Pages

Thursday, September 4, 2025

Có Một Ngày Nào Đó...


Có một ngày nào đó, bạn bỗng nhận ra mình đã già!

Đó là khi bạn không còn hứng thú với những thứ lòe loẹt, những cảnh sắc rực rỡ, những nơi náo nhiệt và ồn ào thanh âm. 

Già, là khi bạn thức dậy lúc 4 giờ sáng, chỉ để nghe tiếng gà gáy ban mai và nằm đợi ánh bình minh lóe sáng sau rèm cửa… 

Già, là tối tối pha một ấm trà vừa đủ đặc, bật đài nghe những bài hát xưa cũ, đọc những cuốn sách cũ, chiêm nghiệm về cuộc đời, nửa gần nửa xa. 

Già, là khi bạn thích lang thang trên đường phố một mình, thích nhìn những bức tường loang lổ, những gốc cây rêu phong, những mái nhà cũ kỹ, thích những quán cổ, bàn ghế phủ bụi, không gian mốc thếch và mặt người trầm tư sau lớp sương thời gian.

Già, là khi bạn thích cảm giác được yên tĩnh một mình, chỉ một mình chìm trong những hoài niệm. Dạo này, thường nhắc đến những chuyện cũ. Có lẽ bởi thời gian đã gấp quá rồi!

Già, là khi bạn thấy mình ngày càng kiệm lời. Kiệm lời với chính bản thân, nhiều khi nghe tiếng nói của mình vang lên cũng giật mình. 

Già, là khi bạn bắt đầu tìm kiếm một nơi thật sự để đến, để sống và cất giữ tuổi già. Không phải để an dưỡng mà là để tách khỏi những ồn ào, thị phi.

Già, là khi bạn thôi không bận tâm những yêu thương, ghét bỏ, để lòng mình tha thứ cho qua hết giận hờn, buông bỏ bớt những nhạt nhòa, nghi kị. Chỉ giữ lại cho mình những niềm tin và đích đến, sống lặng lẽ và nhẹ nhàng, tự do trong khoảng trời riêng của chính mình. 

Già, là sống chỉ đủ cho mình, cho những người mình yêu, thế thôi…

Còn lại thì cứ như mây trời, lang bạt qua đời nhau, đã từng vui, đã từng buồn rồi mỗi người đôi ngả. Năm tháng đã qua ấy, tôi gọi tên là thanh xuân.


ĐẸP và HAY - Có một ngày nào đó, bạn bỗng chợt nhận ra mình...đã... | Facebook 

Thật Phi Thường, Đáng Kính, Nể Phục

 

Năm 1985, tại một ngôi làng yên tĩnh ở Đông Phi, một người đàn ông tên Daniel đứng chân đất với 3 cô con gái của mình. Vợ anh ta đã qua đời. 

Nhà họ không có điện. Có những đêm, bữa tối chỉ là rễ cây luộc và nước. Nhưng thứ họ có - thứ Daniel luôn đảm bảo họ có - là lòng tự trọng.

Mỗi sáng trước khi mặt trời mọc, anh đánh thức các con gái và đưa chúng đi bộ hai dặm đến trường. Anh không thể tự đọc hoặc viết, nhưng anh ngồi bên ngoài lớp học mỗi ngày, chờ đợi trong bóng râm, chỉ để chúng không phải đi bộ về nhà một mình.

Đôi khi anh nhịn đói để chúng có thể mua bút chì.

Anh bán nhẫn cưới của mình để có tiền đóng lệ phí thi.

Anh làm 3 công việc trong mùa thu hoạch chỉ để mua sách giáo khoa cũ - nhiều trang bị mất.

Mọi người cười.

"Chúng là con gái mà," họ nói.

"Chúng có tương lai gì chứ?"

Daniel không trả lời.

Anh chỉ tiếp tục đi bên cạnh chúng.


Nhiều năm trôi qua. Từng người một, họ tốt nghiệp.

Từng người một, họ giành được học bổng.

Và từng người một... họ vượt đại dương.


Năm 2025, 40 năm sau bức ảnh đó, thế giới đã chứng kiến một điều không ai ngờ tới:

Một hình ảnh mới của cùng một người đàn ông, đứng hiên ngang—lần này là trước một bệnh viện—cùng 3 cô con gái, tất cả đều mặc áo blouse trắng. 

Bác sĩ. 

Tất cả bọn họ.

Khi được hỏi cảm thấy thế nào, Daniel đã khóc và thì thầm, "Tôi chưa bao giờ trao cho các con gái của tôi cả thế giới. Tôi chỉ không bao giờ để thế giới lấy đi hy vọng của chúng."

Ông trồng trọt bằng đôi tay, nhưng nuôi dưỡng những bác sĩ bằng trái tim.

Và trong cái bóng lặng lẽ của một người đàn ông mà thế giới chưa từng biết đến, 3 cô gái đã đứng lên... và thay đổi tất cả. 

 

Lượm lặt

Wednesday, September 3, 2025

Cánh Hoa Pensée - Nguyên Nhung


"Đời như giấc mộng, tình như ảo     
Nào biết gì đâu, để đợi chờ".

Không biết tại sao tôi vẫn nhớ anh, dù thời gian trôi đi đã hơn 40 năm, mỗi lần hồi tưởng lại những kỷ niệm thời đi học, tôi lại nghe trong lòng rưng rưng một nỗi buồn dìu dịu. Mỗi năm khi mùa Xuân trở lại, nhìn những đóa hoa pensée trước sân nhà, rung rinh những cánh hoa màu nâu, tím, vàng rực rỡ, dưới ánh nắng dịu dàng một sáng mùa Xuân, lòng tôi lại nao nao nhớ về những đóa pensée ngày trẻ tuổi.

Tôi gọi anh là "người anh đồng môn", chỉ vì khi tôi đang học năm cuối Trung học đệ nhất cấp, anh đã sắp sửa ra trường để lên Đại Học. Anh là bạn học của chị tôi, vì thế hai người khá thân nhau, thành ra tôi không bao giờ nghĩ thứ tình cảm đầu đời dễ thương ấy anh lại dành cho tôi, cô bé nghịch ngợm và hay tìm dịp để trêu ghẹo anh mỗi lần gặp.

Anh hiền, hiền lắm, dáng dấp thư sinh, trông chững chạc vì tính ít nói, lại thêm đôi mắt hơi buồn nên lúc nào cũng như chìm trong mộng. Mỗi lần đến thăm chị em tôi, bao giờ anh cũng mang theo cuốn sách mới. Sách vừa xuất bản còn nóng hổi, chị em tôi chuyền tay nhau đọc trước, sau mới tới lượt anh. Đó là mấy cuốn tiểu thuyết của các nhà văn nổi tiếng thời ấy, viết về chiến tranh và những câu chuyện tình tiền tuyến hậu phương đẫm đầy nước mắt. Tâm hồn chị em tôi thật đa cảm, dễ khóc dễ cười , dành nhau những cuốn tiểu thuyết anh đem tới trong khi anh chỉ cười với đôi mắt hiền khô. Để không thể ngờ, mấy chục năm sau tôi có dịp hồi tưởng kỷ niệm thời đi học, anh lại là nhân vật chính cho câu chuyện "Cánh hoa Pensée" của tôi.

Khi mùa Xuân đến, anh và người bạn cùng lớp đến rủ chị em tôi đi chợ Tết, tôi thường kéo theo một, hai đứa bạn nữa. Lúc bị vây quanh bởi một lũ con gái nghịch ngợm, tự nhiên các chàng bắt đầu khớp, vốn ít nói anh càng ít nói hơn, vẫn chỉ hay cười. Chợ hoa nằm gần bờ sông, mỗi năm người ở trong quê chở vào thành phố những chuyến đò đầy hoa, không biết bao nhiêu loại hoa đẹp. Những chậu mai vàng đầy nụ, đứng chen chân với các loài hoa cúc, thược dược, mẫu đơn nhiều màu sắc, khiến khu chợ hoa càng hấp dẫn hơn nhờ bóng dáng của các cô thiếu nữ xinh tươi, với những tà áo màu vờn bay trong gió.

Thuở ấy tâm hồn chúng tôi còn tràn ngập màu xanh biêng biếc của tuổi học trò, hình ảnh của chiến tranh mờ nhạt nơi những chiến trường xa, sự mất mát của người lính ngoài tiền tuyến chưa làm quặn lòng người hậu phương bao nhiêu, nhất là ở tuổi "ăn chưa no, lo chưa tới" của đám trẻ thành phố. Chỉ vài năm sau, khi người bạn của mình lên đường nhập ngũ, rồi vĩnh viễn đi vào lòng đất mẹ, chúng tôi mới đủ lớn khôn để nghĩ về sự mất mát quá lớn lao ấy thì tất cả đã muộn màng.

Năm nào cũng vậy, mỗi khi Xuân về, anh không quên tặng tôi một tấm thiệp Xuân. Bên ngoài bao giờ cũng có hình con én ngậm thiếp chúc Xuân, bên trong dưới tấm giấy kính mờ mờ, một cành hoa pensée vàng, tím được ép khô, màu sắc vẫn tươi tắn. Tôi có cái thú từ hồi bé, hay để dành những tấm thiệp chúc Xuân làm kỷ niệm, nhìn những tấm thiệp to nhỏ bày đầy trên bàn học, tôi có cảm tưởng mùa Xuân lúc nào cũng rộn rã quanh mình.

Tấm thiệp chúc Xuân của anh rất đặc biệt, năm nào cũng gửi ngày tháng giống nhau, dù ngày Tết hằng năm có thay đổi. Mãi sau này anh không còn nữa, khi lật lại chồng thư cũ đời học sinh, vô tình tôi đã nhận ra điều đó. Cánh hoa pensée như một tín hiệu của tình yêu được lập đi lập lại nhiều lần, tiếc thay, tôi đã không hiểu hay không muốn hiểu, và khi ngồi lật lại chồng thư cũ, nhìn những tấm thiệp của người anh đồng môn năm cũ, tôi thực sự đã rơi những giọt nước mắt muộn màng cho một người đã ra đi.

Tấm thiệp Xuân năm xưa cũng kín đáo như tâm hồn anh, có lẽ vì khi anh nhập ngũ, tôi còn quá non nớt để bước chân vào cuộc đời một người lính, nên vì thế mà anh im lặng. Năm nào trong tấm thiệp Xuân cũng chỉ là hàng chữ nắn nót rất đẹp: "Gửi người một đóa pensée", chỉ thế thôi, ngày tháng của mùa Xuân và tên người gửi. Thuở ấy,  nhận tấm thiệp chúc Xuân của anh tôi thích lắm, vì nó là một trong những tấm thiệp đẹp nhất trong nhiều tấm thiệp của bạn bè, tôi thích vẻ đẹp rực rỡ của hoa pensée, nâng niu nó vì thích tấm thiệp, chứ chưa hiểu hết nỗi lòng của người tặng.

Sau này tôi có dịp đọc trong báo một bài viết về hoa Pensée, với câu chuyện tình thật đẹp và nhiều nước mắt của một đôi tình nhân. Tôi không nhớ rõ vì hoàn cảnh nào mà người con trai phải ra đi, vượt qua bao nhiêu núi non hiểm trở, để rồi cuối cùng một chiều kia, anh ta đã không bao giờ trở lại. Xác thân anh được vùi chôn nơi rừng sâu, bên một bờ suối vắng. Từ đó trên nấm mộ của người thanh niên si tình kia, mọc lên những bụi cây thấp nhỏ, nở ra nhiều đóa hoa đầy màu sắc tươi thắm, người ta đặt tên cho nó là hoa Pensée, có nghĩa là Thương Nhớ.

Năm ấy chiến tranh bùng nổ khắp nơi, chiến trường cần những người trai trẻ, lệnh tổng động viên được ban hành cho nên anh cũng phải xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ. Một số bạn cùng trường cũng phải ra đi, không khí của những buổi tiễn đưa đã gieo nỗi buồn mênh mang vào tuổi học trò hồn nhiên, vô tư lự. Chúng tôi bắt đầu cảm nhận được nỗi buồn của sự biệt ly, có những cặp tình nhân tuổi học trò đã thổn thức với nhau trước cảnh người đi kẻ ở:

"Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn"
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)

Trước ngày anh lên đường, chúng tôi có một buổi tiệc nhỏ, bạn bè anh dăm người, lũ con gái loi nhoi hay ríu rít nói chuyện, hôm ấy bỗng dưng cũng buồn ngơ ngẩn. Đêm ấy trời mưa, một đám bạn trẻ quây quần bên nhau trong căn phòng khách nhà anh, khói thuốc mờ với những ly cà phê đắng. Khuôn mặt ai cũng đăm chiêu lặng lẽ, nghe tiếng mưa rơi rả rích ngoài hiên, thoảng vào căn phòng ấm chút gió khuya lành lạnh. Trong không khí buồn buồn của ngày cuối cùng bên nhau, người bạn anh ôm cây đàn "guitar", đệm theo tiếng hát mượt mà của cô bạn nhỏ:
"Chỉ còn một đêm nay nữa thôi, mai chúng ta mỗi người một nơi . . . Nhìn hành trang lệ rưng cuối mi, cố nén trong tim một điều gì. . . "
Tiếng hát ngân lên âm điệu buồn buồn trước giờ ly biệt, tôi thấy anh ngồi im lặng trong góc tối, ngó mông lung vào một nơi nào đó rất xa xăm. Đôi lần ánh mắt ấy nhìn tôi thật lặng lẽ rồi quay đi, hình như có tiếng thở dài rất nhẹ khiến tôi trở nên lúng túng, cố tránh tia nhìn đằm thắm của anh.

Đêm đã khuya, mọi người phải từ giã nhau để mai anh lên đường sớm. Trên mặt bàn còn lại những mẩu thuốc cháy dở, những chiếc ly không, lúc ấy tôi mới rùng mình vì cái lạnh của cơn mưa đêm, luồn vào tâm tư nỗi buồn của sự chia ly. Ngày mai, chúng tôi đã có hai cuộc sống khác hẳn nhau, những người còn lại vẫn cắp sách đến trường, những người sắp đi vào miền gió cát. Chẳng biết những gì sẽ xảy đến với người trai thời ly loạn, khi chiến tranh vẫn giăng bủa trên mọi miền của đất nước.

Giây phút chia tay, các bạn đều lần lượt nắm lấy tay anh nói những lời chúc an lành, bởi vì từ nay anh đã thực sự rời ngưỡng cửa học đường, giã từ sách vở, giã từ mái nhà thân yêu để bước vào con đường chiến chinh gian khổ, sẽ đối mặt sống chết với hiểm nguy của chiến trường. Tôi là người cuối cùng từ biệt anh, lúc nắm tay tôi, anh xiết nhẹ, bàn tay anh nóng ấm như chuyển gửi vào đó bao yêu thương mà anh chưa dám ngỏ. Đôi mắt anh quyến luyến một tình cảm tha thiết, anh dặn tôi chăm học, khi nào được về phép anh sẽ đến thăm chị em tôi. Tự nhiên tôi lúng túng rụt tay về, trong bóng tối tôi nhìn thấy tia nhìn nồng nàn trong đôi mắt anh. Đôi mắt của người anh "đồng môn", sau này khi anh không còn nữa, mỗi lần nhớ đến anh, tôi lại thấy lòng thổn thức. . . .

Anh đi xa, nhưng mùa Xuân đầu tiên ở quân trường, anh vẫn không quên gửi về tặng tôi tấm thiệp và bản nhạc "Cánh hoa Pensée", với những lời ca mà tôi chỉ còn nhớ rất mù mờ:
"Ngày nao xa em anh gửi lại. Gửi trao cho em một cành hoa. Hoa Pensée là màu hoa yêu thương. . . ."

Lần về phép đầu tiên trong đời lính, anh ghé vào thăm chị em tôi. Trong màu áo trận, anh chững chạc hẳn ra vì nắng gió quân trường, mái tóc hớt ngắn, nước da đậm đà khỏe mạnh, nhưng đôi mắt thì vẫn buồn làm sao! Anh kể cho chị em tôi nghe về thời gian huấn nhục ở quân trường, biết bao cực nhọc với phương châm "thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu". Ngày anh ra đơn vị, thỉnh thoảng mỗi lần về phép anh lại đến thăm, lại kể chuyện chiến trường, anh nói mạng mình "lớn" lắm nên bao nhiêu lần đụng trận mà đạn không dám đụng vào anh. Tôi hết còn dám chọc ghẹo anh như ngày xưa, còn anh thì dày dạn phong trần, có làm mấy câu thơ tặng tôi trước ngày trở ra đơn vị:

"Mai về thăm lại ngôi trường cũ
Thăm bạn bè xưa tuổi học trò
Nhìn ai, chưa nói lời thương nhớ
Để lại ra đi chẳng hẹn hò."

Sau này tôi ít được gặp anh, chiến tranh đã đẩy anh đi những bước thật dài để người lính ấy càng ngày càng trưởng thành trong binh lửa. Mỗi lần nhận thư anh từ một nơi xa xôi nào đó, những địa danh xa lạ, đọc những dòng chữ thân thương của anh, tôi lại nhớ đôi mắt anh trong buổi tối chia tay nhau trước ngày nhập ngũ. Sao mắt anh buồn ơi là buồn, hình như đó là dấu hiệu báo trước cuộc sống ngắn ngủi của anh trên cõi đời này, người lính trẻ tội tình của thế kỷ 20, khi anh ra trường, lao vào cuộc chiến để đối đầu với lằn tên mũi đạn.

Tôi vẫn là cô nữ sinh bé bỏng, lòng đã biết xôn xao với những rung cảm đầu đời, nhưng tình yêu của anh tôi vẫn thấy xa vời lắm. Có lẽ tôi chưa yêu anh, tình cảm có một lúc nào đó đã để lại trong tôi chút bâng khuâng, nhưng để đáp lại tiếng lòng của những đóa pensée tôi vẫn ngại ngần. Những đêm dài bất chợt nhìn ánh hỏa châu bừng sáng ở một góc trời, tiếng bom đạn rền rền ở vùng xa vọng về thành phố, tôi đã nghĩ đến anh và thầm cầu nguyện cho anh được trở về bình yên.

Đã hơn 40 năm rồi, một khoảnh khắc của thời gian nhưng cũng là một đoạn đường dài để con người trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, đau khổ. Lần lượt những hình ảnh thân quen trong quá khứ có giây phút trở về, tôi lại nhớ đến anh, nhớ đến những đóa pensée rung rinh mỉm môi cười mỗi mùa Xuân tới. Tôi vẫn chỉ gọi anh bằng mấy chữ dễ thương: "người anh đồng môn", hình ảnh anh vẫn hiển hiện trước mắt tôi. Tôi nói "hiển hiện" là vì anh đã không về nữa, chỉ còn hình ảnh người trai trẻ năm xưa trong lòng tôi, đôi mắt dễ thương, nụ cười dễ thương, cái xiết tay ấm áp trong buổi chia tay lúc anh lên đường nhập ngũ.

Đời lính đưa anh đi xa rồi lại về gần, cuối cùng, anh đã bỏ mình trong một trận đánh bên dòng sông quê mẹ. Hôm ấy hai cánh cửa sắt nhà anh mở toang, tôi đi lại nhiều lần nhìn vào chiếc quan tài phủ cờ với những vòng hoa tang, ngọn nến bập bùng hắt lên di ảnh "người anh đồng môn" của tôi, người lính trẻ đã nằm xuống khi tuổi còn thanh xuân.

Tôi vẫn không đủ can đảm bước vào để nói lời từ biệt "người anh đồng môn" dễ thương ấy, vì tôi biết rằng thế nào mình cũng khóc, hoặc để người khác biết được nỗi buồn đã chớm nở trong trái tim, như lần đã rụt tay về vì sợ anh ngỏ với tôi nỗi niềm thương nhớ của những đóa pensée. Không biết ở bên dòng sông nơi anh nằm xuống, dòng máu đỏ của người lính đã loang chảy vào lòng đất, có mọc lên những bông hoa pensée đầy thương nhớ không nhỉ?


Nguyên Nhung

Nhiếp Ảnh Gia Tài Ba



Xin lưu ý: Click vào ô vuông để mở lớn màn hình

Một Tháng Tự Nguyện Ở Ẩn - Đỗ Duy Ngọc


Đến hôm nay là tròn đúng một tháng tui ở ẩn. Ở ẩn quanh quẩn trên chiếc giường vì bị cứng cơ lưng chứ không phải ẩn tu. Bởi tui không có căn tu, còn là phàm nhân, không đi tu nên làm gì có chuyện ẩn tu. Lý do là vì bịnh nên chẳng đi đâu được. Trong khoảng thời gian ấy, có một lần chống gậy đi họp mặt bạn bè mừng một người bạn từ xa về, ngồi gần hai tiếng về cái lưng đau nặng hơn nên sợ quá, cắm trại trăm phần trăm luôn. Nằm suốt tháng nhưng chẳng viết được chữ nào dù ngoài kia đang lắm chuyện xảy ra làm rung động cả xã hội và lòng cũng ngổn ngang trăm mối.


Thật ra cái lưng bắt đầu đau từ đầu tháng 4, âm ỉ thôi. Tui bị gout nên uống khá nhiều thuốc giảm đau nên rất sợ ảnh hưởng đến thận. Thấy đau lưng là lo nên đến bịnh viện Tâm Anh khám và xét nghiệm. Bác sĩ xem kết quả bảo thận chú còn rất tốt như tuổi năm mươi. Nghe cũng mừng, bớt một mối lo liền rủ người em thường gắn bó với tui qua nhiều chuyến đi ra Đà Nẵng chơi kết hợp gặp gỡ bạn bè thời trung học nhân ngày hội trường thường niên. Cận ngày, vé máy bay hiếm mà giá cao quá nên quyết định đi xe lửa. Đi rồi mới thấy đó là chọn lựa sai lầm. Thời gian đó chưa xuất hiện toa tàu du lịch Sài Gòn-Đà Nẵng như bây giờ nên chuyến đi có nhiều điều không vừa ý. Phòng thì cũng được nhưng phục vụ kém, căn tin bụi bặm, trang bị nghèo nàn và xập xệ, phòng vệ sinh chật hẹp và cáu bẩn, những chiếc xe bán hàng rao như thời bao cấp. Lại thêm cuộc hành trình kéo dài 18 tiếng đồng hồ lắc lư theo bánh xe nghiến trên đường tàu xình xịch chán ngắt. Đến nơi cái lưng lại đau nặng thêm nên đành trả vé tàu mua vé máy bay để trở vào dù giá quá xá đắt.

Về lại Sài Gòn được mấy tuần thì một đêm sau khi ngủ dậy tui không đứng lên được, cơ lưng đau như bị vọp bẻ, không chịu nổi. Khẩn cấp chạy vào Tâm Anh. Nhân viên bảo đau thế này không thể chờ khám được mà phải vào cấp cứu. Thế là vào cấp cứu. Trước tiên là phải đóng tiền, đương nhiên phải thế thôi. Sau đó là một loạt xét nghiệm, siêu âm, chụp hình, MRI... Riêng cái khoản MRI, tay bác sĩ trẻ báo 2 giá, nếu chờ chiều có kết quả thì hơn 3 triệu, nếu muốn có kết quả ngay thì hơn 4 triệu. Báo là thế nhưng anh ta khuyên nên chọn giá cao cho nhanh. Tui nói vừa xét nghiệm tuần trước cũng chính ở bịnh viện này nhưng người ta trả lời là chỉ cần ba ngày có thể kết quả đã thay đổi rồi nên cần xét nghiệm lại. Thì thôi, cũng đành chi tiền thôi. Tổng chi phí gần 9 triệu đồng. 

Đến trưa thì tất cả đã có kết quả. Hai ba ông bác sĩ xem và bàn với nhau gọi là hội chẩn. Tay bác sĩ trẻ thông báo với tui là nghi có một loại virus nào đấy xâm nhập vào hệ thống cột sống của tui gây đau. Anh gợi ý đến bốn, năm lần là phải nằm viện khoảng ba tuần để xem con virus ấy là gì hầu có phác đồ điều trị. Anh ta ra giá luôn là ba tuần chi phí là 170 triệu chưa tính tiền phòng. Tui thấy hơi sai sai về cái vụ virus và thấy hơi khó chịu với vụ đề nghị nằm lại với giá cao như thế. Tui bực mình đề nghị xin về, anh ta lại khuyên tui nên ở lại chữa trị vài lần nữa nhưng tui cương quyết đòi về. Thế là anh ta bắt tui ký một cái giấy với nội dung BS đề nghị nội trú nhưng bịnh nhân đòi về nên bịnh viện hoàn toàn không chịu trách nhiệm. Nghĩ cũng lạ, bịnh tuy đau nhưng bảo là không nguy hiểm tính mạng sao về phải ký giấy cam đoan. Doạ người yếu bóng vía đến thế cơ à? Vào bịnh viện mới thấy người khó khăn dính bịnh là không cách gì xoay xở. Khâu nào cũng tiền, cái khẩu trang, bình diệt khuẩn, cái bao tay của y tá, bác sĩ xử dụng cũng tính thành tiền bắt người bịnh trả. Tốt nhất là đừng để phải vào chốn ấy. Nhưng cuộc đời mà, sinh lão bịnh tử, bịnh như một quy luật khó tránh nên vào viện người ta tha hồ thu tiền mà chẳng thấy cảm thông khó khăn của người bịnh và bịnh nhân cũng chẳng bao giờ dám kêu ca, trả giá.


Về nhà, lê lết trên giường, nghĩ nhiều chuyện. Từ chuyện nhân tình thế thái đến chuyện phận số. Những thước phim của những đoạn đời được nhớ lại, nghĩ về những người đã qua cuộc đời mình và giờ nằm cô độc ở đây. Chờ đợi một lời thăm hỏi, một tin nhắn để lấy đó làm an ủi. Xem lại nhiều hình ảnh để nhớ về một thuở nào đó trong cuộc đời. Quẩn quanh với nhiều ý nghĩ. Nhìn ra những điều tốt đẹp của một người đầu trần chân đất đang đi trên con đường thiên lý. Nghiệm ra những luẩn quẩn của một kiếp nhân sinh. Cố lạc quan nhưng toàn bi quan trong ý nghĩ. Cố nén những cơn đau nhưng nó vẫn hiện diện ở thân thể, cũng đành chấp nhận thôi. Vui còn chia cho người, đau làm sao để sẻ cho ai?

Hằng ngày vẫn có thầy thuốc ở Bệnh viện Y học Dân tộc đến châm cứu, chạy điện, bó thuốc, thuỷ châm. Đã qua một tháng, lưng đau đã có phần thuyên giảm, mong sẽ trở lại bình thường để gặp gỡ bạn bè, để viết vài trang tào lao cho cuộc đời thêm tươi. Rất mong.

Bài viết này như là để trả lời mọi người cứ thắc mắc sao lâu rồi không thấy tui viết gì. Cảm ơn những tin nhắn, những lời thăm hỏi của bạn bè, những người thân quen và của những người tuy chưa gặp mặt nhưng có quan tâm đến tui. Xin cảm ơn.


Sài Gòn 7.6.2024

DODUYNGOC

Đừng Trách Em Độc Ác - Phó Tế Nguyễn Mạnh San

 


(Lời Giới Thiệu: Bài này chép lại từ Tuyển Tập Pháp Luật Hoa Kỳ Thực Dụng. Do Phó Tế Nguyễn Mạnh San thuyết trình đề tài pháp luật thực dụng trong Ngày Luật Pháp (Law Day) tại Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ, Oklahoma City, Oklahoma 29-04-2010).

Người Việt Nam chúng ta vẫn thường nói: "Thức khuya mới biết đêm dài, sống lâu mới biết lòng người đổi thay". Quả thật đúng như vậy. Những ai mới từ các quốc gia khác đến Hoa Kỳ là thường trú nhân hay đã nhập tịch, cho dù cư ngụ đã nhiều năm hay ít năm, chắc rất ít ai chú ý hay tìm hiểu về Luật Gia Đình của Hoa Kỳ (American Family Law). 

Trong bộ luật này bao gồm rất nhiều các tiết mục khác nhau, nhưng ở đây chúng tôi chỉ muốn đề cập đến tiết mục ly dị (Divorce) và trong tiết mục ly dị này, có kèm theo 2 tiểu mục: Thứ nhất là tiền trợ cấp cho vợ (Alimony). Thứ nhì là tiền trợ cấp cho con cái (Child Support).

Trước tiên, theo Đạo Luật Canh Cải Gia Đình mang số 43, đoạn 101, của Tiểu Bang Oklahoma nói riêng, có liệt kê các nguyên lý căn bản (Grounds for Divorce), là những bằng cớ pháp lý, để đệ đơn xin Tòa cứu xét và ban bố bản án ly dị như sau:

1. Bỏ nhà ra đi trong 1 năm (Abandonment for 1 year).
2. Ngoại tình (Adultery).
3. Bất lực sinh lý (Impotency).
4. Mang thai với người khác không phải với chồng (When the wife at the time of her marriage, was pregnant by another than her husband).
5. Hung ác (Extreme cruelty).
6. Bội ước (Fraudulent contract).
7. Bất hòa (Incompatibility).
8. Nghiền rượu (Habitual drunkenness).
9. Hoàn toàn thiếu bổn phận đối với gia đình (Gross neglect of duty to family).
10. Bị giam giữ hay bị án tù của Tiểu Bang hay Liên Bang về tội phạm hình sự (Imprisonment of the other party in a state of federal penal institution under sentence thereto for the commission of a felony).
11. Mắc bệnh điên khùng trong 5 năm (Insanity for a period of 5 years).


Đối với những ông chồng nào có tiền của và có công ăn việc làm lương cao, sẽ cảm thấy ớn lạnh xương sống, nếu đặt trường hợp mình phải ly dị vợ hoặc bị vợ ly dị mình, đều phải lãnh nhận nhiều những hậu quả đau thương, vừa về tinh thần lẫn vật chất, có trường hợp gần như muốn tắt thở về vấn đề trợ cấp tài chánh cho người vợ theo phán quyết của Tòa. 

Vì có những trường hợp người chồng phải trợ cấp tài chánh cho người vợ (Alimony) cho tới khi nào người vợ chính thức làm hôn thú với người chồng khác, thì tiền trợ cấp hàng tháng mới được Tòa cho phép bãi bỏ, còn nếu người vợ có tình nhân đang sống chung với nhau trong một nhà như đôi bạn tri kỷ, không làm giấy hôn thú với nhau, thì tiền trợ cấp cho người vợ vẫn phải tiếp tục như thường lệ.

Chính vì sự thiếu công bằng này, không hợp tình hợp lý, đã đưa đến sự bất mãn, vượt quá sức chịu đựng đau khổ của người chồng, gây ra biết bao nhiêu những thảm trạng đau thương, làm người chồng tức giận, dùng súng bắn chết tình nhân của vợ, bắn chết vợ, rồi quay mũi súng vào đầu mình tự sát, hoặc có những trường hợp khác đã xẩy ra, người chồng nhìn thấy tận mắt, cảnh tượng chướng tai gai mắt, vợ cũ của mình đang du hí vui vẻ bên tình nhân trong căn nhà cũ của mình mua trước khi ly dị, trong khi chính mình phải đi làm việc vất vả mỗi ngày, để có đủ tiền trợ cấp cho người vợ, theo đúng án lệnh của Tòa quy định trong bản án ly dị, nhưng trong một lúc tức giận mất khôn, ngay tức khắc, người chồng bỏ luôn việc làm lương cao của mình đang làm, để trở thành kẻ thất nghiệp, không lợi tức gì hết, để khỏi phải tiếp tục trợ cấp tài chánh cho người vợ hàng tháng và như thế người vợ sẽ không còn có khả năng tài chánh đầy đủ như trước, để ngồi chơi xơi nước, vui hưởng hạnh phúc bên tình nhân.

Mặc dầu người chồng biết rằng hành động như thế là dại dột, mình sẽ phải đi ngồi tù vì không tuân hành án lệnh của Tòa, nhưng thà là chấp nhận bị ngồi tù, để khỏi phải chịu đựng những cơn tức giận hộc máu nổi lên và còn sướng hơn là cứ phải cấp dưỡng tiền bạc cho vợ hàng tháng, để nhìn thấy vợ mình du hí vui vẻ với tình nhân, làm đau lòng như đứt từng khúc ruột.

Phần trình bày chi tiết trên đây mới chỉ là điều thứ nhất, nói về tiền trợ cấp cho vợ sau khi ly dị. Tiếp theo đây là điều thứ nhì, nói về tiền trợ cấp (Child support) hàng tháng của người cha cho các con còn nhỏ tuổi (Minor children) dưới sự nuôi dưỡng săn sóc của Mẹ theo như án lệnh của Tòa và khi các con đã khôn lớn, đến tuổi vị thành niên, thì người cha không cần phải trợ cấp tài chánh cho chúng nữa. 

Phải công tâm để nhận thức ra rằng điều này rất hợp tình hợp lý, người mẹ được Tòa giao trách nhiệm dạy dỗ nuôi nấng con cái thay cho người Cha, thì người Cha cũng phải có bổn phận cung cấp tài chánh cho người Mẹ, để người Mẹ có đủ phương tiện vật chất, ngõ hầu chu toàn việc nuôi nấng dạy dỗ con cái cho nên người. 

Nhưng thật đáng tiếc, đã có một số trường hợp xảy ra, mặc dầu có công ăn việc làm với lương bỗng khá cao, để người Cha có thể cấp dưỡng cho con cái hàng tháng, theo đúng số tiền quy định mà Tòa đã phán quyết. Nhưng vì bản chất là người thiếu trách nhiệm đối với con cái nên đã có những người Cha không chịu thi hành nghiêm chỉnh lệnh phán của Tòa, làm cho người Mẹ không đủ khả năng tài chánh để tiếp tục nuôi dưỡng con cái, nên bắt buộc người Mẹ phải đi tố cáo sự việc xẩy ra với chính quyền, để nhờ chính quyền can thiệp và giải quyết nội vụ.


Cách đây gần 2 tuần lễ, chúng tôi nhận được thư của 3 người yêu cầu chúng tôi vào trại tạm giam (Jail), để thăm viếng họ đang bị giam giữ tại đây, gồm có 2 người Mỹ và 1 người Việt Nam. Người thứ nhất cho chúng tôi biết khi Tòa tuyên án 1 năm tù ở, vì không trợ cấp tiền nuôi dưỡng con cái trong 4 tháng liên tiếp. Người thứ nhì lãnh án tù 6 tháng vì đã hơn 1 tháng không trợ cấp tiền nuôi dưỡng con cái. Cả hai người này đều cho chúng tôi biết là họ bị thất nghiệp cả mấy tháng nay, nên không gửi tiền trợ cấp cho con cái, nhưng Tòa vẫn phán quyết hai bản án tù ở như vừa kể trên.

Người thứ ba là Việt Nam, cho chúng tôi biết là mới chậm trễ có 5 ngày, chưa kịp gửi tiền trợ cấp, thì bị vợ đi tố cáo với chính quyền, nên anh bị lãnh 3 tháng tù ở. Anh tỏ ra buồn rầu và than phiền với chúng tôi rằng, vợ anh quá độc ác, không cho anh có cơ hội để được tự do vui hưởng những ngày Tết Nguyên Đán với 3 đứa con nhỏ của anh, đứa lớn nhất mới 9 tuổi, đứa thứ nhì 6 tuổi và đứa thứ ba 4 tuổi và với bạn bè bà con thân thuộc của anh, vì chỉ còn hơn một tháng nữa là Năm Mới đến và anh nhờ chúng tôi hãy thuật lại những điều anh nói cho vợ của anh nghe.


Thể theo lời yêu cầu của anh, chúng tôi có điện thoại thuật lại cho người vợ anh nghe lại những điều gì mà anh đã tâm sự với chúng tôi ở trong trại giam, thì được người vợ của anh cho chúng tôi biết, cách đây 4 năm, khi chị sanh đứa con út mới được 1 năm, thì chồng chị bỏ bê vợ con, cặp bồ với 1 cô gái Mỹ, tóc bạch kim, ăn mặc như tài tử và trẻ hơn chị 7, 8 tuổi, ít lâu sau, chị biết được cô gái này có bầu với chồng của chị, nên chị quyết định đành nhờ một luật sư đưa nội vụ ra Tòa ly dị anh. Chị cho biết đây không phải là lần thứ nhất anh trễ gửi tiền trợ cấp cho con, mà đã xẩy ra nhiều lần lắm rồi, có khi 2 hoặc 3 tháng anh không gửi cho con cái một đồng nào hết, trong khi chị biết rõ 100% chồng chị nhận lãnh những công việc làm được trả lương bằng tiền mặt và công việc làm gạt ra không hết. Chính vì vậy mà lần này chị cần phải tố cáo với chính quyền, để phía công lý dạy cho anh một bài học đích đáng nhớ đời, là phải có trách nhiệm của một người Cha đối với con cái khi chúng còn thơ dại, đang cần sự giúp đỡ về tinh thần lẫn vật chất của người Cha, rồi chị đọc cho chúng tôi nghe 2 câu thơ, thay vì 2 câu thơ này làm chúng tôi nhớ lại, vẫn thường nghe thấy người ta ngâm 2 câu thơ này theo giọng Miền Nam một cách oai oán, vọng lên từ trong những khu hẻm xóm nghèo lao động, trước ngày mất nước như sau:

Gió Đưa Bụi Chuối Sau Hè,

Anh Mê Vợ Bé Bỏ Bè Con Thơ.
Nhưng chị đổi lời lại là:

Tuyết Rơi Trắng Xóa Mái Nhà,

Anh Mê Bồ Mỹ Nếm Mùi Cô Đơn.


Chị liền giải thích thêm cho chúng tôi hiểu ý ngầm của chị, muốn nhắn nhủ anh ấy rằng: Bây giờ đang là mùa đông giá lạnh, tuyết sắp rơi xuống bao phủ mặt đất, làm tăng nhiệt độ giá lạnh ngoài trời cũng như làm tăng thêm sự cảm giác lạnh lẽo trong lòng những người cô đơn, chẳng hạn như trường hợp của anh ấy đang nếm mùi cô đơn ở trong tù, vì phải xa lìa cô bồ tóc bạch kim, mà anh ấy đã say mê cô này, đến độ từ bỏ người vợ chỉ biết một lòng chung thủy với chồng và con, nhẫn tâm hơn thể nữa, là bỏ rơi 3 đứa con thơ dại, không hề nói với các con một lời từ biệt thương tiếc trước khi anh bỏ nhà ra đi, để cho chúng nó ngày nay trở thành những đứa con mồ côi Cha, trên xứ lạ quê người.

Sau hết, chị nhờ chúng tôi gửi đến anh một thông điệp mang đầy ý nghĩa của chị là: Theo luật bù trừ của Tạo Hóa để lại cho loài người từ ngàn xưa đến nay, hễ có vay thì phải có trả; hễ gieo gió thì phải gặt bão, vì đó là hậu quả thường tình trên thế gian này. Vậy chị xin anh ấy đừng trách chị là kẻ độc ác, mà chính anh ấy mới là kẻ độc ác hơn ai hết.


Phó Tế Nguyễn Mạnh San

27/07/2025

Ngủ Đò - Trần Kiêm Đoàn


Năm 1971, trong một dịp vào Sài Gòn chấm thi tại trường Gia Long, tôi có dịp quen biết với một cặp vợ chồng người Nam, quê ở Cần Thơ. Vì biết là người Huế, lại đang dạy học ở vùng giới tuyến Đông Hà-Quảng Trị, nên anh chị đã dành cho tôi mối cảm tình đặc biệt của người lính văn phòng dành cho người lính đồn xa. Dù chưa ra Huế lần nào nhưng sự hiểu biết của cặp vợ chồng nầy về Huế khá sâu sắc và tỉ mỉ như cách nhìn của một nhà khảo cổ nhìn lại thời xa xưa qua sách vở. Một trong những mong ước của anh chị là một ngày nào đó được ra thăm Huế.

 Tôi mời anh chị mùa Hè năm sau ra Huế ở lại với gia đình tôi chơi để làm một chuyến du lịch vùng đất có nhiều vui buồn đầy huyền thoại nầy.

Lau hơn một tuần chu du hết các thắng cảnh, lăng tẩm, chùa chiền, núi rừng, sông biển của Huế, hai ngày trước khi rời Huế về lại Cần Thơ, anh chồng kéo riêng tôi ra quán cà phê, nhìn trước nhìn sau để yên chí là không có tai vách mạch rừng rồi mới trầm giọng nói nhỏ vào tai tôi:

– Mình muốn cậu cho mình biết cái “dzụ” đó.

Tôi nhớn nhác chưa rõ chuyện gì, thì thào hỏi lại:

– Cái “dzụ” gì vậy anh?

Anh trả lời hơi lắp bắp:

– Thì, thì… cái “dzụ”… ngủ đò ấy mà!

– Tôi vỗ đùi cười ngặt nghẽo:

– Chuyện dễ ợt nằm trong lòng bàn tay, muốn lúc nào cũng đuợc mà anh làm tôi hết hồn.

Anh đỏ mặt nói như phân bua:

– Thì tụi mình là nhà giáo với nhau, mình sợ mang tiếng rồi thì khó lên lớp lắm. Bởi vậy mình rất tò mò muốn biết “ngủ đò” nó như thế nào, nhưng lại rất ngại làm phiền cậu.

Vì nể bạn, tôi trả lời hăng tiết vịt cho có vẻ mình là dân lịch lãm ở quê hương mình, nhưng thật sự trong bụng cũng cảm thấy hơi “ớn lạnh” khi nghĩ tới chuyện ngủ đò.

Hàng ngày tôi vẫn đi qua con đường Hàng Bè, có tên Huỳnh Thúc Kháng, nhưng ít khi dám ngó thẳng xuống những dãy đò đậu san sát dưới sông. Nhiều lần đi về khuya qua con đường Hàng Bè nầy, thường khi tôi cố giả câm giả điếc trước những lần các bà mối lái lôi kéo và mời gọi “Đò cậu !?” trên bến nước Tầm Dương canh khuya đưa khách nầy. Cái xứ Huế nhỏ bé “trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã hay” lại mang nghiệp dĩ làm nhà mô phạm mà được gắn nhãn hiệu “Thầy nớ ngủ đò” thì sự nghiệp quân sư phụ theo chân đức Khổng Tử sẽ theo đò dọc mà trôi xuôi về biển.

Sau khi nói cứng với anh bạn ở quán cà phê, tôi bỗng thấy lo cồn cào ruột gan. Việc đầu tiên là phóng xe một mình xuống Bao Vinh, tìm người bạn thân lớn tuổi có biệt danh nghe như hiệp khách hành là Phó Biên Thùy để vấn kế. Anh nổi tiếng một thời ngang dọc trong giới ăn chơi biết trọng nghĩa khinh tài ở Huế. Nghe hết nỗi lòng thao thức của tôi, lại đến lượt anh cười dòn tan. Tôi vái thầm là nụ cười dễ dãi của Thùy không phải là nụ cười xã giao thiếu thực tế chiến trường của tôi. Thùy hỏi một câu quá “hiện đại” làm tôi hơi ngỡ ngàng:

– Rứa bạn cậu muốn ngủ đò mà “ngủ chay” hay “ngủ mặn”?

Tôi đang còn quờ quạng thì Thùy giải thích:

– Ngủ đò chay là thuê đò du lịch trên sông Hương để sinh hoạt bạn bè, văn nghệ, văn gừng với nhau cho vui. Còn ngủ đò mặn cũng là giong đò trên sông Hương, nhưng lại sinh họat ong bướm với những nàng Kiều sông Hương.

Tôi hỏi đùa:

– Nếu người ta thích cả “vào chay ra mặn” có được không?

Thùy trả lời thật tình:

– Trường hợp tất cả khách đi đò đều là đàn ông thì chẳng có chi trở ngại, ai thích mục nào làm mục đó, nhưng nếu có phụ nữ thì bắt buộc phải ngủ chay.

Tôi liền cậy Thùy làm quân sư trong biến cố ngủ đò tổ chức cho người bạn. Theo sự cố vấn của Thùy, tôi về nhà và mời cả hai vợ chồng người bạn ra nói chuyện.

Khi tôi mở lời đề nghị mời cả hai vợ chồng người bạn đi ngủ đò, anh chồng mặt tái xanh không biết vì sợ hay vì giận. Anh nhìn tôi một cách nghiêm khắc nửa như hối hận, nửa như trách móc, hỏi bằng một gịọng rất xa lạ và lạnh lùng:

– Xin lỗi anh, anh cho chúng tôi là hạng người nào…?

Chị vợ mím môi, vòng tay trước ngực, mắt trống không nhìn bất động vào một cõi xa xăm nào đó để biểu lộ sự thất vọng vì bị xúc phạm.

Tôi hơi lúng túng vì sự hiểu lầm có vẻ quá nghiêm trọng thì Thùy đã xuề xòa, cái xuề xòa của một tay từng trãi với đời đã làm cho không khí bớt ngột ngạt. Thùy đã dem hình ảnh những cuộc du thuyền rồng của giới vua quan và các sứ giả ngoại quốc trên sông Hương ngày xưa làm vũ khí dẫn giải. Lịch sử ngủ đò trên sông Hương bắt nguồn từ thú chơi tao nhã của hàng mặc khách tao nhân. Đò chứa dầy trăng và chở đầy hương hoa của thơ và nhạc. Nếu có chăng những chén rượu nồng và những trao gởi đầu mày cuối mắt thì cũng chỉ là những sương khói nhẹ nhàng kiểu tài tử giai nhân. Nước sông Hương, do đó, còn được gọi là nguồn “Tiêu Kim Thủy” – ngàn vàng chuốc môt trận cười. Nhưng rồi mỗi nước non đều có một “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Chuyện ngủ đò trên sông Sông Hưong cũng thế, cũng có một thời tuổi trẻ và một thời tuổi già; một thời để yêu và một thời để chết. Sông Hương đã trút áo hào hoa để sống còn qua những cơn tai biến của lịch sử, để hòa điệu sống giữa chợ đời đầy cát bụi. Cái thanh và cái thô của Huế bao giờ cũng có sẵn. Thanh hay thô là do kẻ đi tìm…

Thùy đã mô tả hết cái thanh và cái tục trong chuyện ngủ đò để thuyết phục cặp vợ chồng bạn tôi vui vẻ chấp nhận lời mời đi “ngủ đò” ngay chiều hôm đó.

Chiếc đò khách có mui, lòng rộng hơn hai thước cặp bến Thừa Phủ vào buổi chiều nắng sắp tắt. Thùy đã tế nhị mời thêm hai cặp vợ chồng yêu thích văn nghệ cùng đi và anh cũng đã khéo léo cho đò cặp vào bến Thừa Phủ thay vì bến Gia Hội hay Phu Văn Lâu vốn là những điểm nóng của khách “giang hồ ngủ mặn” để khỏi bị nhòm ngó. Cặp vợ chồng bạn tôi tỏ vẻ căng thẳng và hồi hộp thấy rõ với những giòng mồ hôi chảy dài trên má. Cả hai e dè bước xuống thuyền như một sự phó mặc cho số phận an bài.

Đến khi thuyền ra giữa sông như cánh chim bằng đã cỡi mây vùng vẫy ra ngoài bốn bể thì cái cảm giác “ngủ đò” mới bắt đầu lắng xuống. Giữa lòng sông chiều nghe sóng vỗ mạn thuyền róc rách với sức đẩy của gió Nồm từ Thuận An lên tự nhiên cái cảm giác trần tục từ từ nhường lại cho sự thanh khiết và lắng đọng trong mỗi con người. Thuyền hướng về phía cầu Bạch Hổ. Nhìn phía lái, o lái đò tóc lộng gió chiều che nghiêng khuôn mặt trông như một người mẩu làm phông cho cầu Trường Tiền. Một phần nhỏ cầu Trường Tiền còn hoe nắng giống chiếc lược ngà cài trên mái tóc sông Hương. Cầu Bạch Hổ thô và đen sậm có vẻ như hiện thân của sự thách đố với nắng gió và thời gian. Bên nầy là Thương Bạc, Phu Văn Lâu với cột cờ Thành Nội sừng sững không biết uốn cong mình trước những cuồng phong của lịch sử nên đã mang đầy mình những vết tích tang thương. Bên kia là bia Quốc Học-Đồng Khánh và con đường áo trắng ngây ngất biết bao nhiêu kỷ niệm học trò đầy tiếng cười và tiếng thút thít dấu giữa khăn mù soa thêu hoa tím của gặp gỡ và chia xa thời tuổi dại.

Cặp vợ chồng miền Nam ngồi sát vai nhau cho khỏi lạnh. Ngồi cạnh mũi thuyền, cả hai lặng im, mở to mắt, căng buồng phổi để tận hưởng buổi chiều trên sông Hương. Tôi thấy Thùy nhìn họ, không nói, nháy mắt mỉm cười. Cặp vợ chồng nhìn lại với ánh mắt trẻ thơ mà trang trọng, tôi nghe cả hai cùng mấp máy: “Cám ơn anh!”.

Chiếc đò bềnh bồng nương gió chiều lướt êm trên giòng sông Hương đang đổi từ màu xanh lam buổi chiều sang màu tím nhạt hoàng hôn và màu vàng lụa dưới ánh trăng con gái e ấp bên kia sông. Hai bên bờ, nhà cửa chìm khuất sau những bức tường cây giờ đã đổi sang màu đen thăm thẳm huyền bí. Đọt dừa, đọt cau và tàng cây cao vút vẽ hoa văn cho nền trời bàng bạc khói sương. Trăng dát vàng trên sóng nước và kết ngọc cả giòng sông. Khi thuyền đến nhánh sông chia ba gần chùa Thiên Mụ thì sông nước và làng mạc, ruộng đồng đã tắm ngập cả trăng. Khói sương, cây lá, lưng sóng và tóc mây đều choáng ngợp ánh trăng vàng lung linh huyền ảo.

Giữa thanh vắng vô cùng con người bỗng cảm thấy cái tôi của mình tan loãng để hòa vào cái “đại ngã” của thiên nhiên. Mọi người trong đò hình như đang quên chiếc đò và giòng sông để nói với nhau thật nhiều trong thinh lặng cho đến khi người chủ đò từ đằng lái bước tới, nói với khách bằng ngôn ngữ hiện thực của con người:

-Xin quý khách cho biết là muốn neo đò ở đây hay chèo lên ngã điện Hòn Chén.

Thùy hỏi ý kiến chung và quyết định hướng đò lên ngã thượng nguồn sông Hương. Đò chèo quanh như lưu luyến vùng sông nước xanh đen mượt trước chùa Thiên Mụ như có một chút gì tiếc nuối hương xưa rồi quay mũi hướng về phía núi Bãng Lãng. Anh bạn người Nam hỏi Thùy:

– Tôi đọc sử nghe nói Chùa Thiên Mụ là do Nguyễn Hoàng – mà người đương thời gọi là chúa Tiên, cho khởi công xây dựng từ năm 1601 phải không anh? Được đứng trước một di tích lịch sử gần 4 thế kỷ mà vẫn còn nguyên vẹn như thế kia, tôi cảm thấy xúc động và ngưỡng phục người xưa vô cùng.

Thùy giải thích thêm:

– Theo tương truyền thì khi xưa, ban đêm có người trông thấy một bà lão mặc áo đỏ quần xanh ngồi trên gò Hà Khê, tức là vùng đất cao của chùa Thiên Mụ ngay trước mặt chúng ta đây, nói rằng:”Rồi đây sẽ có một vị chúa dân tới nơi này để dựng chùa, đặng tụ linh khí và củng cố long mạch”. Nói xong bà lão biến mất nên dân chúng bèn gọi gò Hà Khê là núi Thiên Mụ. Khi chúa Tiên đặt chân tới gò Hà Khê thấy cảnh trí hùng vĩ, trước có sông, sau có hồ, xa xa có núi. Cảm kích trước cảnh non sông cẩm tú, trước khi quyết định dời đô về đất Thuận Hóa, chúa cho xây một ngôi chùa trên gò Hà Khê lấy tên là Thiên Mụ Tự, đó là chùa Thiên Mụ ngày nay.

Người chủ đò cho biết nếu chỉ chèo tay mà không dùng động cơ gắn sẵn trên đò thì ít nhất cũng mất hai giờ nữa mới đến nhánh sông điện Hòn Chén. Thùy đề nghị là lúc về sẽ dùng đến máy, nhưng vòng lên chỉ nên chèo tay. Rốt cuộc dư vang của sóng nước sông đêm vẫn nghe vỗ vào mạn thuyền xao xác và tiếng chèo khua nước vẫn nhè nhẹ chẻ nước để thuyền đi trong đêm trăng. Một người bạn của Thùy bắt đầu thổi sáo. Tiếng sáo dìu dặt nương theo hòa âm của đất trời đủ sức lay động lòng người. Những người trong đò bắt đầu ngâm thơ và hát những bài tình ca hay nhất của mình. Cặp vợ chồng miền Nam cùng hát dân ca điệu lý con sáo, rồi lý cây bông như thơ của Kim Tuấn:

Em nhớ chàng em hát lý cây bông

Như con sông con nước ròng con nước nổi

Em thương anh và nhớ anh quá đỗi…

Như cây lục bình quấn quít giòng sông…

Anh thương em sao anh “hổng”tới

Để em buồn em hát lý cây bông…

Cô lái đò chừng như cũng hòa vui với điệu hát câu hò ngồ ngộ nhưng đầy cảm xúc của khách bỗng cất tiếng hò dìu dặt theo nhịp với mái chèo. Tiêng hát cất lên từ sau lái mang âm vang thanh thoát của người lĩnh xướng:

Ơ hơ…ơ ơ cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp

(Chớ) em qua không kịp (mà) tội lắm anh ơi à…ớ… ơ…ờ

Ơ hơ…ơ ơ… (Chơ) thà rằng không biết thì thôi

(Chớ) biết rồi mỗi đứa (ư…à…) ơ hờ…hớ mà… mỗi nơi ớ hơ a à… cũng

(ứ… a…) buồn…!

Tiếng hò vút cao, lững lờ rơi dần xuống thấp, rồi im bặt… Cũng buồn! Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn. Có lẽ nguồn tình cảm miên man rất lãng mạn kiểu Huế nằm trong tiếng “cũng”. Cái “cũng… buồn” rất e dè nhưng cũng rất nũng nịu thâm cung của cô gái Huế có nghĩa là níu kéo, là sẽ tương tư, là hào phóng một cách “tình cho đi ai lấy lại bao giờ”. Tất cả những người khách có mặt trong đò đều khẩn khoản yêu cầu cô lái đò hò thêm bài nữa nhưng vẫn hoàn toàn im lặng, cái im lặng bất thường của một tâm hồn sôi nổi thường có vẻ ghê ghê như cây cối mới theo gió vật vờ bỗng đứng yên giữa vùng tâm bão. Cô lái chỉ tay về mé sông bên kia với một vùng cây cối thâm u, đen kịt trong đêm. Giọng cô nói như rì rào với gió :

 “Điện Hòn Chèn thờ Bà Chúa đó. Ngài thiêng lắm. Ai hò hay hát giỏi, Ngài ưng ý, ‘bắt lính’ âm binh rồi thì hết đường chạy chữa, chỉ có nước đem chôn thôi”. Nghe giọng nói nghiêm trang như con chiên ngoan đạo của cô lái, khách trên đò cũng cảm thấy phảng phất một chút sương mờ “ớn lạnh” nên chưa ai tiếp tục cuộc chơi “để em buồn em hát lý cây bông”. Cặp vợ chồng Nam Bộ xích lại gần nhau thêm chút nữa chừng như để che chở cho nhau mà trốn lính âm binh… Bỗng Phó Biên Thùy cất tiếng cười dòn tan như cốm bắp An Thuận, tiếng cười không chờ đợi và đúng lúc có mãnh lực an ủi chúng sinh trên đò như nhà pháp sư trừ ma ếm quỷ. Thùy chỉ tay về phía bờ sông bên kia, nơi có lùm cây cao nhô lên, nổi bật giữa lằn chân trời cây đen thẩm, giải thích:

– Đó là Điện Hòn Chén, tên chữ là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc). Đây là đền thờ Nữ thần Thiên Y A Na, vốn là một nữ thần Chàm. Theo Đào Thái Hanh trong Bulletin des amis du vieux Hué; xuất bản năm 1914 mà thời đi học, tôi đọc lóm được của Ba tôi thì Thiên Y giáng trần qua bóng dáng của một thiếu nữ đẹp huyền diệu và vào đời qua một câu chuyện tình thần tiên vương giả. Rồi cũng như những câu chuyện tình buồn của Huế, nữ thần cũng ra đi trong nước mắt. Nhưng cái mê hoặc của trần gian đau khổ nầy nó lạ lắm. Nó vẫn còn mãi níu kéo nữ thần vương vân với cuộc đời để ban bố bao nhiêu là phép lạ cho con người. Vì vậy, trong niên hiệu đầu, vua Gia Long ban cho nữ thần chức tước “Thần tối cao và ơn đức vô biên, ban phước lành khắp mọi nơi đầy linh hiển” .

Thế nhưng, khoảng hai năm trước, tôi có dịp tham gia vào đoàn rước lễ của Thiên Tiên Thánh Giáo Huế, hành hương bằng thuyền trên sông Hương từ Điện Hòn Chén về Bãi Dâu với đoàn thuyền có đủ cờ quạt, lọng tàn, lễ nghi rực rỡ đầy màu sắc thì lại được nghe một vị chức sắc cho biết đây là nơi thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh. Nguyên bà là con gái thứ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, giáng trần vào rằm tháng Tám năm 1557 đời Mạc Phúc nguyên tại Vụ Bản, tên Giáng Tiên. 

Người tiên giáng phàm nhưng vẫn không thoát khỏi nợ tình với Trần Đào Lang. Và rồi cũng như Thánh nữ Thiên Y A Na, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được về lại cõi trời năm hai mươi mốt tuổi, nhưng vẫn yêu cảnh trần gian nên đành xin Ngọc Hoàng trở lại… với nhiều phép lạ giúp dân lành nên đã trở thành một trong Tứ Bất Tử của dân tộc Việt Nam: Phù Đổng, Chữ Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh và Liễu Hạnh. Bà Chúa Liễu Hạnh đã được sùng kính tôn thờ như một tín ngưỡng dân gian lan rộng khắp nơi, từ Phủ Giày Nam Định, tới chùa Thiên Minh Lạng Sơn, vào đền Sòng Thanh Hóa, ra Tây Hồ Thăng Long, vào Sóc Hương Nghệ An… trước khi giáng phàm chỉ đường cho chúa Nguyễn dựng nghiệp ở Đàng Trong và xây dựng dinh cơ ở Huế. Vua nhà Nguyễn đã sắc phong cho bà chúa là “Thượng Đẳng Tối Linh Thần”

Theo nguồn tin dân gian truyền khẩu tại Huế thì bà chúa Điện Hòn Chén hết sức linh hiển. Đã có rất nhiều người buôn bán xuôi ngược trên sông Hương đã bị “bắt lính” vì có tài hát hò. Một số khác bị bà chúa “vật chết tươi” vì có thái độ bất kính khi đò chèo ngang qua Điện Hòn Chén. Năm Tự Đức thứ 15, nhà vua cảm thương bá tánh vô tội bị chết oan nên đã đích thân lên Điện Hòn Chén đeo chuỗi hột bồ đề vào cổ bức tượng của bà chúa Liễu Hạnh và khuyên bà chúa hãy tu hành. Từ đó, bà chúa không còn linh hiển như xưa nữa.

Người kể chuyện im lặng, rồi trầm giọng đọc thơ với một chút cười buồn:

Mắt nữ thánh cũng sầu xanh soi bóng

Hương Giang ơi! Sao sóng lục vô chừng.

Phó Biên Thùy lại cất cao giọng nói như đọc sớ trên sông:

– Xin van vái bà Chúa, nếu tối nay bà bắt lính, Thùy tôi xin tình nguyện đi ngay, đừng bắt ai khác tội ngiệp. Thùy nầy vốn ca xướng không hay nhưng được cái độc thân, vui tính. “Dương binh” được xếp loại hai, nếu vô “âm binh” xin bà xếp cho loại ba, lọai bốn chi cũng được…!

Hình như lên tinh thần vì vui lây cái tinh thần hài hước của Thùy hay vì đã có người tình nguyện “chết” thay cho mình nên từ chủ đến khách trên đò đều lấy lại được cái vui hồn nhiên “giã gạo dưới trăng” tưởng như đã bị thần linh ném giữa giòng sông.

Cái đẹp của vùng thượng nguồn sông Hương trong đêm là vẻ đẹp huyền bí của Nghìn Lẻ Một Đêm vì nó mênh mông và êm ả quá, nhưng trong từng giọt sương, từng mảnh trăng tan trên mặt sóng, từng tiếng vỗ cánh của bầy vạc ăn đêm và tiếng xao xác của lau lách đều mang ít nhiều huyền thoại của Cố Đô với dư vang của những dấu oai linh hiển hách một thời vang bóng.

Chị bạn người Nam bỗng thở mạnh, hít thật sâu và reo lên như vừa khám pha ra một điều gì mới lạ:

– Thấy không kìa! Tôi nghe như vừa có một mùi thơm thoang thoảng trầm hương đâu đây. Tôi đọc sách nghe kể là sông Hương có tên như vậy vì thường có mùi thơm trên sông…

Có tiếng của anh bạn thổi sáo nói vọng ra từ phía trong mui đò:

– Tôi đang thưởng thức mùi thơm đó chị ơi, nhưng rất tiếc là mùi thơm của Seventy Nine và Half and Half trộn lại từ trong chiếc “píp” của tôi.

Chị bạn tiếc rẻ:

-Vậy thì lời đồn sông Hương có mùi thơm là bịa đặt sao?

Thùy lên tiếng:

– Tôi cũng được nghe mấy cụ xưa kể rằng, xưa kia hai bên bờ sông Hương có mọc một giống cỏ gọi là “Thạch Xương Bồ”, còn có tên gọi khác là “Ngoại Xương Bồ” (Acorus Gramineus). Các nhà đông y coi Thạch Xương Bồ có tác dụng chữa bệnh như vị thuốc trường sinh. Hoa và củ có mùi thơm đặc biệt, về mùa xuân phấn hoa bay thơm lừng khắp cả mặt sông nên mới có tên là sông Hương.

Chị bạn người Nam lại thắc mắc:

– Anh có bao giờ nghe ai diễn tả lại cái “mùi thơm đặc biệt” của Thạch Xương Bồ nó thơm nồng, ngọt dịu, đam mê, giống như một mùi hoa nào đó mà mình đã biết không?

Thùy trả lời hóm hỉnh:

– Chị ạ, tôi lớn từng này tuổi đầu rồi mà vẫn còn độc thân là vì hương sắc của Thạch Xương Bồ đó chị! Hồi còn sinh viên, tôi ở gần nhà ông thầy Tàu. Ông thường khoe là trong ba cô con gái của ông, cô út là đại quý tử vì phấn má có mùi hương Thạch Xương Bồ. Tôi đã bao phen cố làm một chàng Trọng Thủy Việt Nam để cố “ngửi” mùi Thạch Xương Bồ trên má cô út Mỵ Châu Tàu lai coi thử cái “đọat hồn hương” đó nó ghê gớm tới mức nào nhưng thất bại, có lẽ vì ông già đã hiểu quá thâm thúy cái hệ lụy “Nam Quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt nên đã thẳng tay làm cho chúng tôi xẻ nghé tan đàn.

Có tiếng anh chàng thổi sáo xen vào:

– Các vị nầy răng mà rắc rối dữ rứa? Thì cứ tạm cho mùi hương Thạch Xương Bồ nó cũng thơm thơm ngọt ngào giống thuốc Seventy- Nine và Half and Half của tôi đang hút đây nầy thì có chết ai đâu, bảo đảm sẽ không có ai chống đối hay kiện tụng chi mô mà sợ.

Đò rời vùng Thiên Mụ, xuôi về mạn Kim Long. Một giọng ngâm thơ nào đó, không hay nhưng đầy cảm xúc, cất lên:

Kim Long có gái mỹ miều,

Trẩm thương, trẩm nhớ, trẩm liều, trẩm đi


Rồi cũng chính ngưòi ngâm bình luận:

– Trời đất! Làm như gái Kim Long toàn là tiên nga giáng thế không bằng. Xưa vua mê người đẹp, vua liều vua đi là vì bị mấy ông quan lớn gài bẫy. Những vị quan lớn trong triều phần đông ở miệt Kim Long cho gần cung đình. Ông nào cũng nuôi mộng con mình lên làm hoàng hậu nên lắm ông quan đã khôn khéo đóng kịch cho con gái cưng của mình mặc áo lụa hồng, choàng khăn nhiễu tím, giặt áo trên sông rồi thỉnh hoàng thượng lên nguồn dạo mát. Vua đã ê chề với các cô cung nữ trong cung quá rụt rè, run rẩy, sợ hãi trước long nhan nên mình cứng như cây củi. Nay ra ngoại thành nhìn trộm được giai nhân má thắm lưng ong đang lả lơi để cho gió hôn trên má, nắng cắn trên vai, nước đầm trên yếm… Thế là vua tương tư. Vua cải trang vi hành đi thăm bá tánh. Vua thêm một lần biết yêu. Cung đình thêm một hoàng hậu…

Chuyện dân gian kể rằng, vua Thành Thái cải trang làm người dân thường, lặng lẽ lên Kim Long đi tìm giai nhân mà không gặp vì con gái Kim Long thường chuyên nghề thủ công ở chỗ im mát nên nõn nà và đẹp nhưng ít khi ra ngoài. Vua thất vọng ngoắc một chiếc đò trên bến sông Hương để thuê chèo xuôi về lại hoàng thành. Thuyền cặp bến rước khách, từ trong khoang thuyền, vua nhìn ra sau lái thấy cô chèo đò đang độ tuổi xuân căng phồng sức sống, với manh áo cũ vá vai, với môi thắm má hồng và tóc mây vờn bay theo gió. Cô gái uyển chuyển theo mái chèo với vẻ đẹp tự nhiên làm vua rung động. Vua lại gần hỏi với:

-Nì, o nớ! Rứa chớ có chồng con chi chưa?

Cô gái che miệng cười duyên, đáp vọng lại:

-Tui nghèo nàn xấu xí có ai mà ưa!

Câu nói thủ phận, chơn chất càng làm cho nhà vua cảm thấy cô gái càng đáng yêu hơn. Vua Thành Thái bước tới giữ tay chèo cô lái lại, bắn tiếng:

– Tui biết có đám ni khá lắm, để tui làm mối cho o. Chừ tui hỏi thiệt rứa chớ o có ưng lấy vua không cái đã?

Cô gái vừa thẹn thùa, vừa sợ hãi, nhớn nhác nhìn quanh, thì thầm nói với người khách lạ:

-Đừng nói bậy mà họ chém đầu chừ!

Nhà vua đặt tay lên cùng mái chèo với cô gái, nói như reo vui:

-Thiệt mà! O mà nói “ưng” một tiếng là được lấy vua liền!

Trong khi cô gái vẫn thẹn thùng thì có một cụ lớn tuổi cùng đi trong đò tham gia vào cuộc vui, lên tiếng:

– O nớ! Có mất chi mô mà lo. O cứ nói “ưng” một tiếng thử coi rồi để tui làm chứng cho.

Cô gái chèo đò Kim Long đánh bạo, nhìn ông khách nói nhanh:

– Ưng.

Vua Thành Thái thú vị dành lấy cán chèo trên tay cô gái:

-Rứa thì ái phi ngồi nghỉ để trẩm chèo đưa về cung nghe.

Sau duyên kỳ ngộ đó, cô lái đò áo vá vai đã trở thành một vương phi được nhà vua sủng ái. (Theo Bảo Hiển – Chuyện Các Bà Trong Cung Nguyễn)

Ngày vui thường qua mau và cuộc vui nào cũng có lúc tàn. Đò trăng của chúng tôi rồi cuối cùng cũng đành phải chia tay với nguồn nước trên của sông Hương để trở về bến cũ vì đã quá nửa đêm. Tráo về, người lái thuyền đã đưa khách nhàn du trở lại với thực tại bằng cách gác mái chèo và nổ máy Yanmar F.10 gắn trên đò với tiếng nổ phành phạch rất phàm tục như múa lân đánh trống bể.

Khi đò về đến Phu Văn Lâu, đò không được chạy máy mà phải chèo trở lại. Thoát khỏi mùi khét, âm thanh và sức đẩy của máy dầu cặn, trăng lại về trên sông và sóng lại vỗ mơn man vào mạn thuyền. Thuyền tạm dừng lại trước bến Văn Lâu, anh bạn người Nam hỏi Thùy:

– Đây có tên là “Phú Vân Lâu”, có lẽ bởi vì nơi đây thường có nhiều mây lắm phải không anh?

Thùy giải thích với nét cười thích thú:

– Hay! Anh đã sáng tạo một ý nghĩa mới cho một tên gọi sai do thói quen của quần chúng. Thật ra Phu Văn Lâu mới là tên gọi đúng của nơi nầy. Ngày xưa cái lầu nầy là trung tâm thông tin của triều đình với dân chúng. Những văn kiện quan trọng của nhà vua và triều đình được niêm yết ở lầu nầy. Phu Văn Lâu có nghĩa là “lầu phô bày văn kiện” (Phu: phô bày; Văn: Giấy tờ văn kiện; Lâu: lầu). Anh nhìn kỹ vào đằng trước của lầu nầy sẽ thấy hai tấm bia có khắc chữ: Khuynh cái – Hạ mã (Nghiêng lọng- Xuống ngựa). Bất cứ ai đi ngang qua đây đều phải nghiêng lọng đi đầu trần và xuống ngựa đi bộ để tỏ lòng tôn kính nhà vua. Từ Văn Lâu nhìn ra sông Hương có Nghinh Lương Đình, là nhà hóng mát của vua. Đó là cái nhà cuối cùng tiếp giáp với bến nước của sông Hương trong khu vực cột cờ. Đây cũng là nơi thường vang vọng những tiếng hò quốc kêu đau thương sau ngày vua Duy Tân, nhóm Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thanh Tài đứng lên mưu đồ cuộc khởi nghĩa chống Pháp nhưng thất bại vì nội phản để đến nỗi vua bị đày, tướng bị xử trảm tại An Hòa:

Trước bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông… Thuyền ai thấp thoáng bên sông, nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

Nghe Thùy giải thích, ý nghĩ của những người trên đò như đang lãng đãng trôi về thời quá khứ. Chị bạn người Nam chỉ tay về phía cột cờ sừng sững làm bối cảnh chính cho cả vùng Phu Văn Lâu:

– Cột cờ nầy hình như đã treo cờ vàng ba sọc đỏ từ thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi cờ đỏ sao vàng của Việt Minh khi Trần Huy Liệu nhận ấn tín từ tay vua Bảo Đại thoái vị trên lầu Ngọ Môn năm 1945. Không biết lần đầu tiên lá quốc kỳ được treo lên nơi đây là loại cờ nào và trông giống ra sao?

Mọi cặp mắt lại hướng về Thùy, viên thuyền trưởng kiêm hướng dẫn viên bất đắc dĩ. Thùy trầm ngâm rồi dè dặt lên tiếng:

– Tôi có một ông đời sơ, nghe đâu là một trong những tác giả bình dân của bài vè lịch sử nổi tiếng “Thất Thủ Kinh Đô”, có kể lại rằng Cột Cờ Thành Nội xây cao 80 thước, ngang với đỉnh núi Ngự Bình. Quốc kỳ thời nhà Nguyễn là cờ ngũ hành, thường được treo trong các dịp Tết, lễ lớn của đất nước và triều đình, kèm theo các sắc cờ khánh hỷ đuôi nheo.

Đò lại tiếp tục di chuyển về phía cầu Trường Tiền. Một nhịp cầu đã gãy trong biến cố Mậu Thân nằm thương tích, lạnh lẽo dưới trăng như một vết chém ngang lưng đối với khách ngã nón trông cầu và trông tội nghiệp như vết sẹo ân oán vô tình trên khuôn mặt trái xoan nuột nà của cô nữ sinh Đồng Khánh.


Trần Kiêm Đoàn