chừng hai hôm sau, gia đình binh sĩ lục đục kéo tới. Họ lại căn lều, làm thành những cái thum nho nhỏ trong những đám chuối. Xuân nhận thấy đó là điều vô cùng nguy hiểm, nhưng làm sao bây giờ. Tiền lương của họ hông đủ để san ra làm đôi cho gia đình, bắt buộc họ phải sống như vậy.
- Chà! Sao mà nhiều đồ ăn quá vậy? Lại có mấy con cá chép nướng to tổ bố nữa.
- Bữa nay 30 rồi. Tất niên mà thẩm quyền hổng nhớ sao?

Thức ăn để một dọc dài trên những tàu lá chuối. Một góc tư nước đá, ba kết lade con cọp lớn ngã nghiêng ở góc chuối. Mấy người vợ lính lên tiếng mời Phùng Xuân. Mọi người bắt đầu. Lai rai ba sợi, tán dóc qua lại. Tiếng nói, cười vang dội. Rồi đến độ ngà ngà, cụng ca cộp cộp. Anh em vui vẻ. Ở cuối đầu kia, các bà lâu lâu cũng thêm vài câu nói tiếu lâm làm buổi tiệc thêm hào hứng. Mận và chị Hiền cũng xúm xít cười nói huyên thiên với mấy bà vợ lính.
Các chàng lính nhà ta hơi mềm môi, bắt đầu gõ chén gõ đũa vô gà men, ca hát vang trời. Đám quỷ sứ đó bắt đầu nói trây. Và rồi thì là rượu nói“Má ơi! con muốn lấy anh thợ bào. Còm lưng ảnh đẩy cái nào cũng sâu. Má ơi! Con muốn lấy chồng. Con ơi! Mẹ cũng một lòng như con” thì mấy bà la lên rần rần. Hông hiểu mấy bà có có thích hông mà Phùng Xuân thấy mấy bả cũng phụ họa thêm. Tội nghiệp, họ bị chê như vậy mà họ cũng ráng lết ra tới ngoài này để vui vẻ cùng chồng ba ngày Tết.


Xuân cảm thấy trong mỗi bàn tiệc nhậu của đám đàn ông lúc nào cũng nói đến chuyện trây trúa. Và bao giờ họ cũng lấy đề tài là mấy bà. Những chuyện tiếu lâm luôn luôn chê các bà thậm tệ, coi họ như con cái lúc nào cũng ham hố cái đó của con đực. Trong lúc đó, họ hông bao giờ nghĩ là họ xấu xa hơn, đụng đâu là bốc hốt tới đó. Vậy mà mấy bả cũng vui vẻ phụ họa cùng cánh đàn ông.
Xuân ngồi xếp bằng dưới đất quá lâu. Chàng thấy ê hai chân.  Chàng duỗi dài chơn trái. Vô tình, chơn này xé rách một vài miếng lá chuối khô. Một chồng giấy báo cũ lộ ra. Phía trong chồng báo cũ là một mớ giấy tờ lộn xộn. Chàng đưa mắt liếc coi.  Có những thiệp đám cưới.  Sao thiệp báo tin đám cưới Yvette có ở đây? Lại có đến hai ba cái?”

Phùng Xuân cầm lên một cái thiệp in rất trang nhã. Xuân lẩm nhẩm đọc. Đầu óc chàng quay cuồng.
- Ai có mớ nhựt trình cũ này đây?
- Dạ. Của em Trung Úy.
- Làm sao chị có được những thiệp báo tin đám cưới này?
- Dạ. Nhà em vựa ve chai. Chắc mấy người mua lẻ họ đem đến. Có gì hông, Trung Úy?

Xuân hông trả lời. Chàng ngồi im, ngồi im thật lâu, hổng biết đến bao lâu. Cho đến khi Chúc nhắc đến phiên Xuân phải uống. Chàng cầm ca lên, thò vào nón sắt múc cho thật đầy rồi đưa lên ực mạnh một hơi hết sạch…
Chúc quay nhìn Xuân. Hông dè mới hơn năm nay thôi mà Xuân thay đổi nhanh chóng. Thời thầy giáo hiền lành đạo mạo ở Tây Ninh đã qua rồi?Nó liếc một lần nữa. Có gì vậy Xuân? Có gì cậu thay đổi dữ vậy?Đâu có lẽ là đời lính tráng làm cậu khoác một cái áo khác?
Sanh xách hai xị đế về. Chỉ quay một vòng là muốn hết. Riêng phần Xuân uống hơn nửa xị. Rồi lại thêm hai xị nữa. Nhóm người ăn uống lần lần bớt đi. Chỉ còn lại Xuân, Thiếu Úy Thanh, Chúc.  Cuối cùng là đế pha xá xị hông đá, đầy một nón sắt. Thiếu Úy Thanh e dè hơn, uống cầm chừng. Ông Thượng sĩ Danh Sơn, lúc đầu thì tố dữ lắm, bây giờ lẳng lặng rút lui đâu mất tiêu.
- Thanh! Mầy uống ít. Tối nay coi chừng đại đội dùm tao.  Trung đội Nghĩa trực đêm nay, dặn Nghĩa cẩn thận mấy toán tiền đồn.
- Bây giờ cũng sắp giao thừa rồi. Sau giao thừa thì hưu chiến đó, Trung Úy.
- Tin VC là bán lúa giống. Nó phản thùng. Nó đột kích thì mình chết mẹ hết.
Nhưng rồi Xuân quay mặt qua bên, ụa lên một cái. Một vòi rồng nước đục đồ ăn lẫn rượu bắn tràn qua sau. Sau đó, là thêm hai ba hơi rồi chàng gục đầu xuống. Hông có một tiếng nói. Cõi không vắng lặng. Đầu óc quay cuồng. Thời gian ở đâu?Không gian ở đâu?Đêm đã khuya. Xuân mơ màng nghe văng vẳng: Yvette!Yvette!

Hình như có tiếng trách móc thì thầm bên tai.
- Uống gì mà uống dữ vậy hôn hè? Cho chó ăn chè.  Í ẹ! Chua lè chua lét! Tanh ói! Dơ quần dơ áo hết chơn hết chọi!
Một cái khăn ướt đắp lên mặt Xuân, xoa xoa nhiều lần. Mát rười rượi. Đôi bàn tay mềm mại lật nghiêng Xuân qua lại, cởi áo dính đầy đồ ăn và rượu. Và rồi, từ từ tháo đôi giày ra. Và rồi, cái quần dài…
- Chèng đét ơi! Sao mà ………………………… ?
……………………………
---------------------------------------
Mái tóc dài ngào ngạt mùi lúa thơm phủ trùm lên mặt Xuân. Và hai tay mềm dịu trở nên cứng rắn nắm tóc chàng cà nghịt, cà nghịt như muốn bứt ra từng sợi…Yvette!Yvette!
Đêm ba mươi Tết. Trời tối như bưng. Giao thừa đã qua. Gà gáy canh hai…
Phùng Xuân mở bừng mắt ra. Trời đã bừng sáng. Đầu óc còn quay mòng mòng. Chàng nằm im một lúc. Xong ráng chống hai tay ngồi dậy. Chàng ngó qua ngó lại. Im lặng. Cái gì đã xảy ra đêm hôm qua? Thiệp báo tin mừng của Yvette. Uống rượu. Uống thật nhiều la de. Rồi đế. Đế pha xá xị. Mửa. Mửa. Mưa tới mật xanh luôn. Say hông còn biết trời trăng…Bộ quần áo dính đầy đồ ói tanh nằm kia. Ai đã thay chúng? Ai đã làm gì mình đêm qua? Da thịt Xuân còn ướt rít trịt.  Ai? Ai? Xuân vụt đứng dậy. Chàng ngó quanh quất. Vắng teo.  Đại đội đi đâu? Lều võng còn kia mà!. .

Mừng chợt hiện ra, nhìn chàng.  Nó cười cười.
- Đêm qua thẩm quyền say quá. Uống dữ à nhen. Hết lade rồi đế.
- Tôi uống nhiều lắm hả? Ủa.  Sao ở đây im lặng quá vậy?
- Anh em trong nhà dân chúng đang hô dô dô, vui vẻ ăn Tết.  Bữa nay mùng một mà Trung Úy.
- Đêm qua hổng có gì hả? Thằng Lanh có trực máy hay bỏ đi đâu rồi. Thiếu Úy Thanh có cắt một trung đội ứng chiến hôn?

Chàng đứng lên, vươn vai, bẻ người qua lại cho tỉnh táo. Xong xuôi đâu đó, chàng đi một vòng xem lại nơi đóng quân Đám này tụm ba tụm bảy đang cười nói um sùm bên xị đế và mấy con khô cá khoai nướng. Họ mời Xuân. Chàng lắc đầu từ chối. Đêm hôm qua xỉn quá rồi. Đám kia chùm nhum bên sòng bài cát tê hay xập xám chướng. Chàng biết vui ba ngày Tết, nhưng có anh em ra giêng sạch túi. Cấm cản cũng hông được. Mấy đại đội khác đều như vậy. Mấy bà vợ nhiều khi cũng có máu đỏ đen như chồng.  Qua mùng ba, hết Tết, hết hưu chiến. Tất cả phải trở lại như cũ.  Đêm đêm phải di chuyển chỗ ngủ, hết binh, hết tố.  Hông còn cù lũ, đồng hoa, suốt, ba tây, bù, chín nút gì ráo trọi…

Cái lều của cô Mận hổng còn ở góc bụi chuối gần sát bên Xuân. Đồ đạc được tem tém. Buổi ăn trưa chỉ còn hai thầy trò.
- Ủa! Cô Mận đâu rồi? Mừng.
- Nó với mấy bà vợ lính về quê ăn Tết. Họ theo xe đò đi từ khuya. Nó nói đi sớm về đến Cần Thơ cho khỏe, với lại gửi lời chào Trung Úy. Ra giêng, họ kêu công gặt rồi.
Xuân ngưng đũa, cầm chén cơm nghĩ đến chuyện đêm qua. Cô Mận chớ hổng ai trồng khoai đất này. Cô gái miệt vườn này ghê thiệt! Hông hiểu cổ để ý mình từ lúc nào. Cũng em em như Loan, Khanh, Vân. Các cô này nhiều khi vượt ra ngoài lề lối…
 
****
Buổi trưa bến xe Chợ Lớn đầy nhung nhúc người. Và xe tới bến.  Rồi xe đi. Hông bao giờ ngớt. Cuộc sống có nhiều cơ cực vì ngăn sông cấm chợ, nhưng người ta cố tìm đủ mọi cách luồn lách để mà sống. Chỉ có cái là đi buôn lậu. Họ tìm mọi cách qua mặt quản lý thị trường. Giấu hàng đủ mọi nơi trong xe chở khách, mọi chỗ trong thân người. Đút lót, quà cáp khi qua mỗi trạm.
- Mừng! Mừng! Anh đi đâu đây?
- Trời ơi! Ông thầy còn sống hả?
- Chết hồi nào đâu? Còn sống nhăn răng đây.
- Vậy mà sau năm 1975, tui ở miền Tây, người ta đồn Sư Đoàn 18 bị banh ta lông ở trận Long Khánh hết rồi. Tui nghĩ chắc ông thầy cũng hông chạy đâu khỏi. Rồi ông thầy đi cải tạo có lâu hông?
- Đủ nếm mùi tù VC. Bây giờ anh làm gì?
- Đang làm lơ xe đò. Xe lúc nầy vô quốc doanh ráo trọi thành thử đói lắm. Xe tui chạy chui. Tui phải bán thêm thứ khác đủ nuôi mấy đứa nhỏ và thằng cháu này.
- Thằng cháu nầy con của ai?
- Con của con Mận đó ông thầy!
- Cổ ra sao rồi. Chồng cổ chết rồi hả?
- Em tui có chồng con gì đâu!

Đầu năm đó, Mận ở Long Khánh về. Mấy tháng sau thì cái bụng nổi lên chình ình. Ở nhà hỏi: có chửa với ai. Em tui hổng nói. Mặt mày buồn so. Tới kỳ sanh đẻ xong rồi ở vậy nuôi thằng này cho đến trọng tuổi thì bị ban cua chết. May là lúc đó tui đổi về gần nhà nên mang thằng nhỏ dìa nuôi cho đến bây giờ. Nó theo tui phụ lơ kiếm chút đỉnh sống qua ngày. À, mà ông thầy, ngộ nghen! Lúc nghe tin đồn Sư Đoàn 18 bị thua trận, em tui buồn rũ rượi. Ngày ngày, Mận nó đốt nhang khấn vái hoài.
 

Phùng Xuân giật mình ngó qua thằng nhỏ cũng cở trạc tuổi hai mươi. Từ năm 1966, 1967 đến giờ cũng tròn trèm hai mươi năm. Nó có vẻ cũng hao hao giống mình. Mà biết có phải con mình trong cái đêm hôm mình say rượu hông? Chàng bán tín bán nghi ngó nó một hồi lâu.
- Ông thầy làm cái gì nhìn thằng Phùng dữ vậy?Bộ nó  giống ông thầy lắm hả?
         
Phùng Xuân thót mình quay lại, ngó thấy Mừng chúm chím cười. Xuân đoán Mừng nghi ngờ điều gì. Cái gì cũng có thể được, nhưng có cái hông có thể được?

Sao cuộc đời nhà binh mình đa đoan nhiều quá vậy?Xuân gây buồn phiền cho bao nhiêu người?Từ lúc mới ra đơn vị đã nhìn thấy Hiền chết ngay trước mặt mình. Chuyện của Mận có phải tại mình hông?Cái hông thể biến thành cái có thể. Thằng Phùng đang trờ trờ trước mặt mình đây mà! Xuân có nên nói thật câu chuyện đã xảy ra cho Mừng nghe hôn? Mà chắc gì Mừng tin. Nó đâu có nghĩ là em mình dám làm điều đó. Có khi nó còn nghĩ ngược lại. Ông thầy coi em tui như gái qua đường, chơi rồi bỏ. Như thế lại càng khổ cho mình nữa. “Làm sao đây hở cô Mận?”. Tui đành có lỗi với cô. Dù sao cũng cảm ơn cô. Những ngày tháng nằm kế bên võng của cô, nghe những bài ca vọng cổ mùi mẫn của cô cũng làm cho tui đỡ buồn. Tình yêu thời chiến tranh của cô quá bồng bột, hông tính toán. Thiệt tình tui hông ngờ được.
 
Lê Phùng Xuân
(Trích trong Trăng Suông)

(1)Xin ghi chú cho rõ thêm:
Ở cấp đại đội binh chủng Bộ binh (không rõ ở những binh chủng khác: Nhảy Dù,Biệt Động quân…)
-Trong trường hợp không có đi hành quân, người hạ sĩ quan thường vụ đại đội (thường là Thượng sỉ hoặc Trung sĩ nhứt) mỗi ngày cấp phát cho lính một ca gạo vì sợ lính đào ngũ và tiện việc điểm danh luôn.
-Nếu có đi hành quân cùng tiểu đoàn- thí dụ ba bốn ngày- thì cấp phát một lượt ba hay bốn ca gạo. Người lính thường có cái bao dài kêu là ruột tượng, đổ gạo vào trong đó. Thường là họ quấn quanh cổ hoặc đeo vòng ba lô nặng khoảng 10 kg. Ba lô chứa vật dụng sinh hoạt hàng ngày: nồi niêu,đồ ăn,quần áo,võng,poncho. Cộng với súng đạn mang theo thì người lính di chuyển trong rừng sâu rất vất vả.
 

-Có khi đại đội đóng quân ở xa Tiểu Đoàn, gạo được cấp một tháng cùng một lượt với tiền lương
-Ngoài phần gạo có hàng ngày, họ còn có thêm tiền: củi, mỡ, trà…Nhưng phần này, người lính không bao giờ biết (các ông Thường vụ dại gì cho lính biết!). Ngay các sĩ quan trẻ mới ra trường được làm đại đội trưởng cũng không ai chỉ cho điều này. Thường bàn giao cho nhau chỉ là bàn giao chức vụ, còn “mánh lới” ăn bòn rút hông ai chỉ đâu. Nếu gặp một ông Thường vụ nhơn từ (hiếm…hiếm lắm!) thì ổng nói cho biết. Gặp trường họp này, ít tháng sau, khi có đủ số tiền khá khá thì người đại trưởng(cũng nhơn từ như ông Thường vụ!) ra lệnh chia đều lại cho lính. 

Như Là Giấc Mơ - Đỗ Công Luận

Thursday, April 10, 2025

Chỉ Một Chữ Tâm - Sương Lam


Nhiều lần tôi cũng đã thưa rằng: tôi chưa được phúc duyên làm đệ tử  chính thức của một vị thiền sư nào cả và tôi cũng chưa thực tập Thiền một cách rốt ráo.  Tôi chỉ là một người chịu khó đọc sách báo, sáng tác thơ văn, bỏ công đi sưu tầm, lượm lặt những tài liệu hữu ích có tính cách thiền vị đem về đây chia sẻ với các bạn bè đồng tâm cảm, để  chúng ta có được một ít phút giây tĩnh lặng trong ngày sau những lúc mệt mỏi, phiền muộn trong cuộc sống mà thôi.  Đây cũng là cơ hội để chúng ta cùng nhau học hỏi, tu tâm dưỡng tánh, sống vui sống khỏe trong giây phút hiện tại này. 

Trong quyển “Thiền là gì?” có đoạn nói : « Sở dĩ những thất bại khổ đau trong đời phần lớn là do chúng ta không làm chủ được chính mình, luôn tạo ra với cái tâm điên đảo vọng tưởng, tham đắm và bám víu nhiều quá!  Thiền giúp chúng ta lắng tâm, vượt qua mọi chướng ngại để đạt đến trí tuệ toàn diện.  Cho nên Thiền không phải là học thuyết để tranh luận, hoặc tín điều bắt buộc con người phải tin theo, mà chỉ cần áp dụng, thực hành để tìm về chân lý Giác Ngộ và Giải thoát »

Nhà Phật có dạy: « Nhất thiết duy Tâm tạo » tất cả mọi sự việc trên đời đều do Tâm tạo ra. Tâm bình thế giới bình, tâm loạn thế giới loạn.

Xin mời quý bạn dành một chút suy tư với Chữ Tâm được trích dẫn dưới đây nhé:

Một phút suy tư: Chữ TÂM 

Tâm là một điểm tuy nhỏ nhưng quan trọng, nên người ta mới gọi là tâm điểm.
Tâm của con người càng quan trọng hơn vì nó nói lên nhân cách của một con người:

- Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngả đảo điên.
- Tâm gian dối thì cuộc sống bất an.
- Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.
- Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.
- Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá …

Cho nên, ta không những đem tâm của mình đặt ngay trên ngực để yêu thương, mà còn:

- Ðặt trên tay để giúp đỡ người khác.
- Ðặt trên mắt để nhìn thấy nỗi khổ của tha nhân.
- Ðặt trên trán để mau mắn chạy đến với người cùng khổ.
- Ðặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
- Ðặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác.
- Ðặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em chị em.

Thân xác không tim thì thân xác chết, làm người không có tâm thì cuộc sống chỉ có hận thù và là mối nguy hiểm cho mọi người

( Nguồn: sưu tầm trên internet)

Có nhiều bài học nói về chữ Tâm sẽ được người viết từ từ dẫn trình sau để chúng ta cùng học hỏi.  Hôm nay, người viết xin mời quý bạn đọc một bài học ngắn ngắn dưới đây:


Tâm bình thường 

Tăng hỏi Thiền sư: « Phải nỗ lực tu hành như thế nào mới hợp đạo ? »

-  Đói ăn, mệt ngủ.

-  Như vậy thì người bình thường nào làm chẳng được.

- Không, không.  Người bình thường không giống như thế.  Vì khi ăn họ không chăm chú ăn, mãi lo nghĩ trăm điều.  Khi ngủ, họ không chịu ngủ, lại tơ tưởng ngàn chuyện. Vì thế khác với người tâm bình thường. 

Bình: Thiển tổ Nam Tuyền bảo: « Tâm bình thường là Đạo ».  Đi cũng thiền, đứng cũng thiền, nói, nín, động tịnh thảy an nhiên.

Cảnh giới tâm bình thường này khác xa phàm phu vọng loạn một trời một vực »

(Nguồn : Thiền là gì ? – Biên soạn : Thích Giác Nguyên)

Tuy nhiên, người viết thích nhất là câu chuyện Thiền dí dỏm dưới đây qua hình ảnh cô  lái đò cho có vẻ tình tứ, thơ mộng một tí ti, bạn nhé,

Cô Lái Đò 

Một lần, có một Thiền sinh có việc phải sang sông.  Ngồi trên đò, sư tỏ ra ngạc nhiên vì nhan sắc dễ coi của cô gái miền quê. 

Đến lúc lên đò. Hành khách mỗi người phải trả một quan.  Sư cũng định thế, không ngờ cô gái hóm hỉnh bảo:

-       Xin Thầy trả cho tôi hai quan.

Sư còn đang ngạc nhiên thì cô gái đã tiếp:

-       Một quan cho tiền đi đò và một quan về khoản ngắm người lái đò. 

Không tranh cãi lôi thôi, sư liền trả cô hai quan tiền, nhưng trong bụng hơi tấm tức.

 Bận về sư cứ dí mũi xuống sàn thuyền không dám nhìn lên.  Nào ngờ lần này cô lái bảo:

            -  Xin Thầy cho em bốn quan.

Không nhịn được nữa , sư cãi:

-       Nhưng tôi có nhìn cô đâu nào?

Cô gái cười mỉm:

-       Đồng ý là Thầy không nhìn tôi bằng mắt, nhưng Thầy lại nhìn bằng tâm…  Vì thế mà tôi tăng giá gấp đôi lên đó! 

(Nguồn: Trích trong Thiền Tâm Vi Tiếu và Vô Nim Thiền- Cư Sĩ Nhất Tâm) 

Khi quý bạn và người viết đọc những bài viết có chút thiền vị với cái tâm vui vẻ, chắc chắn bạn và  người viết cũng thấy “đời bỗng thêm vui” và tự mỉm cười một mình .  Người ta thường nói: “Một nụ cười bằng mười liều thuốc bổ” đấy!  Khi được uống thuốc bổ thì bạn sẽ khỏe thêm, bạn sẽ thấy yêu đời thêm, bạn sẽ sống vui sống khoẻ thêm.  Như thế, học Thiền cũng có nhiều lợi ích chứ nhỉ, phải không Bạn?

Mời Bạn thưởng thức bài thơ Chữ Tâm của Thầy Thích Tánh Tuệ dưới đây:

Chữ Tâm 

Từ Tâm, Phúc được vun bồi

Từ Tâm, Đức độ lần hồi tạo nên,

Do Tâm, thiên hạ đảo điên

Bởi Tâm, gây họa ngả nghiêng giữa đời. 

 

Từ Tâm, dung sắc tuyệt vời

Tại Tâm, Người ngỡ như loài.. Dạ xoa.

Từ Tâm, Phật ngự liên tòa

Nhờ Tâm, đức hạnh nở hoa Ưu đàm. 

 

Từ Tâm, Tứ Thánh, Lục Phàm (*)

Ngay Tâm, Địa ngục - Niết bàn mở khai.

Từ Tâm, giải thoát hiện bày

Bởi Tâm, người tự xe dây buộc mình. 

 

Từ Tâm, khoáng đạt cái nhìn

Do Tâm hạn lượng, tánh tình nhỏ nhen.

Từ Tâm, trời đất rộng thênh

Bởi Tâm, ngõ hẹp bon chen kiếp, đời. 

 

Từ Tâm, môi nở nụ cười

Do Tâm, '' chín bỏ làm mười '' một khi.. 

Từ Tâm, mắt tỏ đường đi

Thành Tâm - hy hiến quản chi nhọc nhằn. 

 

Từ Tâm, xa lạ hóa gần

Vì Tâm, đối diện muôn phần phân ly

Từ Tâm, ''không hóa'' thị phi

Nhờ Tâm, liễu đạo huyền vi một ngày. 

 

Từ Tâm, tác Tổ, nên Thầy

Nhờ Tâm, ân đức cao dày chẳng quên.

Từ Tâm, chí nguyện vững bền

Do Tâm mà cận kề bên Phật đà. 

 

Tâm là chủ của ngôi nhà

Thân là công cụ để mà khiến sai.

Mấy dòng xin tỏ cùng ai

Ngẫm đời muôn sự không ngoài chữ tâm! 


Như Nhiên Thích Tánh Tuệ 

Bồ Đề Đạo Tràng 12. 2013 

(*) Tứ Thánh = Thanh Văn , Duyên Giác, Bồ tát , Phật

 Lục Phàm = Trời, Người, Atula, Ngạ quỷ, Súc sinh, Địa ngục.

Mời Bạn thưởng thức youtube Chữ Tâm Trong Thư Pháp do nguời viết sưu tầm và thực hiện Youtube.

Hy vọng Bạn sẽ thấy an nhiên thanh thản khi nhìn nét đẹp tuyệt vời của nghệ thuật thư pháp viết nên chữ Tâm này. Người viết rất yêu nghệ thuật thư pháp vì tôi thường nghĩ, khi viết thư pháp bạn sẽ phải chú tâm vào từng nét bút.  Đó cũng là một cách hành Thiền để định Tâm. Bạn có đồng ý chăng?

 Mời Bạn thưởng thức 

 Youtube Chữ Tâm Trong Thư Pháp. - YouTube

https://www.youtube.com/watch?v=jQj3L-o7N7w

Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé. 

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam 

(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi- MCTN 756-ORTB 1187 - 4-9-25)

Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam

https://www.pinterest.com/suonglamt/