-Tôi được tường trình là thời gian ngắn vừa qua tại trạm xá, bác sĩ đã cứu sống
một binh sĩ xem như đã tắt thở. Vậy bác sĩ cứ về lại hậu cứ lo chữa bệnh cho
anh em. Tôi nhờ trời ít khi đau ốm, cảm cúm lắt nhắt thì đã có mấy y tá ở đây.
Khi nào cần tôi sẽ gọi bác sĩ.
Thế là tôi lại sửa soạn quân trang trở về lại hậu cứ La Vang, hằng ngày chỉ lo
việc trạm xá Trung Đoàn. Hơn tháng sau, tôi lại nhận được lệnh Tiểu Đoàn Trưởng
TĐ1 QY gọi trở về Mang Cá, hậu cứ Sư Đoàn. Về sau, tôi nghe một vị sĩ quan hành
chánh Tiểu Đoàn cho biết là vị Đại Đội Trưởng ĐĐ11 QY đã gởi tôi lại Tiểu Đoàn
QY với lý do hậu cứ không cần phải 2 bác sĩ.
Tại Tiểu Đoàn 1 QY, tôi được giao làm y-sĩ điều trị trạm xá Sư Đoàn. Thời gian
nầy tôi được làm quen với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. Nguyên trước, anh rể tôi là
sĩ quan huấn luyện nhảy dù trong Lực Lượng Đặc Biệt và Tướng Phú cũng đã qua
chương trình huấn luyện đó. Ở Sàigòn, vợ của Tướng Phú là bạn chơi cờ Mạc Chược
với chị ruột tôi, vì vậy hai gia đình quen thân. (Để biết về Mạc Chược, xin đọc
bài "Ma-Tước tức Mạc Chược" của cùng tác giả trong Tập San nầy). Nhiều
đêm, sau giờ làm việc và để giảm bớt căng thẳng,Tướng Phú thường tiêu khiển bằng
môn cờ Mạc Chược, ông gọi điện thoại mời tôi sang dinh Tư Lệnh chơi cờ khi biết
tôi không phải trực hành chánh hoặc chuyên môn tại Tiểu Đoàn QY. Tướng Phú mới
tập chơi cờ và lại ông chỉ thích đạt những ván cờ lớn, nên ít khi được thắng.
Bà Phú thì mỗi khi chồng bận điện thoại là ngồi vào thế chỗ, bà có lối đánh
quân cờ bằng tay trái rất điệu nghệ và đẹp mắt. Có khi vợ chồng ông Tướng đùa
nghịch dành nhau để được đánh cờ, làm hai vị sĩ quan Sư Đoàn và tôi được dịp cười
vui.
Vài tháng sau, do tình hình chiến sự đòi hỏi, sau khi họp bàn với các vị tư lệnh
Quân Đoàn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh mở đầu Hành Quân Lam Sơn 719 hầu
ngăn bước Cọng quân xâm nhập Miền Nam Việt Nam theo đường Hạ Lào. Hành Quân 719
được phối hợp do nhiều binh chủng thiện chiến như Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thiết
Giáp và Sư Đoàn 1 BB. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 QY cử một bác sĩ hiện
dịch vừa ra trình diện dẫn theo một Trung Đội Quân Y theo Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn
Hành Quân đóng lại Khe Sanh. Một tuần sau, Tiểu Đoàn Trưởng Quân Y gọi tôi và cấp
sự vụ lệnh để tôi lên thay vị bác sĩ đang theo Sư Đoàn. Lần đầu tiên hành quân,
tôi bỡ ngỡ không biết phải làm gì trước. Buổi sáng đầu tiên ở đây, tôi theo
chân các sĩ quan trưởng các phòng, ban, cùng các Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn yểm
trợ đến họp ở Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn. Buổi họp được Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú chủ tọa, sĩ quan Phòng Hành Quân và các ban lần lược thuyết trình. Sau buổi
họp, vị Đại Tá Tư Lệnh Phó, Đại Tá Chung gọi tôi ngồi lại, ông nói:
-Bác sĩ mới lên thay ông bác sĩ kia à?
-Thưa Đại Tá vâng.
-Bác sĩ có biết vì sao tôi gởi trả ông ta về lại Tiểu Đoàn Quân Y không? Ấy là
vì ông ta từ chối chở binh sĩ tử thương trên xe Hồng Thập Tự thế bác sĩ nghĩ
sao?
-Thưa Đại Tá, trong Hành Chánh Quân Y thì quả là như vậy, nhưng tôi nghĩ là
trong hành quân, chúng ta phải linh động.
Ông Đại Tá Tư Lệnh Phó đứng dậy vỗ vào vai tôi:
-Tôi tin tưởng ở bác sĩ! Bác sĩ cần gì cho công tác của mình không?
-Thưa Đại Tá, theo tình hình chiến sự, tôi thấy cần có một phòng giải phẫu an
toàn cho thương binh và binh sĩ Quân Y.
-Được rồi! Công Binh sẽ giúp bác sĩ.
Ra khỏi phòng hành quân, lững thững về lại lều vải. Trời Khe Sanh lâm râm mưa,
đất đỏ dẻo quẹo dính chặt đôi giày lính của tôi xuống đất.
Sáng hôm sau, khi ở Trung Tâm Hành Quân về, tôi đã thấy toán Công Binh đang ủi
đất khu dành cho Quân Y chúng tôi. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Công Binh, một người
em con dì ruột tôi vừa lái xe trờ tới, anh đến bắt tay tôi và nói:
-Anh à, nằm trong lều vải không ổn rồi, tụi nó pháo kích đều đều, nguy hiểm lắm,
anh và toán Quân Y nên ở dưới hầm. Thế anh cần hầm nổi hay chìm?
-Tôi cần hai hầm chìm và càng rộng càng tốt, vì tôi sẽ phải thiết kế một phòng
giải phẫu cùng thuốc men và toán Quân Y trong môt hầm, còn hầm kia cho thương bệnh
binh. Có được không chú?
-Được mà, anh đừng ngại.
Thế là toán Quân Y chúng tôi có hai hầm lớn làm bằng những tấm nhôm cứng hình nửa
ống cống, phía trên chất đầy bao đất. Chúng tôi được an toàn và yên tâm lo cho
thương bệnh binh hằng ngày tải bằng trực thăng từ bên kia biên giới. Chiến sự
ngày càng nặng nề, qua thuyết trình, tôi cũng biết được tổn thất của địch cũng
như bên quân ta, nhất là những cao điểm Đồi 30 và 31 do các tiểu đoàn Dù trấn
giữ. Cứ nhìn số chuyến bay tải thương tới cũng biết mức độ ác chiến như thế
nào. Những hôm đó, bản doanh của Nhảy Dù ở một ngọn đồi khác, phòng giải phẫu
do bác sĩ Trần Đông A làm việc liên tục ngày đêm. Một hôm, lượng rocket và đại
pháo rót vào Khe Sanh nhiều hơn mọi khi, đồng thời các chuyến bay chở hầu hết
là thương binh Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân. Chúng tôi phải nhường chỗ nằm cho
thương binh chật đầy hai hầm, một số phải để nằm trên những tấm ván trong lểu vải.
Tôi chạy từ hầm nầy qua hầm khác rồi tới lều vải để lựa thương, thương binh nào
thấy cần giải phẩu tại chỗ, tôi làm ngay, môt số ngoài khả năng chữa trị tại chỗ
cần chuyển về Bệnh Viện Tiểu Khu Quảng Trị hoặc Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương,
tùy mức độ bệnh. Hôm đó, khá nhiều thương binh cần chuyển, tôi đến gặp những
phi công trực thăng Mỹ xin chuyển gấp, tôi nói với anh phi công xin lưu ý đến
hai anh BĐQ bị thương nặng; một hạ sĩ với ruột lòi cả ra ngoài đã được bó kín với
chiếc khăn lông tẫm dịch chuyền mặn và anh sĩ quan với vết thương do đạn xuyên
vế chân phải, dù đã được băng bó kỹ lưỡng, máu vẫn tiếp tục chảy xuyên qua lớp
vải dày của cán xuống sàn trực thăng, mặt anh ta tái nhợt. Tôi nghĩ anh bị đứt
mạch máu chính của chân phải. Anh sĩ quan níu tay tôi và trao cho tôi chiếc áo
giáp anh đang đắp ngang ngực:
-Bác sĩ chạy lui chạy lại nguy hiểm quá, tụi nó pháo kích ào ào mà bác sĩ không
có gì che thân.
Tôi cảm ơn vừa mặc áo giáp vào và nói lời chúc may mắn cho tất cả thương binh.
Trực thăng cất cánh. Trên đường trở lại hầm làm việc, một anh y tá hỏi:
-Hôm nay toàn là thương binh BĐQ, thế bác sĩ của họ đâu?
Tôi an ủi:
-Không biết họ phối hợp ra sao, thôi cứ thấy thương binh là làm, anh em cố gắng
đi, tôi sẽ hỏi phòng hành quân sau.
Nhịp độ ác chiến không thấy giảm sút chút nào, toán Quân Y chúng tôi làm việc
không ngừng nghỉ, anh em y tá còn chia nhau để đi ăn, riêng tôi có ngày chỉ được
ăn vào buổi tối. Ở đây, ngoài việc chữa cho lính mình lại còn cứu mạng cho một
sĩ quan Việt Cọng; y bị mảnh đạn ghim vào phổi phải mặt tím ngắt do thở không
được, tôi đã giải phẫu làm phổi giả cứu sống anh ta (xem bài viết của cùng tác
giả: "Quãng Đời Y Và Nghiệp" trang 116 trong Đặc San Gia Đình ATBĐ
Seattle-Washington State 2011). Buổi họp hôm sau tại Phòng Hành Quân, tôi được
biết anh sĩ quan VC đó là người duy nhất được sống sót ở chân đồi khi cả tiểu
đoàn Việt Cọng của anh ta bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn.
Một buổi sáng như mọi ngày, trong khi tôi đang duyệt xét vết thương của thương
binh dưới hầm, một nhóm sĩ quan bước xuống, môt lúc sau tôi mới nhận ra là
TrungTá Nguyễn Văn Điềm, vừa từ Hạ Lào đáp trực thăng về Trung Tâm Hành Quân Sư
Đoàn 1 Bộ Binh để họp bàn kế hoạch đồng thời thăm thương bệnh binh thuộc Trung
Đoàn 1 Bộ Binh. Trên đường tiễn Trung Tá Điềm đến trực thăng, ông đừng chân cười
nói:
- Bác sĩ may mắn thật! Bác sĩ biết sẽ có cuộc hành quân này hay sao mà bỏ tôi về
Sư Đoàn?
Tôi chưa biết trả lời sao thì ông nói:
-Tôi đùa thôi! Bác sĩ chăm sóc binh sĩ tốt lắm. Tôi phải đi đây!
Trung Tá Điềm lên trực thăng bay về hướng Hạ Lào. Tôi trở về hầm, nghĩ về những
lời Trung Tá Điềm nói; ông trách tôi hay chăng? Về sau, khi trở lại hậu cứ Mang
Cá, tôi mới hiểu lời của ông: Số là khi nhận lệnh sửa soạn Hành Quân 719, anh bạn
bác sĩ Đại Đội Trưởng Đ11 QY gọi Tiểu Đoàn 1 QY xin 1 bác sĩ ĐĐ Phó để theo
Trung Đoàn hành quân. Bác sĩ Quát, một bác sĩ hiện dịch, người thay thế tôi ở
chức vụ ĐĐ Phó. Tại Hạ Lào, trong lúc hỗn loạn, bác sĩ Quát bị Việt Cọng bắt,
may nhờ anh ấy mạnh, xô ngã tên VC rồi chạy, tụi nó ném lựu đạn chày theo, may
mà không nổ. Bác sĩ Quát thoát nạn, tâm thần bị giao động mạnh. TrungTá Điềm gởi
anh ta trở về Tiểu Đoàn 1 QY.
Cuối cùng thì cuộc chiến Hạ Lào cũng chấm dứt với tổn thất cho cả hai bên. Sau
nầy, thống kê Mỹ cho biết thiệt hại nhân mạng của Cọng quân gần gấp đôi phía
VNCH. Vài tuần sau, Quân Lực VNCH rầm rộ tổ chức mừng chiến thắng Hành Quân Lam
Sơn 719. Trước Kỳ Đài tại Phú Văn Lâu Huế, Đại Tướng Cao Văn Viên chủ tọa lễ mừng
cùng tưởng thưởng sĩ quan và binh sĩ Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Toán Quân Y chúng tôi
được nhiều huy chương, riêng tôi được Đại Tướng Cao Văn Viên gắn huy chương Anh
Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Vàng, trong khi Y Sĩ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 1 QY
chỉ nhận Sao Bạc. Tướng Phú được thăng Trung Tướng và bổ nhiệm vào Quân Đoàn 2.
Chuẩn Tướng Lê Văn Thân thay Tướng Phú làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Sau cuộc
đọ sức cam go tại Hạ Lào, là thời gian yên lắng vì cả hai bên lo dưỡng quân và
bổ sung quân số bù đắp lại hao hụt. Chỉ vài tháng sau, chiến cuộc sôi động trở
lại, những cuộc hành quân kế tiếp được phối hợp giữa Việt Nam và Mỹ: Hành Quân
720, 810 nhằm truy tìm và diệt Cọng quân quanh vùng giới tuyến. Tôi được chỉ định
tham dự cả hai cuộc hành quân, nhưng không như lần trước phải theo Sư Đoàn, tôi
chỉ dẫn toán Quân Y đến ở trong Bệnh Viện Giải Phẫu Số 18 của Mỹ (18th. Surgery
Hospital) đóng tại Làng Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị (Xin đọc "Quảng Đời Y
Và Nghiệp" của cùng tác giả). Chúng tôi có khu ở riêng, ăn uống thì chung
với binh sĩ Mỹ. Làm việc chung với họ nhưng toán QY chúng tôi chỉ săn sóc
thương bệnh binh của mình. Riêng về giải phẫu thì tôi làm việc chung với bác sĩ
Mỹ, tôi giải phẫu thương binh VNCH thì bác sĩ Mỹ phụ tôi, ngược lại tôi phụ họ
khi bác sĩ Mỹ giải phẫu lính Mỹ. Sau hai cuộc hành quân nầy, tôi lần lượt được
hai huy chương Bạc và Đồng.
Chỉ sau hơn một năm, tôi được thăng quân hàm Đại Úy và giữ chức vụ Đại Đội Trưởng
ĐĐ 10 QY kiêm Y-Sĩ Trưởng Trạm Xá Sư Đoàn 1 BB.
Năm 1972, Tỉnh Quảng Trị do Sư Đoàn 3 Bộ Binh trấn giữ. Sư Đoàn nầy được thành
lập từ Trung Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 BB và tuyển thêm quân số cho 2 trung đoàn.
Việt Cọng tập trung quân số gấp bội phía VNCH tiến chiếm Quảng Trị. VC cố ngăn
không cho dân chúng Quảng Trị chạy về hướng Thừa Thiên nên đã tàn sát dân lành
tạo nên thảm cảnh "Đại Lộ Kinh Hoàng" trên Quốc Lộ 1. Sau vài tuần
giao tranh cam go, giành giựt từng tấc đất, từng góc phố, các Lữ Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến đã tiến chiếm lại Quảng Trị. Dù thành phố đã trở thành bãi gạch vụn,
nhưng dân chúng cũng đã mau chóng trở lại xây dựng xóm làng với mọi trợ giúp của
chính quyền và Thủy Quân Lục Chiến.
Năm 1973, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 chuyển từ Đồn Mang Cá về Căn Cứ Giạ Lê, trước là
môt căn cứ của Quân Đội Mỹ. Ngoài nhiệm vụ tại Tiểu Đoàn QY, tôi còn một thành
viên trong Ban Thanh Tra Sư Đoàn do Đại Tá Lê Quang Thị (vừa qua đời năm trước
đây), cùng với một số sĩ quan các phòng, ban Sư Đoàn đi thanh tra tất cả đơn vị
thuộc Sư Đoàn và yểm trợ. Đại Tá Thị xưa là Hiệu Trưởng và là giáo viên Trường
Tiểu Học Gia Hội khoảng thời gian 1949-1954 mà tôi đã học ở đó. Dù qua mấy chục
năm, thầy vẫn nhận ra tôi. Song song với Thanh Tra Sư Đoàn, là ĐĐ Trưởng QY,
tôi còn phải một mình thăm viếng và thanh tra các Trung Đội QY yểm trợ y vụ cho
4 Tiểu Đoàn Pháo Binh, 1 Thiết Đoàn và Trung Tâm Huấn Luyện. Một hôm tôi lái xe
đến Tiểu Đoàn Pháo Binh đóng ở làng An Đô, đến chiều khi trở về, một chiếc xe
GMC trúng phải mìn nằm trơ 4 bánh lên trời. VC đã đặt mìn từ tối qua, buổi sáng
khi tôi đi ngang đã may mắn không chạm phải. Lần khác vào đầu năm 1974, lúc lên
Bastogne thăm viếng một Trung Đội QY yểm trợ Tiểu Đoàn Pháo Binh, tôi đã gặp lại
anh bạn Võ Toàn bấy giờ đã thăng Trung Tá và giữ chức Trung Đoàn Trưởng Trung
Đoàn 1 BB thay Đại Tá Nguyễn Văn Điềm về làm Tư Lệnh SĐ1. Chúng tôi đã vào ăn
trưa trong Lăng Minh Mạng vừa ôn chuyện xưa ở Trường Quốc Học năm nào. Sau đó,
khi chiến cuộc sôi động trở lại với nhiều bất lợi về phía chúng ta. Anh Võ Toàn
đã được thăng cấp Đại Tá về tham mưu cho Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm ở Sư Đoàn
1. Đầu năm 1975, Quảng Trị lại mất vào tay giặc và VC đang uy hiếp và chiếm dần
các quận quanh Thành Phố Huế. Sáng ngày 25 tháng 3, Tiểu Đoàn 1 QY chúng tôi được
lệnh chuyển lên Bệnh Viện Trung Ương Huế gần như bỏ trống. Bác Sĩ Bùi Hữu Út Tiểu
Đoàn Trưởng TĐ1 QY bấy giờ là bạn học Y Khoa Huế khóa trước tôi, đang nhận lệnh
Sư Đoàn. Được giao trọng trách như là Tiểu Đoàn Phó, tôi đi quan sát các phòng
của bệnh viện dự trù trường hợp dùng điều trị thương bệnh binh ở đây, ngang qua
phòng mỗ, một người đàn bà níu tay tôi xin cứu con bà sinh khó; dù trong tình
thế cấp bách, tôi đã giải phẫu sản phụ và mẹ con đều được an toàn. Khi tôi trở
lại với anh em thì được bác sĩ Út cho biết được lệnh rút tất cả về Thuận An.
Con đường nhỏ dẫn về làng Tân Mỹ, bên nầy bãi biển Thận An đầy ắp đủ tất cả các
loại xe, kể cả M.113, chúng tôi phải lách khỏi đám đông, lái xe trên triền đường
nghiêng đến 30 độ, cuối cùng chúng tôi cũng đến được bến phà Tân Mỹ khi trời đã
sậm tối. Những đơn vị đến đây sớm đã lần lượt qua bãi biển Thuận An. Phần lớn
quân và dân đều bị tắc nghẽn tại Bến Phà Tân Mỹ. Một số tàu thủy ở đây không
dám đến gần bến phà chỉ sợ dân chúng và binh lính tràn lên quá tải không thể ra
khơi được, họ cho tàu đậu giữa Phá Thuận An để người nào có khả năng lội ra được
thì lên tàu. Một anh hạ sĩ quan trong đơn vị đề nghị tôi cởi bộ đồ trận với các
giấy tờ... để trên một cái thùng xốp rồi cùng anh bơi ra tàu, anh hạ sĩ quan vừa
đẩy thùng xốp vừa bơi, tôi bơi theo anh ta. Anh hạ sĩ quan nhờ có sức khỏe, bơi
nhanh đến tàu trước tôi và được một vài người trên tàu kéo anh ta và thùng lên.
Khi tôi chỉ còn cách chừng 10 mét thì tàu rồ máy chạy, tôi vội dạt xa tàu vì sợ
chân vịt tàu quất phải, rồi lội trở lại bến phà. Lúc đó tôi mới cảm thấy cái lạnh
của nước trong đêm cuối tháng 3. Thấy tôi run cầm cập, anh binh nhì phục dịch vẫn
theo tôi từ bao lâu, lục ra một bộ áo quần dân sự trao cho tôi. Trong tình huống
chạy giặc như vậy nhưng không một ai gây huyên náo hoặc chạy loạn; dường như mọi
người đã quá thấm mệt và buông tay cho số phận. Quanh tôi, chỉ nghe vài tiếng
rì rào bàn tán và tất cả lại im lặng sau những loạt súng cối rót về bến phà. Một
anh sĩ quan pháo binh vẫn ngồi sau lưng tôi từ chiều bỗng nói:
-Tụi nó dùng súng cối có nghĩa là họ đã khá gần nơi đây!
Không biết bấy giờ anh em trong đơn vị đang ở đâu, tôi lặng lẽ đi tìm xem những
ai còn ở đây, bỗng thấy một chiếc tàu đang yên lặng, chậm rãi tiến đến gần chiếc
phà quân đội đậu tại bến phà từ trước lâu rồi, hai bóng đen từ tàu đang móc
đuôi tàu với chiếc phà, tôi nhanh chóng nhảy lên phà rồi kéo tay anh binh nhì vẫn
theo tôi cùng lên. Tàu và phà ra giữa giòng Phá, một vài chiếc ghe dân sự được
thuê giá cao, phóng theo, nhưng không sao bắt kịp. Tàu chúng tôi ra đến cửa biển
Thuận An thì nghe tiếng súng cối và cả đại pháo nã xuống bến phà, qua ánh lửa
lóe sáng, tôi thấy ở đó nhốn nháo hỗn loạn. Một số đạn súng cối bắn theo tàu
chúng tôi, nhưng đều rơi xuống nước. Tàu kéo phà cập bến tại sông Hàn Đà Nẵng
trưa 26 tháng 3 1975, tôi nhìn về hướng bắc nơi có Tỉnh Thừa Thiên và Thành Phố
Huế mà giờ đó Cọng Quân đã chiếm tràn ngập. Tôi đi bộ tìm nhà người chị vợ mà vợ
con tôi đã ở đó từ hơn 2 tuần trước. Dù đã có vé máy bay đi Sàigòn từ sớm, vợ
tôi quyết định ở lại chờ tôi. Sáng hôm sau, 27 tháng 3 1975, anh hạ sĩ quan
cùng lội ra tàu với tôi ở Phá Thuận An đến chào tôi và trao trả lại cho tôi bộ
quân phục và cái ví. Tôi vô cùng ngạc nhiên và cảm động về hành động đẹp đẽ của
người thuộc cấp. Khi tôi cảm ơn anh và ngõ ý biếu anh một ít tiền vì tôi biết
lương tiền hạ sĩ quan không thể nào đủ cho cả gia đình, nhất là hoàn cảnh chiến
tranh nầy, anh nói:
-Bác sĩ đừng lo, tôi và vợ xoay xở cũng tạm được. Tôi và anh em trong đơn vị rất
mến bác sĩ.
Khi tôi hỏi anh ta về anh em trong đơn vị, anh cho biết khá đông anh em và bác
sĩ Út đều vào được Đà Nẵng rồi anh cho tôi địa chỉ mọi người sẽ gặp mặt trưa
hôm đó. Khi anh ấy đi rồi, tôi mỡ ví ra thấy tất cả giấy tờ cùng số tiền mấy
nghìn đồng và 2 lượng vàng mà vợ tôi đã cẩn thận dặn tôi khi hữu sự cần đến, vẫn
y nguyên. Đặc biệt là anh hạ sĩ quan đã sấy khô giấy tờ, tiền bạc kể cả giấy
gói vàng và nhất là cái ảnh của con gái tôi. Vợ tôi và tôi đều xúc động nhìn mọi
thứ trong ví đều như cũ. Vợ tôi nói:
-Trong thời buổi nầy mà có những con người không tham lam như anh ta thật khó
kiếm. Có dịp, mình nên giúp người ta.
Trưa hôm đó, tôi mượn chiếc xe đạp đến đúng địa chỉ đã ghi thì chỉ gặp vài anh
em trong đơn vị đang đứng chờ bác sĩ Út đi đâu vẫn chưa về. Đến chiều, vợ chồng
tôi đi gặp chị Vẻ, vợ của Đại Tá Võ Toàn để mong biết tình hình. Chị Vẻ là bạn
học cũ với vợ tôi, chị cũng không biết gì hơn chúng tôi. Chúng tôi chào chị Vẻ
ra về, ngang đến cửa thì Đại Tá Toàn đang bước nhanh lên tầng cấp gác lầu. Anh
bắt tay tôi rồi nói:
-Xin lỗi bạn Định, mình phải đi bay với Tướng Điềm bây giờ.
Nói rồi anh bước vào nhà cũng nói vội vã với vợ:
-Anh vào rửa mặt rồi đi ngay, em lấy cho anh bộ áo quần khác.
Tôi không ngờ đó là những lời cuối cùng mà Đại Tá Võ Toàn nói với tôi và với vợ
anh. Hôm đó, chiếc trực thăng chở Tướng Nguyễn Văn Điềm và Đại Tá Võ Toàn đã
trúng đạn Việt Cọng và rơi tại Sa Kỳ Quảng Ngãi.
Lúc vợ chồng tôi về đến nhà đã nghe bà chị vợ tôi đã mua được vé máy bay đi
Sàigòn cho tôi. Giai đoạn đó mà có được vé đi khỏi Đà Nẵng quả như là trúng số
độc đắc. Mua được vé là do chị vợ tôi có quen biết với ông bà Mân, Chi Cuộc Trưởng
Hàng Không Việt Nam Đà Nẵng. Trong câu chuyện, bà Mân đã than thở với chị vợ
tôi về việc chồng bà đang lên cơn đau bụng vì quá lo lắng, không tìm đâu ra bác
sĩ lúc đó, bệnh viện cũng không ai làm việc... chị vợ tôi nói sẽ nhờ tôi khám
và điều trị giúp ông, thế là bà Mân cho xe đến đón tôi. Suốt ngày, ông anh cột
chèo lại mở Radio nghe Đài Phát Thanh BBC tường trình về tiến quân của Việt Cọng,
tôi vừa bực tức vừa lo lắng đến an nguy của Đà Nẵng, đến khi thấy chiếc xe hơi
của Chi Cuộc Hàng Không VN ở Đà Nẵng đến, tôi ra xe đi ngay. Ông Mân bị chứng
đau gan từ lâu, da cũng như tròng trắng mắt đã vàng như nghệ. Tôi chích thuốc
giảm đau và uống các loại thuốc về gan. Bà Mân đề nghị gia đình tôi dọn vào ở
trong Chi Cuộc Hàng Không để vừa giúp chữa trị bệnh của chồng bà thường đau đớn
vào ban đêm, vừa kịp thời ra xe cùng gia đình bà và nhân viên Hàng Không VN Đà
Nẵng ra phi trường khi có máy bay. Ngay hôm đó, gia đình tôi vào ở trong Chi Cuộc
Hàng Không. Bà Mân đã nhờ người dọn sẵn cho gia đình tôi một phòng rộng rãi đầy
tiện nghi. Suốt ngày, bà Mân không hề rời máy Motorola, liên lạc và không ngừng
kêu cứu Sàigòn. Bà cũng báo cho Sàigòn biết tình hình Đà Nẵng đang bị VC tấn
công tới tấp. Qua loa phát âm, tôi nghe được là Sàigòn sẽ gởi máy bay DC6 ra Đà
Nẵng đón nhân viên vào Sàigòn. Tối 28 tháng 3 1975, sau khi khám và chích thuốc
cho ông Mân, tôi trở lại phòng. Vào lúc 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3, gia đình
tôi mới vừa chợp mắt sau mấy ngày quá mỏi mệt và căng thẳng tinh thần, bỗng từ
ngoài đường, tiếng đám đông người la hét với tiếng xe gầm rú cùng tiếng xích sắt
rít, kéo hai cánh cửa sắt của Chi Cuộc Hàng Không VN đổ sầm làm làm rung chuyển
cả toà nhà, rồi nhiều tiếng chân chạy rần rật vào bên trong. Các con tôi hoảng
sợ ôm chầm lấy chúng tôi, cả nhà đang lo lắng nhìn quanh. Bỗng tôi cảm thấy đôi
mắt cay xè, tôi biết ngay là họ đã dùng lựu đạn cay. Tôi vội mở cửa hông nhà đẩy
vợ con tôi ra khỏi căn phòng đang ngập khói hơi cay. Tôi lo kiếm nước tẫm ướt
khăn lông hầu lau mặt và mắt mấy đứa con. Sợ bọn cướp tấn công, tôi bảo các con
im lặng dù mắt cay muốn khóc. Chừng 10 phút sau, tiếng ồn đã vơi dần, khi khói
cay đã hết, chúng tôi vào lại phòng. Cậu con trai của ông bà Mân gõ cửa phòng,
cậu nói nhỏ:
- Họ đã phá cửa trước vào hốt sạch hàng hóa của hành khách gởi. Bác sĩ và cả nhà
đừng sợ, họ đi hết rồi.
Cậu con trai con ông bà Mân khoảng 12 tuổi hướng dẫn gia đình tôi bước ra cửa
sau nhà. Trong đêm tối, một chiếc xe thường dùng chở hành khách của Hàng Không
VN không bật đèn chầm chậm trờ tới, trên xe đã có sẳn mấy gia đình công nhân của
Chi Cuộc. Khoảng 5 ,6 gia đình khác cũng đang im lặng đi tới, anh tài xế dùng bật
lửa hướng dẫn họ lần lượt lên xe. Trời không lạnh lắm, nhưng trong tình trạng
lo lắng, nên mọi người đều run cầm cập. Con trai ông bà Mân nhờ tôi giúp tải những
thùng két đạn bên trong tôi nghĩ là đựng vàng. Sẵn chiếc cán chổi dựa tường,
tôi lấy chuồi vào tay cầm 2 thùng rồi mỗi người một đầu cán đi tòng teng làm
cán oằn xuống ở giữa. Cuối cùng cậu nhỏ và tôi cũng đưa được 4 thùng nặng kịch
lên xe và để dưới chỗ ngồi của hai hàng ghế gần tay lái dành cho gia đình ông
bà Mân. Hai ông bà chỉ có hai đứa; trai lớn 12 tuổi và đứa gái mới 9 tuổi. Hai
băng kế là gia đình tôi. Người tài xế kiểm soát từng gia đình trên xe rồi từ từ
cho xe chuyển bánh. Ông Mân ôm bụng đầu tựa vào lưng ghế phía trước. Bà Mân vẫn
tiếp tục liên lạc với Sàigòn suốt đoạn đường đi. Xe đang đi về hướng phi trường
Đà Nẵng. Đến nơi thì trời mới hừng sáng, xe không thể vào phi trường vì tất cả
các cửa ra vào đều bị đóng kín và lố nhố người đang lăm le súng giữ cửa, thêm nữa
xe đủ loại vô chủ, bỏ ngổn ngang khắp vòng đai quanh hàng rào phi trường cản hết
lối đi. Qua máy Motorola, tôi nghe giọng nói của nhân viên Tổng Cục Hàng Không
VN từ Sàigòn nói với bà Mân là một máy bay DC6 sắp đáp xuống sân bay. Máy bay
đang trên đà đáp xuống thì súng máy đủ loại hướng về chiếc máy bay, chiếc máy
bay lượn thêm hai vòng rồi bay mất dạng. Bà Mân giọng đã khàn, nói như thét vào
máy. Ông Mân ngẩng đầu dậy nói:
-Không xong rồi!
Bà Mân chỉ huy:
-Anh tài! Kế hoạch 2!
Xà lan chở dân chúng và lính rời Đà Nẵng (01/04/1975)
Anh tài xế dạ một tiếng rồi đánh xe một vòng hướng về hướng Tiên Sa. Tôi đoán
chừng là Tổng Cuộc ở Sàigòn gởi tàu thủy đến bờ Tiên Sa nếu không đi được bằng
đường hàng không. Quang cảnh đường dẫn đến Tiên Sa không khác gì ở phi trường;
xe cộ với bánh lún sâu trong cát ngả nghiêng; hàng hóa, giày dép vung vãi khắp
nơi. Xe vừa đi vào bãi cát, hàng loạt đạn pháo kích rít gió ào ào rót xuống, tiếng
nổ chát chúa, đoàn người đang đi bổ nhào xuống cát ẩn núp rồi lại chạy tiếp. Hầu
hết gia đình công nhân của Chi Cuộc Hàng Không Đà Nẵng đều hấp tấp xuống núp dưới
xe. Tôi không thấy gia đình ông bà Mân ẩn núp nơi nào. Gia đình tôi chưa kịp xuống
xe vì năm đứa con khi nghe tiếng nổ hoảng sợ ôm lấy ba mẹ. Một số gia đình công
nhân Chi Cuộc trở lại xe, xe vẫn đang nổ máy, anh tài xế cho xe lui một đoạn rồi
quay mũi xe hướng trở lại thành phố Đà Nẵng. Nhìn cục diện ở Tiên Sa, tôi nghĩ
rằng khó mà kiếm được tàu hay ghe ở bãi biển, nên gia đình tôi vẫn ngồi lại
trên xe. Khi xe đang chạy trên đường phố Đà Nẵng, có mấy người xin xuống, xe dừng
lại, gia đình tôi cũng xin xuống theo, vì từ chỗ dừng đến nhà chị vợ tôi trên
đường Đống Đa không bao xa. Khi bước đến bên cửa lên xuống bên hông xe, một bao
tải lớn chắn ngang lối đi, tôi dẫm lên bao tải để xuống xe mới biết bên trong
toàn là giấy bạc, gia đình tôi trở lại nhà bà chị vợ. (Mấy ngày sau, tôi gặp lại
ông Mân, bấy giờ ông đã đi đứng lại bình thường. Ông Mân cho tôi biết trong bao
tải trên xe chứa 6 triệu đồng, là tiền hành khách mua vé; ông còn nói là bà con
ai còn giữa vé máy bay, cứ đem vé lại để lấy lại tiền). Khoảng 8 giờ sáng 29
tháng 3 1975, khi gia đình chúng tôi vừa về đến nhà thì gia đình người bà con
anh chủ nhà ra đi, bảo là đã thuê được ghe. Đến chiều, gia đình ấy trở lại, ông
chủ gia đình đó kể rằng đứa con dâu đang mang thai trèo lên dây thừng để lên
tàu cao, chịu không nổi nên buông tay. Tôi nghe câu chuyện quá buồn, lặng lẽ ra
ngồi ghế xếp dưới mái hiên trông ra đường. Trước nhà là một công viên với những
cây đại thụ cao, một anh lính đầu trần đang thất thểu trên đường bên kia công viên,
bỗng anh hét lên và đập mạnh khẩu súng M16 nhiều lần vào gốc cây bên đường, từng
mãnh của cây súng văng vung vãi, anh lính vừa đi vừa tiếp tục hét đến khãn cả
tiếng... Một lúc sau, cũng bên kia công viên, một chiếc xe hơi kiểu du lịch màu
trắng chạy chậm rồi dừng lại, các cửa kiếng đều kéo lên kín, nhưng tôi vẫn
thoáng thấy hai ghế trước và băng sau đều có người lố nhố. Khoảng 10 phút sau,
một ánh lửa lớn bỗng bùng lên bên trong xe, đồng thời một tiếng bùm khô khan
vang lên. Chiếc xe lúc lắc một hồi rồi im lặng. Tim đập nhanh, tôi hốt hoảng đứng
dậy, nhưng nghĩ lại mình chẳng giúp gì được, tôi buông người xuống ghế. Lửa
trong xe vẫn còn cháy chừng 5 phút rồi tắt ngấm, cửa kính đen cả khói. Tất cả đều
im lặng. Những người qua đường nhìn chiếc xe một lát rồi cúi đầu đi thẳng. Ai
cũng đang mang nỗi buồn và mối lo cho tương lai sắp đến của mình. Tôi không biết
bao nhiêu người tự tử trong xe; có thể là trọn một gia đình. Đó là chiều 29
tháng 3 năm 1975. Hai sự kiện chấn động tột độ diễn ra trước mắt mà tôi đành
như một người bàng quang; anh lính và gia đình trong xe hơi biểu lộ sự chán chường
thất vọng của mình bằng một sự đập phá; người thì đập nát cây súng đã một thời
vào sinh ra tử bên mình và cả một gia đình bấy lâu vẫn hạnh phúc thì giờ phải hủy
bỏ cả mạng sống của họ.
Sáng hôm sau, 30 tháng 3, tôi đến bệnh viện Đà Nẵng mong làm được việc gì hữu
ích. Một số bác sĩ, y tá và nhân viên bệnh viện cũng đã trở lại làm việc. Họ tự
động lập một ban điều hành để phân nhiệm cho mọi người. Tôi tình nguyện chọn
phòng Nhi Đồng khi không ai nhận. Hai cô y tá và tôi lo xếp dọn lại phòng ốc với
bàn ghế, giường nằm và dụng cụ ngổn ngang với sàn nhà vấy đầy nước, giấy tờ
cùng bao nylon... Bệnh nhân trẻ em được cha mẹ mang đến ngồi chờ chật cả phòng
đợi. Khi mọi thứ đã khá tươm tất, bệnh nhân tràn vào chiếm giường bệnh. Trẻ em
phần lớn mắc chứng tiêu chảy, sưng phổi và lên Sởi (Sưởi). Có vài bà mẹ bồng
trên tay đứa con đã chết mà không biết vì đã qua nhiều ngày không thuốc men.
Chúng tôi làm việc không ngừng, không có thì giờ ăn trưa, đến 7 giờ chiều tôi mới
rời bệnh viện. Chúng tôi được cấp một giấy chứng nhận làm việc bệnh viện để tiện
đi đường hoặc trình bộ đội xét nhà vẫn thường xuyên xẩy ra. Sau 3 ngày làm việc,
sáng mồng 1 tháng 4, loa phóng thanh vừa đặt khắp thành phố ban hành lệnh tập
trung những người trong chính quyền và quân đội Miền Nam tại một nơi trước là
M.A.C.V của Mỹ. Khi mọi người đã ngồi chật cả sân ciment, 2 anh bộ đội đóng cửa
và từ trong một phòng xuất hiện nhiều bộ đội, tất cả đều lăm le khẩu súng AK 47
rải đều quanh chúng tôi. Cái khung cảnh mà tất cả chúng tôi ngồi đầy giữa đất
và phía bậc thềm cao để một cái bàn và một chiếc ghế độc nhất sẽ thấy tái diễn
nhiều lần trong những trại tù về sau nầy. Rồi họ tuyên bố là chúng tôi sẽ được
chuyển đến một nơi để học tập cải tạo, một cụm từ rất xa lạ với chúng tôi lúc
đó. Tôi lo vợ con tôi khi không thấy tôi trở về sẽ hoảng hốt nghĩ rằng tôi đã bị
thủ tiêu như sự kiện đã xẩy ra trong dịp Tết Mậu Thân. Tôi đứng dậy đến trình
giấy làm việc bệnh viện của tôi với anh bộ đội chỉ huy và xin về để bàn giao công
việc và họ đã để tôi ra khỏi vòng rào. Về đến nhà, tôi không còn tinh thần để
làm việc nữa vì biết không sớm thì muộn rồi cũng sẽ phải đi "học tập cải tạo",
những chữ hoa mỹ đó mà về sau, hơn môt triệu người Miền Nam và bản thân tôi đều
biết thực chất còn tệ hơn một "nhà tù khổ sai", vì ngoài khổ dịch và
giam đói, chúng tôi sống mà không biết lúc nào bị bọn cai tù xách vào rừng giết
rồi vất xác chẳng hay như trường hợp hai anh Sang và Minh tại tiểu trại 3 Ái Tử.
Thế là ngày hôm sau, gia đình tôi thuê xe trở về lại Huế để rồi cuối cùng vào
ngày 1 tháng 6 năm 1975 cũng lên đường vào tù cùng với anh bạn trẻ lối xóm, anh
Dương Đình Long (đã quá vãng sau khi đã định cư tại California Mỹ).
No comments:
Post a Comment