Đã 2 ngày rồi, người
mang rau cho nhà bếp của trại tù Phong Quang là anh đội phó chứ không phải là
anh đội trưởng Rau Xanh như mọi ngày (anh em tù chúng tôi phải tự cải thiện đời
sống bằng cách tự trồng rau)... Không kềm nổi sự tò mò, tôi dọ dẫm khi anh đội
phó đến giao rau lần thứ ba:
- Bộ anh C. đau hay sao mà anh đi thay thế vậy kìa?
Tuy mới chỉ sống với chế độ “người dò xét người” có 3 năm thôi, nhưng anh đội
phó quả là nhạy bén vì đã tạo được thói quen như người dân miền Bắc khi phải
sống trong cái xã hội “đỉnh cao của sự người dò xét người” trong đó mỗi người
dân trước khi nói điều gì đều phải trông trước trông sau xem có người thứ ba
nào đó ở gần hay không vì sợ người thứ ba quá “tiến bộ” sẽ đi báo cáo mình thì
phiền, nên khi thấy không ai ở gần bèn nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe:
- C. trốn trại rồi.
Nghe đến đây, tự nhiên tôi mường tượng đến đôi cánh chim tung trời tim đường
đến tự do mà lòng thầm mơ ước mình cũng có dịp may như người bạn tù của mình
nay đã vỗ cánh bay cao, bay xa tít về cuối chân trời, thoát ly được gông cùm
xiềng xích nơi ngục tù tăm tối. Vì tự ngàn xưa và chắc chắn là cho đến ngàn sau
thì cái chân lý rất đơn giản mà ai ai cũng phải công nhận là đúng, là không sai
chạy dù một ly, đã được diễn tả trong câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại
ngoại” (Một ngày trong tù thì bằng cả ngàn năm ở ngoài).
Kể từ hôm đó, những anh em tù chúng tôi sau khi bị xúc động về việc này, có bàn
ra tán vào thì cũng chỉ rỉ tai nhau rồi đâu lại vào đấy, lại lao động triền
miên cho đến mệt lử, chiều về ăn chén cơm tù độn khoai hay sắn hoặc cái “chuông
xe đạp mỏng teng”(đây là chữ anh em dùng để chỉ chiếc bánh mì luộc) rồi lên
“chuồng” cố dỗ giấc ngủ cho qua cơn đói để rồi sáng mai lại trở lại kiếp tù lao
động khổ sai không án nên chẳng biết ngày nào “tung cách chim tìm về tổ ấm” để
gặp lại những người thân trong gia đình để “cho bõ lúc sầu xa cách nhớ”.
Kiếp tù đày cứ lặng lẽ trôi qua và lời của bản nhạc ngày xưa tự nhiên lại trở
về trong ký ức trong đêm trường nỉ non tiếng côn trùng:
Ngày nào gặp nhau, yêu nhau
rồi sống bên nhau
Những tưởng dài lâu như trăng
như sao cho đến bạc đầu
Nào ngờ giờ đây ta ly tan giữa
cơn lạc loài
Giữa chốn u mê đêm đêm một
người nhớ thương một người....
Phải chăng “giữa chốn u mê” mà tác giả muốn nói tới ở đây hay là đã “tiên tri”
được đó là chốn lao tù, mà quả thật thế, chốn lao tù cho dù đã được ngụy trang
là “Trại Cải Tạo” thì bản chất vẫn không thay đổi, đâu có đánh lừa được ai,
ngay cả đến con nít cũng thắc mắc khi được mẹ cho biết là “Ba đi học tập” thì
bé đã hỏi lại mẹ: “Ủa, sao đi học lâu quá vậy, sao không về nhà?” Vào thời kỳ
đó và ngay cả cho đến bây giờ, dù cho ở “trong” hay “ngoài” thì chỉ khác nhau ở
chỗ tù lớn hay tù nhỏ mà thôi. Chả thế mà ca sĩ kiêm nhạc sĩ TVT đã chẳng phát
biểu khi vượt thoát đến được bến bờ tự do: “Ở trong nước cái cột đèn, nếu nó đi được, nó cũng đi” để
nói về tâm trạng của người dân Miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 75 đó sao.
Một thời gian sau đó, một cán bộ trong trại răn đe:
- Các anh đừng tưởng trốn trại mà không bị bắt lại là lầm to.
Thế nhưng sau lời răn đe đó, chúng tôi thấy anh C. vẫn là “bóng chim tăm cá” và
ai ai trong đám anh em tù cũng cho là Trại chỉ hăm he để chúng tôi khỏi noi
theo tấm gương vĩ đại của anh C. mà thôi chứ anh C. đã thật sự tung cánh về
miền tự do rồi.
Nhưng, lại chữ “nhưng” quái ác vẫn thường trở lại làm tiêu tan giấc mộng đẹp
trong đời sống bình thường của chúng tôi, riêng tôi cứ mở to mắt nhìn mà cứ
tưởng như mình ngủ mê vì trong đám tù chúng tôi di chuyển về Trại Nam Hà vào
cuối năm 78, hôm đó có anh C. bị “mợ Tám” khóa chặt một tay còn tay kia thì bị
còng dính vào tay của một anh nữa mà tôi không biết tên, anh này thì một cánh
tay còn bị băng bột có lẽ bị gẫy hay sao đó, nghĩa là cứ 2 người chung nhau 1
còng để mà hưởng cái hạnh phúc không độc lập mà cũng chẳng có tự do của người
tù khốn khổ mỗi khi chuyển trại. Mãi về sau này, chúng tôi mới biết lý do sự
chuyển trại là do Tàu sắp tấn công và xâm lăng Việt Nam như cha ông họ đã làm
đối với dân tộc ta từ ngàn xưa vì đó là giấc mộng Đại Hán mà dân tộc họ luôn ấp
ủ trong tâm khảm.
Trại tù nào cũng giống trại tù nào, khi đến trại mới lại “học tập” đường lối
chính sách của Đảng và Nhà Nước, lại khai lý lịch và anh em chúng tôi không ai
bảo ai, người nào cũng có một mẫu khai dự phòng nên lại lấy mẫu khai này rồi
điền vào “chỗ trống cho hợp nghĩa” thế là xong.
Một hôm, tại khu A ở trại tù Nam Hà, chúng tôi bị tập trung ra sân để nghe nói
chuyện, người nói không xưng tên, chức vụ, đây vẫn là thói quen làm việc “ban
đêm”, thói quen giấu diếm của những người làm những việc tự thấy là không chính
trực mà thói quen này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay mà điển hình là khi họ
ký hiệp ước dâng một phần “máu thịt” của mẹ Việt Nam cho kẻ thù truyền kiếp mà
không dám công khai cho toàn dân biết và các thói quen này cũng đã nói lên cái
bản chất coi thường, khinh rẻ người “chủ” của chế độ như Cộng Sản vẫn luôn luôn
rêu rao để mị dân. Hắn ta chỉ nói là: Tàu xâm lăng Việt Nam và chúng ta đã bị
thua đậm, thế thôi và nhấn mạnh, nếu cần, sẽ sử dụng khả năng sẵn có của “các
anh” tức là của đám tù khốn khổ chúng tôi để “bảo vệ quê hương”. Cay đắng cho
tụi tôi chưa, bị kết án đủ thứ tội nhưng không dám đưa chúng tôi ra xử công
khai và giờ đây sau 4 năm tù thì được “người ta” cho biết là chúng tôi vẫn còn
có một quê hương để mà bảo vệ.
Đọc đến đây chắc quý bạn đọc thân mến sẽ tự hỏi: “Ô hay cái ông này, chẳng thấy
đâu là câu chuyện tù vượt trại gì hết, cứ thấy ông nói lòng nói vòng hoài à!”
Vâng, thưa quý vị, hình như càng lớn tuổi thì người ta càng tin vào thuyết định
mệnh an bài mà ông Trời đã dành cho mỗi người:
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có
thân
Bắt phong trần, phải phong
trần
Cho thanh cao mới được phần
thanh cao. (Kiều).
Tôi, như trong câu Kiều nói trên, đã phải chịu “phong trần” từ năm 1979 là năm
tôi biết được phần đầu của câu chuyện và mãi cho tới năm 1985 tức là 6 năm sau,
khi có cái may mắn thoát chết vì bệnh phù thũng để rồi qua bao lần chuyển trại
và có lẽ do định mệnh hay do ông Trời sắp xếp nên đã được nằm cạnh anh C. và
mừng hết lớn, tôi không quên hỏi anh về câu chuyện trốn khỏi trại tù hồi đó.
Khi được hỏi, anh ra hiệu cho tôi ra khỏi buồng tù và sau đây là lời kể chuyện
của anh:
“Lúc ở trại Phong Quang, nơi đội Rau Xanh trồng rau thì lại gần lò gạch do tù
hình sự đảm trách.Trong những lúc giải lao, thì tụi này thường hay ngồi cùng
với mấy anh em tù hình sự, mới đầu thì hai bên còn giữ ý, sau một thời gian thì
điếu thuốc qua, bi thuốc lào lại nên đã dần dần thu hẹp lại khoảng cách biệt và
từ đó trong câu chuyện đã có sự thân mật dẫn đến sự trao đổi tâm tình.
Tù hình sự phần đông là những người nghèo khổ, giáo dục gia đình hầu như không
có nên đa số ăn nói lỗ mãng, mở miệng là các loại “hỏa tiễn made in North
Viet Nam” như đ..m...,đ..b...bay ra ầm ầm, làm choáng váng người nghe, phải nói
như vậy là để thấy sự sa đọa về giáo dục,về con người của “xã hội chủ nghĩa
Miền Bắc”; vì khi bị giam chung với tù hình sự Miền Nam ở Long Giao, những anh
em tù này tuy là hình sự nhưng tôi không bao giờ thấy các anh em này sử dụng
các loại “hỏa tiễn” nói trên. Câu nói của họ khi tiếp xúc với chúng tôi luôn
luôn tỏ ra có sự trân trọng và tỏ ra rất lễ độ, và mỗi lần trông thấy anh em
chúng tôi ở phía xa xa là không ai bảo, họ đều chào to bằng câu là “Đại bàng
gẫy cánh se sẻ cụt đuôi” và trong cung cách vẫn tỏ ra có sự thương mến tụi tôi
tuy rằng chúng tôi là những người thất thế.
Các cán bộ Cộng Sản, khi thuyết giảng vẫn thường rêu rao là Miền Nam đồi trụy
có tới 300,000 đĩ điếm và trộm cắp đầy rẫy, cứ làm như là trong thiên đường của
Cộng Sản là thiên đường thật sự nên không có tù hình sự! Thế thì các trại tù
như Phong Quang, Nam Hà và còn biết bao nhiêu nữa ở Miền Bắc chắc là để nhốt
muỗi hay sao đây!
Trong số các anh em tù hình sự đó, tôi để ý thấy một anh rất ít nói, nét mặt
lúc nào cũng đăm chiêu, tư lự, lân la tôi, làm quen, ngay từ lời nói đầu tiên,
tôi giật mình vì nhận ra anh ấy là người Quãng Ngãi, cùng quê với tôi, và cứ
mỗi ngày một chút dần dần 2 chúng tôi hiểu nhau nhiều hơn và một khám phá nữa
càng làm tôi giật mình hơn nữa, không những cùng tỉnh mà còn cùng làng nữa, vì
khi nhắc đến những bậc vai vế trong làng thì cả anh ấy và tôi đều cùng biết rõ
như là bàn tay có 5 ngón!
Cho đến một hôm, khi tình bạn đã đậm nét thì chúng tôi lại khám phá thêm ra là
chúng tôi còn có họ hàng xa nữa. Đến đây thì, anh TTB, ta cứ gọi tắt là B. cho
tiện, mới tiết lộ:
- Trung Quốc và Việt Nam không thuận, có muốn vượt trại không?
Tôi hỏi lại B:
- Vượt trại thì được rồi nhưng còn gia đình B thì sao?
Đến đây B. mới cho biết, trước khi bị tù, anh ta làm ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa ở Đông Đức, mỗi khi có cuộc họp báo hay biến cố quan trọng nào ở
Tây Bá Linh thì đều phải tham dự và viết báo cáo gởi về Việt Na. Đi cùng có 2
người nữa, và mỗi người đều có một khẩu súng lục với chỉ thị nếu ai định đào tị
sang Thế Giới Tự Do thì khẩu súng sẽ làm nhiệm vụ của nó, nói nôm na là phải
thanh toán, phải giết người vì người đó đã bị “nọc độc của chế độ tư bản” làm
hư hỏng và lần nào cũng vậy, cả 3 phải canh chừng lẫn nhau, dĩ nhiên trong 3
người thì B là chính còn 2 người kia là “cai tù” tuy rằng điều này không ai nói
cho biết.
Cho đến một hôm, Tòa Đại Sứ nhận được công điện của Bộ Ngoại Giao trao tặng cho
B. một huân chương vì những thành quả đạt được và triệu hồi B. về nước để nhận,
dĩ nhiên ông Đại Sứ rất mừng và cho làm tiệc tiễn hành một nhân viên xuất sắc
dưới quyền khiến ông được thơm lây theo như phong tục của người Việt ta.
Khi về tới nơi, anh ta mới bật ngửa vì chỉ thấy công an “dàn chào” cẩn thận,
không cho gặp mặt vợ con dù chỉ là 1 phút và đưa vào trại tù ngay lập tức với
lý do trong những bài viết gởi về, “người ta” đã khám phá ra là B. đã manh nha
những tư tưởng phản động, chỉ “manh nha” thôi, chứ không có bằng chứng gì là
phạm tội đâu nhé mà đã bị kết án rồi, không cần tòa án xét xử dù cho chỉ có
hình thức thôi, vì tòa án cũng là của Đảng mà.
Tới đây thì mình mới hiểu thật rõ câu “độc tài Đảng trị” ghê gớm như thế nào vì
nếu có cách gì mà Đảng “nắm” được không khí thì chắc chắn là Đảng sẽ chẳng ngại
ngần gì mà không phân phối để nắm chặt thêm quyền thống trị hơn nữa như là Đảng
đã từng làm với chế độ tem phiếu. Bị tù rồi, thì mới thấy ở nước ta trong chế
độ Cộng Sản, dù đêm hay ngày thì người “chủ” chỉ thấy có ban đêm mà thôi mà là
đêm không cùng, chừng nào mà cái chế độ tàn ác này còn tồn tại, trong khi đó
thì “tớ” mới có cả ngày lẫn đêm để tìm tòi, suy nghĩ tùy nghi sử dụng bàn tay
sinh sát của mình để làm tình làm tội và bóc lột “chủ”, xua “chủ” đi giải phóng
miền Nam để chết thay cho “tớ”!
Còn vợ của tôi ư, hiện nay bà ấy đang dạy học ở Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, thế
nhưng bị kết tội như tôi, nhất là tội về “tư tưởng”, thì kể như tiêu tán đường
rồi và mình nên kiếm chước “tẩu vi thượng sách” là hơn và cứ coi như mình hay
vợ mình đã chết thì mình mới dễ dàng quyết định. Đây là dịp để mình thử thời
vận như các cụ ta vẫn thường nói: “Được ăn cả, ngã về không”, vả lại, đời tôi
kể như bỏ rồi!”
Kể đến anh nói một câu gở miệng:
- Đằng nào cũng chết, không chết trước thì cũng chết sau mà.
Rồi như một thi sĩ chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, B. tằng hắng lấy giọng rồi
ngâm khe khẽ:
“Thà một phút huy hoàng rồi
chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm
năm.”
Như vậy, đối với B. thì đã xong, ngoài ra tôi còn rủ thêm được người bạn thân
của tôi là Th. T/N. cùng tôi trốn trại nữa, N. là bạn thân của tôi từ hồi nào
đến giờ. Là người trầm tĩnh, kín đáo, N. rất dè dặt từng lời nói do đó mới có
thể bảo mật được kế hoạch trốn trại vì người Pháp đã chẳng có câu: “Sự bí mật
của hai người là sự bí mật của tất cả mọi người” đó sao và đúng như sự đánh giá
của tôi, N. quả thật đã không phụ sự kỳ vọng mà tôi tin tưởng nơi anh.
Việc nhín chút cơm, chút muối thì B. lo, cho đến ngày đã định, chúng tôi kiếm
cớ vào rừng lấy củi về nấu nước cho anh em rồi dông một mạch. Vì tù đông nên
mỗi đội khoảng từ 35 đến 40 người được cấp phát một đôi thùng để nấu nước uống
phát cho anh em ngay tại hiện trường lao động, còn nhà bếp của Trại chỉ lo việc
ẩm thực mà thôi.
Cứ ngày nghỉ đêm đi, vì nếu đi ban ngày dân thấy thì bị lộ, chẳng bao lâu thì
đã đến con sông phân chia ranh giới hai nước vì trại tù Phong Quang chỉ cách
Trung Quốc có 16 cây số đường chim bay mà thôi. Tới được nơi đây thì cả 3
đã quá mệt mỏi, nên sau khi thảo luận tất cả đều đồng ý là hãy nghỉ cho khỏe
rồi lúc mát trời vào lúc xế chiều sẽ đốn chuối làm bè qua sông, tự do đã ở
trong tầm tay chỉ với ra là nắm, là bắt được liền vì nhìn qua phía bờ bên kia
chúng tôi đã thấy 1 vài người Hoa đang làm ruộng, đầu đội nón rộng vành ở
phía xa xa, và đó là sơ sót thật là đáng trách khiến về sau này chúng tôi cứ ân
hận mãi. Thật là không có cái dại nào giống cái dại nào, cơ hội đã đến lại để
vuột mất, y chang cái túi khôn của người Tây Phương đã được diễn tả trong câu:
“Thời gian và cơ hội không chờ đợi ai cả”.
Sau khi đã quyết định như vậy rồi, chúng tôi mỗi người tìm một bụi cây rồi chui
vào ngủ, và vì quá mệt mỏi nên cả 3 đều ngủ quên đến khi nghe tiếng chó sủa thì
lúc đó trời đã tối đen, B vội lao mình xuống sông nhưng không kịp nữa rồi, một
tràng AK vang lên trong đêm trường tịch mịch và tiếp theo đó là một tràng AK
nữa khi Th.TN. lao mình tiếp theo cùng với B. Riêng phần tôi, một con chó
berger Đức ở đâu gầm gừ lao tới, mõm đớp chặt ống quần khiến tôi không cục cựa
gì được, 1 tên công an chĩa súng AK vào ngay mặt tôi, miệng quát lên:
- Động đậy ông bắn chết bây giờ.
Sau đó là màn đòn thù liên tiếp giáng xuống, khỏi cần nói cũng biết là thê thảm
đến như thế nào rồi, riêng B. vì đạn trúng tim nên chết tại chỗ, còn N. thì đạn
trúng cánh tay phải nên bị gẫy tay. Khi về đến trạm công an biên phòng lại một
trận đòn thù còn thê thảm hơn thế nữa khi họ khám phá ra là chúng tôi là tù
trốn trại chứ không phải là những người buôn lậu.
Cuộc trốn trại không thành công nhưng tôi vẫn tự hào là tôi và những người cùng
tham gia đã giữ được bí mật đến phút chót, đã qua mặt được đám cai tù, chỉ có
một điều ân hận là không biết cái chết của anh B. có được thông báo cho gia
đình anh ấy không, chắc chắn là nếu có, thì họ cũng giấu nhẹm lý do anh ấy bị
chết, vì đó là bản chất của họ.
Tôi tự an ủi là phần tinh anh của con người không bao giờ chết, chả thế mà
trong Kiều có câu:
“Thác là thể phách, còn là
tinh anh.”
Và chắc chắn là anh B. khi qua bên kia thế giới vĩnh hằng anh đã không còn điều
gì ân hận vì phần tinh anh của anh giúp anh biết được là anh đã chết và chết
như một con người tự do”.
Trần Ngọc Bình
No comments:
Post a Comment