Sứ Mạng Kinh Kha:
Anh Lê Văn Kinh lớn hơn tôi 3 tuổi,
là bạn học cùng lớp với tôi ở trườngTrung Học Đồng Nai, Sài gòn trong những năm
1951 đến năm 1955. Anh Lê Văn Kinh sanh ngày 15 tháng 2 năm 1935 tại Sa Đéc,
Nam Việt Nam, trong 1 gia đình có 9 người con gồm 3 gái và 6 trai. Sau 2 chị,
anh Kinh là người con trai lớn nhứt trong gia đình.
Sau khi thi Brevet xong (anh Kinh
học chương trình Pháp. Bằng Brevet tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp
của Việt Nam), anh Kinh mất tích trong chốn học đường. Sau đó một thời gian khá lâu, tôi mới biết là anh phải đi làm để
giúp gia đình nuôi đàn em dại, nên anh đã hy sinh tương lai của anh để lo cho
tương lai của các em. Khi lớn lên, đáp lời sông núi, cả 6 anh em đều đầu quân
vào QLVNCH và đã thật sự góp xương máu gìn giữ giang sơn tổ quốc. Người em kế
của anh Kinh đi Hải Quân, bị địch pháo kích, đã đền nợ nước. Người em kế tiếp
đi Thiếu Sinh Quân, sau trở thành sĩ quan Pháo Binh. 2 em kế nữa đi TQLC, thì
một đền nợ nước tại chiến trường Kontum, một trở thành thương phế binh. Người
em Út đi Biệt Động Quân cũng trở thành thương phế binh. Riêng anh Kinh thì trở
thành người tù 20 năm khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt. Tổng cộng trong 6 anh em
của anh Kinh thì 2 người đã dâng mạng sống của mình cho tổ quốc, 2 người đã hy
sinh một phần thân thể cho quê hương, dân tộc, một người chôn vùi tuổi thanh
xuân suốt 20 năm khổ sai trong lao tù Cộng Sản.
Anh Kinh rất to lớn so với khổ trung
bình của người Việt Nam. Thật ra, anh cao lớn hơn tất cả các bạn cùng lớp,
nhưng anh rất hiền và dễ thương như một thư sinh “khổng lồ”.
Khi vào học khóa 9 SQ/Hải Quân năm
1959,tôi mới biết anh Kinh và 2 người bạn thân khác, cùng lớp, Lâm Văn Hiếu và
Nguyễn Văn Thành, đã gia nhập quân chủng Hải Quân trước tôi, từ năm 1955. Hiếu
chọn ngành Trọng Pháo, Thành, Giám Lộ, anh Kinh, Vận Chuyển. Hiếu và Thành đều
đã đền nợ nước: Hiếu trong Nam, Thành, ngoài Bắc (Lực Lượng Hải Tuần). Sau 5
năm dệt mộng hải hồ, anh Kinh thấy chưa thỏa chí tang bồng, muốn tìm những cảm
giác mạnh hơn, những công tác khó khăn hơn và nguy hiểm hơn: Anh muốn đùa giỡn
với tử thần, anh muốn trở thành Người Nhái.
Năm 1960, anh tình nguyện ghi tên đi
học khóa Người Nhái và được gởi đi Đài Loan huấn luyện để trở thành một trong
những Người Nhái đầu tiên của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Anh Kinh mà đi Người
Nhái thì đúng quá rồi, vì anh có đủ yếu tố cần thiết để trở thành Người Nhái:
Thông minh, khỏe mạnh, dẻo dai, chịu đựng, nhẫn nại, hiền nhưng can trường và
cương quyết, có biệt tài bơi lội, lặn sâu và lặn xa... Và anh đã thành công.
Anh đậu hạng nhì (Lê Quán Thủ Khoa) trong khóa huấn luyện Người Nhái tại Đài
Loan. Anh đã trở thành Người Nhái như ước mơ của anh.
Năm 1962, không ảnh của tình báo cho
biết có 6 chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt, chia làm 2 toán, mỗi toán 3 chiến
hạm thay phiên nhau hoạt động và nghỉ bến. Do
đó thường xuyên có 1 toán gồm 3 chiến hạm đậu nghỉ
bến tại quân cảng Quảng Bình, bên trong Ba Đồn, sông Gianh. Người Nhái được
lệnh đặt chất nổ phá hủy ba chiến hạm đậu nghỉ
bến. Một chương trình huấn luyện và thực tập đặc biệt về mìn chống chiến hạm và
kỹ thuật sử dụng được thực hiện tại Đà Nẵng. Việc tuyển chọn Người Nhái thích
hợp cho chuyến công tác bí mật nầy đã được Sở Khai Thác Địa Hình, trực thuộc
Phủ Tổng Thống, thi hành hết sức kỷ lưỡng và gắt gao: Anh Nguyễn Văn Chuyên
được chỉ định chỉ huy tổng quát, hướng dẫn 3 Người Nhái khác được tuyển chọn
cho công tác đặc biệt này gồm có: Nguyễn Văn Tâm, Lê Văn Kinh và Nguyễn Hữu
Thảo. Chương trình huấn luyện và thực tập chỉ chấm dứt sau khi mỗi người trong
toán đều thông suốt cách sử dụng loại khí giới hết sức lợi hại này. Tuy đi
chung một toán, nhưng mỗi Người Nhái đều có riêng mục tiêu của mình đã được chỉ
định trước, cũng như vì lý do an ninh cá nhân, mỗi người đều có trang bị riêng
và chỉ Người Nhái đó chịu trách nhiệm việc sử dụng và điều chỉnh trang bị của
mình chứ không ai khác được kiểm soát hay đụng tới. Cũng giống như nhảy dù điều
khiển, người nhảy phải tự xếp dù của mình, chứ không để ai được đụng tới.
Tháng 5, năm 1962, toán Người Nhái
sẵn sàng và lên đường, nhưng chiếc ghe chở toán Người Nhái đi công tác bị phát
giác, lộ hành tung, phải trở về căn cứ. Độ một tháng sau, tháng 6, năm 1962,
toán Người Nhái của anh Chuyên được lệnh thi hành công tác trên. Lần này không
bị phát giác. Công tác được thi hành ban đêm. Chiếc ghe lớn chở toán Người Nhái
đến cửa sông Gianh thì dừng lại và cho ghe nhỏ hơn chở toán Người Nhái vào quân
cảng Quảng Bình, cách các chiến hạm của Cộng Sản Bắc Việt khoảng 100 thước thì
dừng lại. Cả 2 ghe lớn và nhỏ đều được ngụy trang giống như ghe đánh cá tại địa
phương.
3 chiến hạm CộngSản BắcViệt đậu song
song với nhau sát cầu tàu, ở Ba Đồn. Mục tiêu của anh Kinh là chiến hạm đậu bên
trong sát cầu tàu, anh Thảo, chiến hạm thứ 2 (đậu giữa) và chiến hạm đậu bên
ngoài là mục tiêu của anh Tâm. Anh Chuyên ở lại ghe nhỏ cùng với 3 thủy thủ
đoàn chờ đợi đón 3 Người Nhái kia sau khi hoàn thành nhiệm vụ để đưa ra ghe lớn
trở về căn cứ.
Sau khi nhận diện mục tiêu và kiểm
soát lại lần chót trang bị của mình, anh Kinh xuống nước trước, kế đến anh Thảo
và cuối cùng là anh Tâm theo thứ tự mục tiêu xa gần, như vậy cả 3 sẽ tới mục
tiêu cùng một lúc. Cho tới giờ phút đó, mọi việc đều xảy ra như kế hoạch đã
định sẵn. Kế hoạch dự trù kế tiếp là điều chỉnh thời nổ 5 giờ sau mìn mới nổ,
để có đủ thì giờ trở về căn cứ an toàn. Anh Kinh hoàn tất công tác trước, rời
khỏi mục tiêu khoảng 20 thước, trồi lên mặt nước để dùng hồng ngoại tuyến định
hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ để rước toán của anh trở về ghe lớn sau khi hoàn
thành công tác. Thình lình, một tiếng nổ long trời đẩy anh Kinh văng lên khỏi
mặt nước, toàn thân tê dại, anh không còn biết gì nữa. Khi tỉnh dậy, anh mới
biết mình là tên tử tù của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo cáo trạng và nghe lóm
cán bộ nói chuyện với nhau trong lúc bị lao tù, anh Kinh cho biết như sau: Vì
lý do kỹ thuật, sau khi được đặt vào mục tiêu như đã định, trái mìn của anh
Thảo nổ liền tức khắc (thay vì phải 5 giờ sau
mới nổ) anh Thảo chết banh xác tại chỗ, cả 3
chiến hạm cùng nổ tung và chìm theo xác anh Thảo. Sức nổ của 3 trái mìn cùng nổ một lượt đẩy anh Kinh, ở cách đó
khoảng 20 thước, văng lên khỏi mặt nước và làm anh bất tỉnh. Anh còn sống quả
là phép lạ. Anh Tâm lội ra xa hơn về hướng chiếc ghe nhỏ đang chờ nhưng sức nổ
quá mạnh nên cũng bị bất tỉnh và cũng bị bắt. Riêng chiếc ghe nhỏ, chạy về ghe
lớn và lập tức rời mục tiêu nhưng vì tốc độ chậm, bị chiến đỉnh của Cộng Sản
Bắc Việt đuổi kịp, chúng ra lệnh đầu hàng, anh Chuyên không chịu hàng, hai bên
bắn nhau, nhưng nhờ hỏa lực mạnh hơn nên cuối cùng chiến đỉnh của Cộng Sản Bắc
Việt làm chủ tình hình và đụng chiếc ghe lớn chìm, chỉ một người thoát nạn nhờ
núp dưới cánh buồm. Anh Chuyên và một thủy thủ đã đền nợ nước, tất cả thủy thủ
đoàn còn lại đều bị bắt.
Ngày 30 tháng 6 năm 1962, anh Kinh
bị kết án 20 năm khổ sai, anh Tâm bị kết án chung thân khổ sai. Thủy thủ đoàn
bị kết án từ 2 năm đến 18 năm. Nhưng bản án là một trò hề bởi vì 2 năm hay
chung thân đều cùng chung số phận, phải ở tù từ 17 đến 22 năm khổ sai mới được
phóng thích.
Ngày 28 tháng 1 năm 1980, anh Tâm
được phóng thích sau 17 năm rưỡi khổ sai. Anh Kinh được phóng thích ngày 30
tháng 6 năm 1982, đúng 20 năm khổ sai.
Anh Tâm hiện cư ngụ tại California,
anh Kinh ở Florida.
Mặc dù 4 Người Nhái và thủy thủ đoàn
thi hành công tác này đã đền nợ nước hay chôn vùi tuổi thanh xuân trong chốn
lao tù khổ sai của Cộng Sản Bắc Việt nhưng họ không chết và không bị quên lãng,
vì họ sẽ sống mãi trong lòng của anh em Người Nhái thuộc Liên Đoàn Người Nhái
Hải Quân Việt nam Cộng Hòa và của đồng bào ruột thịt dành cho những đứa con
thân yêu của dân tộc đã “VỊ QUỐC VONG THÂN”.
Đối với gia đình anh Kinh, LĐNN xin
giở nón cúi đầu bái phục một gia đình ái quốc đã tình nguyện hy sinh, dâng hiến
tất cả những đứa con trai của gia đình cho Quân Đội để phục vụ cho Tổ Quốc, và
làm tròn nhiệm vụ của người trai trong thời loạn: “Chấp nhận hy sinh mạng sống
hay một phần thân thể để bảo vệ từng tấc đất của quê hương xứ sở do tổ tiên để
lại, trái ngược với bọn CS phản quốc nỡ lòng cắt đất, dâng biển của tổ tiên cho
ngoại bang.
Phan Tấn Hưng
Người Nhái HQVNCH
No comments:
Post a Comment