Sau gần hai tháng giao tranh đẫm máu, cố đô Huế đã được tái
chiếm. Sau một thời gian ngắn, Ba Mạ tôi dọn hẳn về Sài Gòn, vì nơi cả gia đình
sinh sống bao năm, cùng với bốn căn nhà cho thuê đã thành gạch vụn. Riêng tôi,
ở lại vì đang theo học tại Viện Đại Học Huế. Tôi tạm quen dần với đời sống tự
do bất ngờ cùng với vài người bạn thân cũng bám trụ ở Huế: Trí, con út dì ruột
tôi và cũng là người bạn chí thân của tôi, một người yêu chuộng hòa bình, tiếp
tục sự nghiệp “Make Love, Not War”.
Lớn hơn tôi hai tuổi và nhỏ hơn anh kế tôi hai tuổi, Trí chơi
thân với cả hai anh em. Không có tâm sự nào của y mà tôi không biết và ngược lại,
chuyện vui, buồn, tốt, xấu, hay, dở của tôi Trí cũng đều hay.
Tôi thường nói đùa với Trí: “Ngày nào nếu tao trở thành Tổng Thống,
tao sẽ cho mi hai lựa chọn: Một là làm Cố Vấn An Ninh cho tao, hai là đi “mò
tôm”, vì mày lỡ biết quá nhiều!”
Kế đến là Sử, cựu đệ tử Dòng Chúa Cứu Thế Huế, đang học Dự Bị
Văn Khoa Ban Anh Văn. Sử người gốc Quảng Trị, thích thể thao, tánh khí hồn
nhiên, lạc quan, hiền lành, tiếu lâm. Sau cùng là Tuấn, một bạn tương đối mới,
đang học Dự Bị Y Khoa. Ngoài những giờ sinh hoạt riêng ở trường, bọn tôi hay tập
họp ở phòng của Trí, ở lầu hai của biệt thự đang để trống của ông anh rể, gần
Cư Xá Xavier của các Cha Dòng Tên.
Căn biệt thự hai tầng bề thế trước đây, nay bị thiệt hại nặng nề,
vách tường đổ nát, cầu thang rã rệu, tầng trên gần như không còn, duy chỉ có
căn phòng của Trí là còn tạm thời đứng vững, nằm vất vưởng, cheo leo như một
chuồng cu. Diện tích phòng cũng vừa đủ cho một cái giường và vài thứ lặt vặt.
Tuy còn độc thân, vui tính, nhưng sinh hoạt của bọn tôi lúc đó,
có thể xem là khá lành mạnh. Đúng ra, cũng chẳng phải bọn tôi thánh thiện gì,
chẳng qua là chẳng thằng nào có đủ tiền để... hư thân, mất nết. Rảnh rỗi bọn
tôi đàn hát, đùa giỡn. Nhậu nhẹt cũng chút chút, vì không có khả năng nhậu xỉn
hơn. Thỉnh thoảng bọn tôi cũng gây sòng, nhưng thay vì ăn tiền, bọn tôi ăn cà
rem cây. Bọn tôi mua nguyên thùng, lúc đầu, ai thắng, được cây kem; ăn ớn tới họng
rồi, luật chơi đổi: Ai thua, ăn cây kem.
Riêng việc cơm nước thì thả nổi, khi tự túc, khi đóng góp ăn
chung, khi cơm “nhà”, khi ghé ăn cơm ở Cantine Cư Xá Xavier. Bàn cơm không lấy
gì làm thịnh soạn mà có đến bốn đứa muốn ăn ngon! Cách giải quyết tốt nhất là
rút bài: Đứa nào hên được bài lớn, chọn món ngon nhất, và cứ tuần tự cho đến thằng
xui xẻo nhất, đành vừa chửi thề vừa húp canh.
Thời đó, khi cần, tôi có thể “báo cơm” với bà Toán, người giữ
nhà. Tôi khoái nhất là món cá nục con kho tiêu, cộng thêm món tương ớt bà tự
làm lấy, thật đặc biệt. Ăn mãi không thấy no. Đúng là “Cơm với cá như Mạ với
con”, một câu ca dao Ba tôi hay nói.
Trong khi chờ đợi thông báo của Viện Đại Học Huế về việc đi học
trở lại, tôi quyết định nộp đơn gia nhập Không Quân, sau khi tạm thời được “độc
lập tự do”. Thư khiếu nại của Mạ tôi, cộng thêm sự phản kháng thầm lặng của cô
bạn gái khiến tôi bỏ ý định.
Những ngày sau, chúng tôi được thông báo các nam sinh viên sẽ phải
tham dự chương trình huấn luyện Quân Sự trong vòng một tháng. Đó là lần đầu
tiên chương trình Quân Sự Học Đường được áp dụng trên Đại Học toàn quốc và tiếp
tục duy trì những năm sau đó.
Chương trình Huấn luyện thường bắt đầu lúc 8 giờ sáng và chấm dứt
khoảng 4 giờ chiều. Thời gian này, các trung tâm tỵ nạn đã đóng cửa để trả lại
phòng ốc cho các trường học. Sau buổi tập, nếu không hẹn đi thăm bạn gái, tôi
thường ham vui theo đám bạn, chạy lòng vòng, theo “nghễ” mấy cô Đồng Khánh. Đi
“nghễ”, một từ rất Huế, là đi ngắm các cô, một sinh hoạt phổ biến của con trai,
không riêng gì ở Huế.
Vì vậy, dù đã có bạn gái, và dù không có bất cứ dự tính “đen tối”
nào, mỗi khi rảnh rỗi, tôi vẫn theo Trí và Sử lượn ngang, lượn dọc theo đường
Lê Lợi, để ngắm mấy cô nữ sinh áo trắng tan học, tung tăng như bầy bướm.
Giờ nhìn lại, quả tình
thấy mình đã đùa với lửa mà không hay! Không phải lửa thường, mà là lửa từ
trời, là “Tích lịch Hỏa”. Những người tuổi Kỷ Sửu như tôi mạng Tích
lịch Hỏa, có nghĩa là lửa do sấm sét, chứ không phải
lửa bếp, lửa than.
Dòng điện sấm sét có
thể lên đến 100 triệu, hoặc có thể tới một tỷ volt. Những chuyển
biến tình cảm đột ngột đó thật nguy hiểm, nên người Pháp mới gọi là “Coup de
foudre”, tiếng Việt mình thì gọi là “Tiếng sét ái tình”.
Một buổi chiều, cũng như những
buổi chiều khác, sau giờ tập quân sự, tôi theo mấy thằng bạn ra bến đò Thừa Phủ,
nơi một số các nữ sinh Đồng Khánh ở phía Tả Ngạn, sau giờ tan trường, thường
đón phà, hoặc đò qua sông, vì cầu Trường Tiền đã bị giật sập mất “vài” nhip giữa.
Trong đám đông lố nhố, tôi bất chợt bắt gặp một đôi mắt, một đôi
mắt câm lặng, thật lớn, thật ướt và thật buồn! Điều kỳ lạ là chủ nhân của đôi mắt
ấy lại là một cô bé, mà trông cô ta bé thật. Thoạt nhìn, tôi đoán cô bé không
quá tuổi 16 và chắc học đệ Ngũ đệ Tứ là hết cỡ.
Ở lứa “tuổi ô mai”, tuổi của vô tư, của mộng mơ, nhí nhảnh, vậy
mà sao đôi mắt ấy có thể buồn đến vậy? Dáng người nhỏ nhắn, xinh xắn, khá gầy,
tóc thề chấm vai. Bắt gặp bị nhìn trộm, đôi mắt tránh vội sau vành nón. Và cứ
thế, hai ánh mắt, một bám chặt như đinh đóng, một tránh né, rụt rè.
Tránh né nhưng không nghiêm khắc, khó chịu; rụt rè nhưng không
hoảng sợ, cuống quýt. Tôi thẫn thờ đứng đó cho đến khi “cô-bé-mắt-buồn” (CBMB)
lên được chuyến phà kế tiếp. Tôi dõi mắt nhìn theo. Châm điếu thuốc, hít một
hơi thật sâu, tôi thắc mắc: Tại sao giữa đám người đông đúc, tôi chỉ nhìn thấy
độc có đôi mắt buồn?
Điều gì đã xảy ra khiến lòng tôi như dậy sóng? Tôi nhớ câu thơ của
Quang Dũng trong bài “Đôi mắt người Sơn Tây”: “Đôi mắt người Sơn Tây/ U uẩn chiều
lưu lạc/ Buồn viễn xứ không khuây...” Đôi mắt buồn mãi theo tôi từ hôm đó!
Nạn nhân vô tội của tiếng sét quái ác kia là cô bạn gái của tôi.
Cô vẫn hồn nhiên, vui vẻ, không hay biết và cũng chưa cảm nhận được rằng có một
điều gì đó đã xảy ra. Nói cho đúng, vào lúc đó, chưa có điều gì đã thật sự xảy
ra. Sấm sét, giông bão có chăng là chỉ mới dấy khởi trong lòng tôi. Sau gần
hai, ba tuần lể theo dính như cái đuôi, tôi còn chưa biết đến tên CBMB nữa
là...!
Thế rồi, tháng huấn luyện Quân Sự Học Đường cũng chấm dứt. Chúng
tôi trở lại trường, tiếp tục chương trình bị dang dở vì chiến cuộc. Tôi gặp lại
cô bạn gái đều đặn mỗi ngày. Càng gặp, tôi càng mặc cảm mình đã làm điều sai
trái, dù điều “sai trái” chỉ mới manh nha.
Tôi không quen lừa dối, cũng không thích lừa dối. Tôi không có
tính tham lam, cũng không thích tham lam. Nhưng giờ đây, làm sao chối bỏ điều
tôi là người vừa tham lam, vừa lừa dối?
Sau bao ngập ngừng, dằn vặt, tôi quyết định là không thể và
không nên kéo dài tình trạng mập mờ nữa. Phải có sự lương thiện tối thiểu, phải
lấy hết can đảm để “thú tội”, rằng tôi không còn xứng đáng sự tin cậy của nàng
nữa.
Có lẽ, đây là một trong vài trường hợp hiếm hoi trong đời, tôi
đã tự trách mình thậm tệ. Nàng bỏ học hai ngày. Lúc trở lại, mắt vẫn còn đỏ
hoe. Tôi ghét tôi vô cùng tận, không những lúc đó, mà ngay cả bây giờ, mỗi khi
nhớ lại.
Không còn bị lương tâm cắn rứt, tôi yên tâm làm cái đuôi ngoan
ngoãn của CBMB. Tôi cũng đã biết được thêm một vài tin tức, không phải trực tiếp
từ đương sự, mà là tin tình báo từ mấy tên bạn, qua các cô bạn mới mà bọn nó
đang ráo riết theo đuổi. Cô bé mang họ Hoàng, Hoàng Thị T., học lớp Đệ Nhị C.
Việc “theo” Hoàng Thị cũng có vài thay đổi: thay vì chỉ khắc khoải
chờ đợi ở bến phà, nay tôi còn tìm cách nới rộng “địa bàn hoạt động”. Tôi theo
nàng qua tận bên kia sông, nơi nàng gửi xe, rồi từ đó, lẽo đẽo theo sau, đến tận
nhà nàng, ở mãi tận Bãi Dâu, một vùng đất mà mới cách đó vài tháng, trong thời
gian biến động, đã nổi tiếng với các vụ lùng sục, bắt bớ của các Tòa Án Nhân
Dân mà chánh thẩm không ai khác hơn là “Thầy” Hoàng Phủ Ngọc Tường, một nhà mô
phạm đã lột xác biến thành đao phủ. Các bản án tử hình được đọc và thi hành một
cách vội vã, không có sự hiện diện của bất cứ Luật Sư biện hộ nào.
Trước đây, tôi chỉ biết đến đường Chi Lăng, khu Gia Hội, vì thỉnh
thoảng đi xem phim tại rạp Châu Tinh và Gia Hội, nhưng chưa bao giờ có dịp đặt
chân đến khu Bãi Dâu. Những lần đầu khi theo đuôi Hoàng Thị đến khu này, tôi vẫn
thấy rờn rợn như đi vào bãi tha ma. Cũng may có Trí luôn theo hộ tống, nên tôi
cũng bớt rét.
Nghĩ lại, tôi thấy mình thật ngu ngơ: đi tán “người ta” mà lại
chở theo thằng bạn ngồi lù lù phía sau, hỏi sao người ta không hãi? Chắc vì vậy
mà dọc đường, Hoàng Thị vẫn luôn giữ im lặng, mắt luôn nhìn thẳng đàng trước,
nhứt định áp dụng chiến thuật “không nghe, không thấy, không nói” trước những
câu hỏi vớ vẩn làm quen của tôi.
Một hôm trên đường về, trời đổ mưa bất chợt, không biết sao hôm
đó tôi lại có đến hai cái áo mưa, mà nàng thì không có cái nào. Đúng là dịp may
hiếm có để tôi “tiếp cận” người đẹp. Nhưng mặc cho tôi năn nỉ, nàng vẫn một mực
lắc đầu từ chối, mặc cho mưa thổi tạt ướt như chuột lột. Cũng may, tôi vốn là kẻ
yêu mưa từ trong bụng mẹ, nên được dịp, tôi vui vẻ, nếu không nói là hoan hỷ,
theo nàng đội mưa. Và cứ thế, trời nắng hay mưa, ngay cả lúc giông bão, cây gẫy,
ngói bay... lúc nào cũng có tôi, mong ngóng, chờ đợi, không nản chí.
Thế mới biết khi yêu, con người có thể trở nên kiên nhẫn, lì lợm.
Dù vậy, trước sự câm lặng khá lì lợm của CBMB, đôi khi tôi cũng phải tự hỏi: phải
chăng mình đang theo đuổi một bóng ma?
Nhà nàng nằm trong một con hẻm cụt. Thêm một trở ngại. Tuy thế,
đó chỉ là chuyện nhỏ. Tôi tìm cách “tán” luôn anh chàng SV Khoa Học tên Thắng,
nhà ở ngay cuối hẻm. Thế là từ đó tôi “danh chánh ngôn thuận” ra vào con hẻm,
vô ra ngõ thường hơn, thoải mái hơn, nhất là vào những ngày nàng nghỉ học.
Dù không diện kiến, ít ra, tôi cũng vẫn hít thở được khoảng
“không gian” của nàng. Nếu may mắn, tôi có thể nhìn thấy nàng hiện ra ở khung cửa
sổ phòng nàng trên căn gác lửng, dưới tàng cây vú sữa, tóc xỏa dài, mắt buồn, lặng
lẽ nhìn xuống.
Với tôi, hình ảnh nàng vào giây phút đó, là hình ảnh của một
Thánh Nữ, tinh khiết, tuyệt vời, dù hơi u uẩn. Từ một mẫu người rất “đàn ông”,
mạnh dạn, chủ động, cứng rắn, tôi bỗng hạnh phúc đóng vai Đoàn Dự, một nhân vật
tôi rất yêu thích trong Thiên Long Bát Bộ, người đã thành khẩn dập
đầu đến tươm máu, trước vẻ đẹp xuất phàm của pho thạch tượng mỹ nữ.Trong giây
phút ngắn ngủi, đôi mắt chạm nhau không tránh né, tôi đã cảm nhận trọn vẹn niềm
hạnh phúc tuyệt vời nàng ban cho.
Rồi niên học chấm dứt, Hoàng Thị thi đỗ kỳ thi Tú Tài Bán Phần.
Ngày có kết quả, không phải thí sinh mà cũng chẳng phải thân nhân, tôi hăng hái
chen lấn trước khung niêm yết. Tên nàng kèm với ngày sinh nằm nơi gần cuối bảng.
Tôi lại đoán sai: CBMB chỉ nhỏ hơn tôi chưa tới một tuổi.
Còn tôi, kết quả kỳ thi cuối năm đã khiến tôi giật mình. Trong
nhóm ba đứa bạn chơi thân cùng học Dự Bị, chỉ có mình tôi may mắn đỗ kỳ thi cuối
năm. Sử rớt DB VK Anh Văn, Tuấn rớt DB Y Khoa. Riêng Trí thì vẫn tiếp tục “tàng
tàng” chống chiến tranh! Thế là “Liên Minh” tan rã: Sử gia nhập trường Chiến
Tranh Chính Trị Đà Lạt, Tuấn tình nguyện vào Hải Quân.
Được tin tôi thi đỗ, gia đình thúc hối tôi vào SG để thi vào
ĐHSP. Tôi miễn cưỡng chấp thuận và tự trấn an: Thôi thì cứ đồng ý. Vào đó cố
tình thi “quấy quá” để rớt. Rớt rồi, tôi sẽ có lý do chánh đáng để xin trở về học
tiếp ở ĐHSP Huế. Làm sao có thể rời xa “Pho thạch tượng” của tôi được, dù cho đến
giờ này, nàng vẫn chưa bày tỏ một dấu hiệu cụ thể nào để làm tin?
Hai ngày trước khi lên máy bay rời Huế, tôi quyết định đến gặp
nàng. Tôi thu nhặt mấy cuốn sách Triết lớp Đệ Nhất của tôi trước đây, viết vội
trên một miếng giấy nhỏ vài hàng, đại khái báo cho nàng biết tôi sẽ rời Huế vào
ngày... và ngỏ ý muốn được gặp nàng, ngày mai, lúc một giờ trưa, ở ngay đầu hẻm.
Tôi cẩn thận kẹp miếng giấy vào cuốn Tâm Lý Học. Lần này, thay vì chạy lướt
qua, tôi lấy hết can đảm quẹo xe vào nhà nàng. Hình như nàng đang giúp Mẹ làm
gì ở sân trước. Thấy tôi xuất hiện khá đột ngột, đôi mắt buồn bỗng mở to, với một
thoáng ngạc nhiên, thắc mắc.
Có một biến đổi nhẹ nhàng trên khuôn mặt, tôi đoán là một nụ cười.
Không hốt hoảng như tôi đã dự đoán, nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, khẽ hỏi: “Ông
đi mô đây?” Tôi giật mình bởi tiếng “Ông”, vừa lạnh lùng, vừa xa lạ, nhưng cố
gượng cười, tôi cho nàng biết là tôi mang mấy cuốn sách Triết đến cho nàng mượn.
Nàng quay lại cười cười với mẹ rồi nói: “Anh con nhỏ bạn cùng lớp
mang cho con mượn mấy cuốn sách.” Sau đó, nàng mời tôi vào nhà, kêu tôi ngồi xuống
và đi vào trong lấy nước. Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, trước đây, tôi
đã đoán sai tuổi, sai lớp, và giờ đây, tôi lại đoán sai cả phản ứng của nàng,
trước sự đột nhập của tôi.
Không ở chơi lâu, tôi chỉ chia vui với nàng vừa thi đỗ và mang mấy
cuốn sách năm tới nàng có thể sẽ cần đến. Trong lần gặp gỡ ngắn ngủi đó tôi
không nhớ đã nói cho nàng biết tôi sẽ rời Huế. Có lẽ tôi nghĩ tờ giấy nhỏ kẹp
trong sách sẽ thay tôi làm điều này. Phần nàng, mặc dù cũng có nói chuyện chút
chút, lịch sự, nhưng một tiếng “Ông”, hai tiếng “Ông” như cố tình vạch một lằn
ranh, không muốn tôi vượt quá. Tôi ra về, lòng thắc mắc.
Ngày hôm sau, hồi hộp đến điểm hẹn, tôi tự hỏi: Nàng đến hay
không? Với tôi, đến hay không sẽ giúp tôi biết được lòng nàng trước khi tôi rời
Huế. Dù sao, tôi cũng đã chuẩn bị một món quà nhỏ, nhưng mang nặng giá trị biểu
tượng: Một trái tim tôi tự cắt đẽo, từ một miếng quế (Quế là tên nàng ở nhà).
Miếng quế dày khoảng hơn 1cm và là món quà của mấy anh lính Thiết Giáp đã lén lấy
và đem tặng gia đình tôi, khi trấn giữ Dinh Cậu Cẩn trong dịp đảo chánh TT Diệm.
Đúng một giờ, vẫn trong tà áo dài trắng, CBMB lững thững đạp xe
ra khỏi ngõ. Tôi hoan hỷ như vừa trúng số độc đắc. Chưa kịp biểu lộ mừng rỡ,
tôi thấy nàng trợn mắt ra vẻ ngạc nhiên khi trông thấy tôi: “Ông đi mô mà giờ
ni ở đây?” Đúng là con gái Huế, đã đến chỗ hẹn với người ta rồi, mà còn làm bộ
mắc cở hỏi này, hỏi nọ! Tôi nghĩ thế và cười chọc lại: “Thấy buồn buồn, không
biết đi mô, nên đến đứng đây chơi. Còn T., đi mô mà nắng nôi rứa?” Nàng mau mắn
trả lời: “T. qua Bưu Điện gửi thư”. Rồi cũng như mọi khi, người rồ xe, người lọc
cọc đạp xe bên nhau, giữa đường phố ít người. Lòng tôi ngổn ngang tâm sự và lời
lẽ thì thưa vắng.
Bình thường tôi lí lắc, thông minh, hoạt bát, tiếu lâm. Bên cạnh
CBMB, tôi như người cụt lưỡi, biến thành Đoàn Dự, vụng về, bị động, cù lần! Có
phải “dòng điện siêu cao thế” trong phút chốc đã biến đổi não trạng của những
thằng bị “sét đánh” như tôi?
Đối tượng bỗng chốc trở thành Tiên Thánh, riêng bản thân, trở
nên thuần thành như một tín đồ, cộng chút vụng về, ngốc nghếch. Người ta tán tỉnh,
chinh phục người thương. Có ai tán tỉnh, chinh phục Tiên Thánh bao giờ?
Trên đường về, tôi gợi ý mời nàng cùng ghé uống nước chanh đá ở
một quán ven đường. Nàng cười mỉm, lắc đầu. Đi loanh quanh, rồi cuối cùng cũng
về gần tới ngõ, tôi lặng lẽ móc túi, lấy trái tim quế, mà trước đó tôi đã đục một
lỗ nhỏ và xâu dây, với tay qua và móc vào guidon xe nàng.
Phải nói, tôi hơi thất vọng về lần hẹn hò đầu tiên. Tôi có cảm
tưởng như có một làn sương mỏng luôn bao phủ quanh nàng, luôn ngăn cản, không
cho phép tôi được thật sự đến gần. Mà tôi đâu còn thời gian nữa, ngày mai tôi
đã phải rời xa nơi chốn này rồi! Theo thuyết nhà Phật, phải chăng đây là “quả
báo nhãn tiền” tôi phải trả cho sự sai trái của tôi đối với cô bạn gái?
Khi đặt chân đến Sài Gòn, tôi vui mừng được gặp lại Ba Mạ cùng
gia đình Anh Chị, nhưng chút tình dang dở để lại Huế vẫn là niềm ám ảnh khôn
nguôi. Tôi viết vội vài hàng thăm Hoàng Thị, báo cho hay tôi đã đến nơi bình
yên, và luôn nghĩ đến nàng.
Khoảng mười ngày sau, tôi nhận được thư hồi âm. Cầm thư trên
tay, nhìn thấy tên nàng, tim tôi đập loạn xạ. Ôm thư chạy vội lên gác, phóng
lên giường, với tay lấy chăn đắp, chẳng khác gì khi còn bé, vào những đêm đông
mưa lạnh, tôi hăm hở nhảy lên giường trùm chăn kín, một gói đậu phụng rang còn
nóng hổi giấu vội trong túi áo.
Lá thư này, với tôi, là chứng tích đầu tiên, thấy được, sờ được,
sau bao ngày mong đợi. Trên nền giấy trắng, nét chữ bằng mực tím, mạnh dạn
nhưng lả lướt, khác hẳn con người nhỏ nhắn, rụt rè, đã kích thích tôi đến ngộp
thở. Tôi vẫn còn nhớ cái cảm xúc tuyệt vời của giây phút đó. “Trước hết, xin được
phép thay thế tiếng “Ông” xa lạ bằng tiếng “Anh”, lá thư mở đầu.
Trong thư, nàng kể lại
một sự kiện thật lạ lùng: Sau lần chót gặp tôi ở đầu ngõ, liên tiếp hai ngày
không thấy tăm dạng, mãi thắc mắc vì sự vắng bóng của chiếc xe Honda màu đen,
mỗi ngày vẫn thường lượn qua lại trước nhà. Ngồi buồn, lơ đãng lật mấy cuốn sách
Triết tôi mang “cho mượn” bỗng nhiên, một tờ giấy nhỏ rớt xuống. Vội vã
nhặt lên, nàng mới hay đó là lời nhắn gửi tôi đã kẹp vào trang sách, báo nàng
biết tôi sắp phải rời xa Huế. Nàng đã bật khóc! “Đọc được những dòng chữ đó khi
anh đã xa ngút ngàn”...
Sáu câu thơ lục bát
tuyệt vời của một nhà thơ nào đó, rất tiếc tôi đã quên tên, đã nói lên trọn vẹn
nỗi cảm xúc của tôi, khi nhận được lá thư đầu tiên của CBMB. Nhưng rồi sau đó,
tôi phần nào thất vọng khi biết mình vừa trúng tuyển vào ĐHSP Sài Gòn. Thì ra
cái bản năng háo thắng, muốn thi đỗ của tên thí sinh, dường như đã lấn lướt,
chiến thắng cái âm mưu thi quấy quá của tên si tình, thi rớt để được trở về với người tình sầu mộng.
Hiển nhiên là tôi
không hề đả động gì đến việc trong số bạn cũ, có luôn cô bạn gái của tôi ở Văn
Khoa trước đây. Tôi kể về câu lạc bộ của Trường, nơi thỉnh thoảng tôi vẫn hay
lại ăn bánh cuốn, uống sữa đậu nành; về Nhà Thờ Tân Định, nơi tôi vẫn
đi lễ hàng tuần; về quán cà phê Lan Anh, nằm ngay sát cạnh nhà thờ, đối diện
với Bưu Điện Tân Định, với khoảng sân có tàng cây che mát, nơi mà Trí với tôi
vẫn thích ngồi cuối tuần, vừa nhâm nhi cà phê, vừa nhìn ông đi qua, bà đi
lại...
Cứ vậy cho đến một
ngày, bỗng nhiên thư nàng không đến nữa. Tôi quay
quắt, thắc mắc không biết điều gì đã xảy ra? Thư đi thì có, thư hồi âm thì
không. Thời đó, trở ngại không gian là cả một vấn đề. Bưu Điện nhãn hiệu “Con
Rùa” là phương tiện duy nhất để liên lạc. Những tình cảm nóng hổi “vừa thổi vừa
viết”, những trăn trở, thổn thức, lúc đến tay nhau, đã trở thành nguội lạnh,
quá “đát”. Hai ba lá thư gửi đi không kết quả, tôi chán nản, mệt mỏi đầu hàng!
Tưởng Tích lịch hỏa là lửa trời, là thiên thu, bất tận, nào ngờ cháy lẹ còn hơn
cả lửa rơm!
Không đợi câu trả lời,
tôi nhảy vội xuống xe, chạy ngược dòng xe như bị ma rượt, mà cũng có thể là để
rượt Ma, có lẽ đúng hơn. Khi còn cách một khoảng ngắn, tôi gọi lớn tên nàng.
Giật mình, nàng quay đầu lại, đôi mắt nàng mở lớn, xúc động, ngạc nhiên không
che giấu. Tôi vội hỏi: “Sao vô Sài Gòn hồi nào mà không cho anh biết?” Sau giây
phút ngỡ ngàng, lấy lại bình tỉnh, nàng nhỏ nhẹ cho biết: “T. lên Đà Lạt nghỉ
dưỡng bệnh gần tuần lễ, trước khi về lại Huế, ghé SG thăm người chị
bà con, luôn tiện dự lễ Mãn Khóa Thủ Đức của anh P.” Tôi khựng lại như bị điện
giật!
No comments:
Post a Comment