Monday, September 1, 2025

Một Bài Viết Hay Và Hiếm Trong Một Thế Kỷ, Đáng Để Sưu Tầm!

 Một bài viết hay và hiếm trong một thế kỷ, đáng để sưu tầm! Nguồn ảnh:thiepmung.

Cuộc sống luôn chứa đầy ẩn số và lặng lẽ ngắm nhìn cách chúng ta hành xử và lựa chọn tâm thái cho mình. Sinh mệnh quá ngắn ngủi, năm tháng cũng chẳng tày gang, biết sống một cách vui vẻ mới là bến bờ của hạnh phúc của đời người.

01. Một người đánh cá nói với tôi,

Số lượng tàu thuyền bị lật úp do chạm vào đá ngầm nhiều hơn là do bão.

Nhiều khoảnh khắc quan trọng trong cuộc sống không phải là việc chống lại gió bão, mà là phải biết bịt lỗ hổng.

02. Một người làm vườn đã nói với tôi,

Không phải tất cả các loài hoa đều thích hợp với đất màu mỡ.

Sa mạc là thiên đường của cây xương rồng.

Nhiều thành công và thất bại trong cuộc sống không phụ thuộc vào chất lượng môi trường.

Điều đó phụ thuộc vào việc bạn có chọn đúng vị trí cho mình hay không.

03. Một người chăn cừu nơi hoang vắng nói với tôi,

Anh ấy rất vui vẻ. Bởi vì anh ấy có thể nói chuyện với hoa dại và chim rừng, có thể nhảy múa cùng những đám mây trắng trôi trên đồng cỏ.

Nhiều sự trống rỗng trong cuộc sống không đến từ sự cô độc. Mà nó nằm ở sự cô đơn của trái tim.

Nhiều sự trống rỗng trong cuộc sống không đến từ sự cô độc. Mà nó nằm ở sự cô đơn của trái tim. Nguồn ảnh: aboluowang.


04. Một đầu bếp đã nói với tôi,

Súp ngon thực sự không bao giờ thêm bột ngọt.

Thay vào đó, nước ép ban đầu sẽ được đun sôi từ từ.

Chất lượng cuộc sống không nằm ở bao bì bên ngoài.

Đó là về phẩm chất bên trong.

05. Một người dân miền núi đã nói với tôi rằng:

Nấm đẹp thường có độc.

Rau dại đắng thường có tác dụng giảm nhiệt bên trong.

Phần lớn sự khôn ngoan trong cuộc sống không nằm ở sự quan sát, mà là biết cách phân biệt.

06. Một người luyện kim nói với tôi,

Có một quá trình quan trọng trong đúc thép gọi là “làm nguội”.

Đặt thỏi nóng vào nước lạnh để làm nguội nhanh chóng.

Nhiều vinh quang trong cuộc sống không nằm ở sự bộc phát cuồng nhiệt, mà là ở sự ngưng tụ một cách bình tĩnh.

07. Một nhiếp ảnh gia đã nói với tôi:

Họ đến những ngôi làng miền núi xa xôi để thu thập những bài hát dân gian.

Có người đã chụp một số ảnh mang tên “Những năm tháng gian khổ”.

Sau đó, có người đã tổ chức một triển lãm ảnh cá nhân mang tên “Thế giới thần tiên”.

Nhiều niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống không phụ thuộc vào hoàn cảnh của bạn.

Điều đó phụ thuộc vào góc nhìn của bạn về hoàn cảnh.

08. Một giáo viên đã nói với tôi,

Ông thấy rằng những sinh viên tích cực đặt câu hỏi trong lớp học, so với những học sinh lắng nghe một cách chăm chú có khả năng thích nghi tốt hơn sau khi hòa nhập với xã hội.

Nhiều lĩnh vực của cuộc sống không phải là về việc tuân theo, mà đó là sự tự khám phá.

Nhiều lĩnh vực của cuộc sống không phải là về việc tuân theo, mà đó là sự tự khám phá. Nguồn ảnh: aboluowang.


09. Một họa sĩ đã nói với tôi,

Các tác phẩm của bậc thầy thường để lại những khoảng trống.

Quá đông đúc và chật chội có thể dễ khiến mọi người mất đi trí tưởng tượng.

Sự quyến rũ của cuộc sống không nằm ở sự hoàn hảo. Mà là về dư vị của sự không hoàn mỹ.

10. Một nhà sư đã nói với tôi,

Đức Như Lai không sống ở Tây Phương Cực Lạc.

Ngài sống trong trái tim mỗi người chúng ta.

Tu tâm của mình còn hơn là lúc nào cũng mong cầu gặp Phật

Nhiều cuộc tìm kiếm trong cuộc sống không phải là việc đi qua hàng ngàn ngọn núi và dòng sông, mà nó nằm ngay trong tầm tay.

Suy cho cùng thì sinh mệnh quá ngắn ngủi, năm tháng cũng chẳng tày gang, dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì sống một cách vui vẻ mới là bến bờ của hạnh phúc.

Cuộc sống thực ra là một chuỗi những cảm giác, là một trạng thái tinh thần. Dẫu cuộc sống muôn màu muôn vẻ, nhưng chúng ta cần sống một cách vui vẻ, thoải mái.

Bởi lẽ cuộc sống luôn ẩn chứa những ẩn số. Nhưng có một điều chúng ta biết chắc rằng, chỉ cần giữ được tấm lòng lương thiện và biết nghĩ tới người khác thì cuộc sống cũng sẽ dành tặng cho chúng ta những món quà bất ngờ ở những chặng đường khác nhau. Chỉ cần giữ được một tâm thái như vậy bạn mới có được nhiều niềm vui hơn!


Bang Dũng biên dịch

Nguồn: aboluowang

VẠN LÝ SẦU _ 1 Bài #Bluerock Cực Hay Của #Tromusic #NhacMoi #NhacHayMoi...

Hôm nay tôi nhận được một bản nhạc về nhân sinh thật hay với giọng ca AI do một người bạn chuyển. 
Xin mời quý bạn cùng thưởng thức.
  

Từ Cô Bé “Ở Đợ” Tới Nước Mỹ Ngày Ấy - Trương Thị Thu Huyền

Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả là tự truyện của một bé gái nhà nghèo, từ 8 tuổi đã phải đi ở đợ, được người tốt dạy chữ, giúp học đánh máy, làm sở Mỹ ở Chu Lai, kết hôn, theo chồng định cư tại Mỹ từ 1972, nuôi dạy hai con ăn học thành bác sĩ, mang được 30 thân nhân từ Việt Nam sang Mỹ… Dù đã thành công, tác giả không chối bỏ quá khứ nghèo khó. Phần đầu là một tự sự ngắn nhờ Việt Báo đăng từ ba năm trước giúp tìm lại được hai người thầy ơn nghĩa từ thời nhỏ. Phần 2, “Nước Mỹ Ngày Ấy”, là chuyện kể của cô dâu Việt Nam bơ vơ tại một miền quê nghèo vùng Đông Băc nước Mỹ hơn 60 năm trước.

Cô dâu Huyền,1972.

1. Về Những Người Thầy…

Hôm nay đọc bài “Thầy Tôi” trên báo, tôi chạnh nhớ lại mình cũng có một vị Thầy không phải dạy ở nhà trường, vì tại Việt Nam từ tuổi ấu thơ, tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường.

Tôi vốn sinh ra trong gia đình nghèo ở làng Bến Lá, tỉnh Quảng Trị. Năm lên 8 tuổi tôi đã rời xa gia đình vào Huế ở giúp việc (gọi là ở đợ) cho gia đình ông Đỗ Trí, Trung úy Trưởng Ty An ninh ở Thành Nội Huế cho đến năm 1962.

Trong nhà có một cậu Gia sư tên là Phú, đến ở trọ dạy kèm để chờ ngày thi Tú tài. Châu là cô bé 11 tuổi con gái đầu lòng của ông bà Trí, nhỏ thua tôi ba tuổi.

Một bữa nọ, Châu không thuộc bài, tôi bồng đứa em nhỏ của Châu ngồi chơi trước thềm, tôi trả bài dùm cho Châu. Cậu Phú nhìn ra thấy tôi và hỏi rằng “Hoa ơi, làm sao em thuộc bài?”- Thì em nghe Cậu giảng đêm hôm qua mà. Thế là từ dạo ấy cậu Phú thương tình âm thầm đưa bài vở của Châu học cho tôi sao chép.

Để đáp lại công ơn cậu Phú, tôi giặt áo dùm, đôi lúc thấy bữa ăn còn lại ít quá, tôi nhường lại phần ăn của mình cho cậu ấy.

Ngày tháng trôi qua tôi không nhớ rõ là bao. Nhưng một ngày buồn lại đến!

Cậu nói là cậu đi nhập ngũ, chúc Hoa dùng chút vốn liếng chữ nghĩa ấy mà tiến lên với đời nhé. Cậu còn dặn là hãy đọc truyện nhiều là em biết chữ thôi! Rất tiếc ngày ấy tôi không xin địa chỉ Cậu, và hỏi quê quán Cậu ở đâu. Cậu dáng người cao, da ngăm, hơi rỗ một tí.

Cậu ơi, hiện giờ Cậu ở đâu? Có còn sống không, hay đã bỏ mình ngoài chiến trận như bao anh hùng khác? Cậu là bậc Thầy rất vĩ đại của em, Cậu có biết không? Em mang theo hình bóng Cậu suốt cả cuộc đời mình.

Khi Cậu đi rồi em cũng thôi ở nhà ông Trí, về quê học may. Năm 1966 quê em lại chiến tranh khói lửa. Ba em lúc ấy ở Tiểu Đoàn 22 Pháo Binh, nên gia đình em vào Tam Kỳ. Ở đó, em gặp được người Thầy thứ hai là Chị Lý Thị Bích Thuỷ.

Quán may em ở gần trường dạy đánh máy chữ. Không có hàng may, em thường đứng trước trường nhìn vào mà ước mơ… mình cũng được như họ.

Vài ngày như thế trôi qua, một hôm em đang mơ màng thì một bàn tay đặt nhẹ trên vai em, “Ê bồ, sao ngày nào cũng đứng nhìn vậy? Em mắc cỡ bỏ chạy, thì Chị Thuỷ níu lại hỏi cho rõ chuyện. Tủi thân, em oà khóc… Từ đó Thuỷ làm bạn, và trả tiền cho em đi học. Vài tháng sau em được Thuỷ xin cho đi làm Thơ Ký đánh máy cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại Chu Lai. Trước khi đi làm, Thuỷ dạy cho em, thuộc hết vần ABC và đếm từ One đến One hundred.

Năm 1968, Chị Thuỷ và Huyền (tức là Hoa, tên em hồi đó) mất liên lạc!

Năm 2000, khi từ Mỹ về thăm Việt Nam, Huyền có vào Chu Lai và tìm được Chị Toàn. Chị cho địa chỉ Thuỷ ở Fort Lauderdale. Về lại Mỹ, Huyền hết sức vất vả mà cũng không tìm ra được Thuỷ!

Với tâm nguyện của Huyền, ước mong một phép lạ, cho Huyền gặp được hai người Thầy mà Huyền đã mang theo hình bóng từ 40-50 năm nay. Mỗi lần đi đâu đông người Việt, Huyền không quên hỏi tên của hai vị, nếu không gặp được hai vị trong những ngày còn lại cuối cuộc đời, Huyền vẫn mãi mang theo hình bóng hai vị Thầy khả ái đến kiếp hậu lai. Hiện tại, nếu còn thở Huyền vẫn còn hy vọng…

Ngoài ra, nhắn tin: Em Đỗ Thị Minh Châu, bây giờ em và gia đình ở đâu? Chị không biết tên của Mẹ em, chỉ biết tên và cấp bậc của Ba em mà thôi! Châu rất đẹp, ông bà Đỗ Trí, người Bắc di cư 1954, cũng rất đẹp và rất phúc hậu. Đọc câu chuyện nầy, ai có biết tin, xin cho Huyền tin để được liên lạc.

Tự truyện này cũng là lời nhắn tin rất tha thiết, mong được hồi âm.

Trương thị Thu Hiền

Và bà mẹ thành công, với hai con là bác sĩ.

2. Và “Nước Mỹ Ngày Ấy”

Ngày ấy là ngày 15 tháng 2 năm 1972, tôi ôm hai đứa con thơ, theo chồng về Mỹ.

Vùng đông bắc Hoa Kỳ lúc ấy đang cuối mùa Đông, chưa sang Xuân nên trời vẫn còn lạnh, mà từ quê nhà mới qua, tôi đâu có biết nó lạnh đến cỡ nào.

Chỉ mấy ngày sau khi ngủ đủ sức rồi là tôi háo hức đòi chồng tôi đưa đi chợ. Sửa soạn thật đẹp, với quần ống bát, áo vải mỏng, bông hoa loè lẹt, guốc Việt Nam cao gót… Vừa từ trên gác bước xuống gặp bà mẹ chồng ngay dưới cầu thang, bà la lên hoảng hốt, “Ôi! Chúa ơi! Con tưởng là con đang ở Việt Nam ư? Con có biết ngoài trời chỉ có 10 độ F thôi không?”

Không hiểu hết điều bà nói, thấy anh chồng gãi đầu gãi tai lúng túng, tôi vội kéo tay anh ra khỏi nhà cho gấp kẻo đụng lỡ hai đứa con nhỏ khóc lên thì sợ mẹ chồng đổi ý, không cho đi.

Anh bảo tôi đứng tại cửa để anh đi lấy xe, khi xe đến trước cửa, tôi vội chạy ra, không may té một cái đau quá trời đất nhưng cũng gượng đứng dậy bước tới xe được. Anh chồng lo bật máy sưởi trong xe không thấy tôi bị té. Khi vào trong xe rồi nó lạnh run lập cập, chồng tôi phải cởi áo ấm của anh ấy choàng cho tôi, lại tới phiên anh ấy run lập cập.

Xe ra đến phố rồi anh bảo tôi ngồi trong xe để anh vào trong Sear mua áo lạnh cho tôi. Khoảng mười lăm phút sau, thấy anh đi ra với cái áo ấm, tôi chê bai đủ điều nhưng anh bảo thì mặc cho đỡ đi rồi mai mốt đi mua áo đẹp hơn.

Anh chạy xe một vòng quanh phố. Tôi hỏi sao anh đi đâu mà không đưa em đi phố? Anh bảo đây là phố. Ôi, Trời đất ơi, phố xá chi lạ vậy? Sao không thấy người đi, sao không thấy phố mở cửa, sao vắng hoe vậy, sao nghèo nàn quá vậy? Anh có đùa với em không? Anh nhìn tôi với vẻ thất vọng. Cuối cùng tôi làm mặt giận, tôi nói thôi đưa em đi chợ.

Lại nữa, tôi cảm thấy hụt hẫng vô cùng khi bước chân vào siêu thị. Toàn là đồ hộp, cá thì không thấy, chỉ thấy toàn là thịt bò, thịt heo, thịt gà, gói gói lại hết, và cũng rất ít, không phải như siêu thị bây giờ, rau rợ thì cũng chỉ vài bó loe hoe, thấy buồn hiu buồn hắt! Thế thì hình ảnh mà tôi thường xem trong phim ở đâu? Hay tôi đang lạc vào quê hương xứ sở nghèo nàn của nước nào? Đang thất vọng não nề, chân cẳng thì lạnh tê buốt vì đi đôi guốc vụng về mà người ta ai đi ngang qua cũng nhìn mình một cách quái gở.

Trong lúcđang tức bực thất vọng thì một bà lão mỉm cười và hỏi:

– Cô từ đâu đến?

– Thưa bà tôi đến từ Việt Nam.

Bà ấy nhìn tôi rồi mỉm cười hỏi lại:

– Việt Nam ở đâu?

Ôi, đúng lúc cho tôi xả bỏ cơn tức bực tức vô lối ấy. Bà không biết Việt Nam ư? Tôi huơ tay múa may nói thật to, với số vốn tiếng Anh ít ỏi, lại phát âm theo giọng Quảng Trị cho mọi người đang vây quanh nghe: Việt Nam mà bà không biết, Việt Nam của tôi lớn lắm bà biết không, ai mà không biết Việt Nam, sao bà không biết vậy hả? Thế là chồng tôi cuống lên, kéo tay tôi đi thật nhanh, ra ngoài cửa rồi anh ấy nhấc bổng tôi lên, liệng vào xe và cho nổ máy xe chạy thật nhanh về nhà, không nói lời nào hết.

Còn tôi thì tức tối quá nên khóc bù loa, và đòi anh hãy đưa tôi về lại Việt Nam, ngay bây giờ, tôi không muốn ở đây nữa. Anh tấp xe vào đoạn đường vắng và dỗ dành. Tôi vẫn trách móc anh đủ thứ, cuối cùng thì anh nói rằng, thôi được em không muốn ở đây thì 4 tháng sau khi anh mãn hạn công tác tại Việt Nam rồi, chúng ta đi xứ khác. Ở Mỹ có nhiều nơi cũng đẹp lắm. Thôi em nín đi đừng khóc nữa kẻo về nhà Ba Mẹ thấy thế ba mẹ buồn. Nghe thế tôi cũng yên tâm, lau nước mắt bước vào nhà.

Mẹ chồng hỏi sao, con có thích không? Tôi bỏ chạy lên gác nằm khóc. Anh phải lo cho hai đứa nhỏ, và nói gì với Mẹ tôi cũng không biết, nhưng khi tôi đói bụng xuống nhà lục đồ ăn thì thấy mẹ chồng mặt mày buồn hiu. Tôi ân hận lắm, nên lại ôm bà, và bà cũng ôm tôi thật chặt. Bà nói chi nhiều lắm tôi không hiểu hết được.

Ngày hôm sau chồng tôi đưa cho xem quả địa cầu và chỉ cho tôi thấy vị trí của Việt Nam trên đó. Anh chỉ tay, nói đây là nước Mỹ, đây là nước Tàu, đây là nước Nga… và đây là Việt Nam của em nè. Tôi lại nổi cơn điên lên, cái tự ái lại cao hơn bình thường và thầm nghĩ, anh xỉ nhục tôi, nên tôi liệng quả địa cầu cái rầm trong phòng khách. May cho tôi khi ấy chỉ có hai đứa em và mẹ chồng ở nhà thôi. Bà mẹ chồng tưởng đâu tôi sẩy tay, chứ không biết đứa con dâu của bà hung dữ như quỷ sứ.

Sau đó, có những lúc cả nhà đi vắng tôi lấy quả địa cầu ra xem lại. So với nước Mỹ thì VN ta chỉ tương đương với tiểu bang Texas. So với nhiều nước thì… mà thôi, tôi mỉm cười và tự bào chữa cho mình: Ừ, thì quê hương tôi nhỏ bé như thế đấy, nhưng ở đó có tới bốn ngàn năm văn hiến chứ bộ. Bây giờ đôi khi nghĩ lại ngày ấy, tôi thấy mình hồ đồ mà tự thẹn với mình.

Tuy ở Mỹ tại Tiểu bang Pennsylvania nhưng nhà chồng tôi chỉ là một gia đình gốc Tiệp Khắc di dân rất nghèo, lại sống tại vùng quê, nhà này cách nhà kia rất xa. Trong nhà chỉ có một buồng tắm, một toilet thôi, nên 8 người mà một buồng tắm thì rất bất tiện. Ngoài vườn cũng có một cái nhà vệ sinh như bên Việt Nam mình vậy, mùa hè thì đàn ông đi ngoài đó nhiều hơn. Áo quần giặt xong những ngày có nắng cũng phơi bên ngoài như ở quê nhà, nhìn ra bên ngoài thì chỉ thấy bò và bò, ôi chao là buồn!

Thế rồi một tháng trôi qua, chồng tôi phải trở lại Việt Nam, bởi với công tra làm việc đã ký, anh ấy còn bốn tháng nữa mới hết hạn. Tôi và hai con ở lại với nhà chồng.

Trước ngày rời nướcMỹ, anh nói với mẹ chồng tôi là nhờ mẹ thường ngày đừng để vợ con đi lấy thư, kẻo có chuyện nguy hiểm.

Số là bên kia đường của nhà chồng tôi là một gia đình hàng xóm có người con trai tử trận tại Việt Nam. Chồng tôi người hàng xóm biết tôi đến từ Việt Nam, ông ta có thể giết tôi để trả thù cho con họ. Vì thế, hàng ngày cha chồng tôi thường ra lấy thư.

Sau nhiều ngày lo sợ khi nhìn sang nhà hàng xóm, tôi nghĩ rằng mình phải đối diện với sự thật một lần. Tôi bỏ công lôi cuốn tự điển Anh Việt – Việt Anh của Lê Bá Kông mà tôi mang theo khi về Mỹ, ghép lại thành từng câu và học thuộc lòng. Sau đó, tôi lấy hết can đảm tự mình sang nhà hàng xóm, xin gặp bà chủ nhà. Tôi tỏ bày với họ như vầy:

“Thưa bà, tôi xin chia sẻ niềm đau mất mát với bà. Xin bà đừng ghét tôi, vì tôi cũng có cha và em trai đang đánh giặc ngoài chiến trường. Cha và em trai của tôi cũng có thể chết sống trong tích tắc bất cứ lúc nào. Mẹ tôi và biết bao bà mẹ Việt Nam khác nữa cũng chỉ là nạn nhân trong cuộc chiến nầy như bà. Quê hương tôi cũng khổ đau lắm, riêng tôi rất yêu thương và quý trọng người Mỹ, đã nhân danh tự do, giúp đất nước tôi chận đứng làn sóng đỏ từ phương Bắc đổ xuống. Nếu không vì cộng sản Nga Tàu thì quê hương tôi không có chiến tranh, nhân dân tôi sống yên yên và người Mỹ đến đó chỉ là khách du lich…

Tôi chưa kịp nói hết những gì mình đã học và muốn bày tỏ nỗi lòng, thì hai ông bà đều sang ôm tôi vào lòng khóc nức nở, tôi cũng khóc với nỗi đau của họ và nỗi đau của chính mình !

Vậy mà, không hiểu sao, ngày hôm sau nhiều người đến gõ cửa nhà mẹ chồng tôi để gặp thăm tôi, họ là những người của xóm Mount Jackson này đến để đón chào người con dâu Việt Nam đến với xóm làng họ.

Thế là từ đấy tôi không còn lo sợ và lẻ loi nữa, khi thì người này đến chở đi ăn kem, khi thì người khác mang chút quà lại cho hai con nhỏ của tôi. Mỗi khi có ai đưa đi đâu thì nhiều người xúm lại hỏi han thân thiện.

Với khu xóm vậy là tôi yên ổn, nhưng với chính mình và gia đình nhà chông thì còn nhiều sóng gió.

Khi còn ở Việt Nam, công ty của anh ấy cho biết rằng ai có vợ Việt hãy đưa gia đình rời khỏi trước Tết âm lịch, đó là tin “mật”. Sau đó là trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa xảy ra ngay trên quê hương tôi. Sau này, khi đã tới nước Mỹ, tôi mới hiểu vì sao… Thì ra chính phủ Mỹ đã sắp đặt bỏ rơi miền Nam Việt Nam. Ôi còn đau đớn nào bằng. Quê hương tôi giờ đây là Đại Lộ Kinh Hoàng, là Mùa Hè Đỏ Lửa… Khi hiểu ra điều này, tôi oán trách nước Mỹ. Tôi ghét luôn cả người chồng của tôi, cả gia đình dòng họ, xóm làng của họ luôn.

Cũng cùng thời gian này, cha chồng tôi thấy tôi, lúc nào cũng như gây chiến tranh với ông. Ông đã không thích tôi từ đầu, bây giờ lại càng khó chịu hơn. Tôi cũng không vừa gì với ông, hai bên cứ căng thẳng như thế. Hàng ngày cha chồng tôi phải ra thùng thư lấy thư. Một hôm, ông cầm thư vào không chịu đưa cho tôi, mà còn la lối um sùm, nào là thằng con bất hiếu, nó xem vợ lớn hơn cha mẹ nó, gửi thư cho vợ hàng ngày mà không gửi cho cha mẹ. Tôi thì cũng hỗn với Ông. Tôi nói thẳng rằng, ông độc tài quá, ông đã bỏ xứ Tiệp Khắc cộng sản sang đây rồi mà ông cũng không bỏ được máu cộng sản trong ông, là ích kỷ và độc tài. Thì mày cũng thế, mày là con cháu Hồ Chí Minh tàn tệ đấy thôi, ông đáp lại. Thế là trận chiến bùng nổ dữ dội, tới mức có lúc tôi đã phải gọi người bạn bên Dayton, Ohio sang chở tôi về bên đó cho đến ngày chồng tôi về lại Mỹ. Câu chuyện nầy dài dòng không thể kể hết. Nhưng cũng may là tôi có được bà mẹ chồng tuyệt vời, bà luôn coi tôi như là đứa bé không hơn không kém nên hết lòng che chở.

Chuyện “chiến tranh” giữa cha chồng và tôi sau cùng được thu xếp tốt đẹp. Tôi là người đứng ra xin lỗi ông, bởi lúc nầy tiếng Mỹ của tôi cũng tạm được đề giải bày uẩn ức của mình với ông, và cũng cám ơn ông bà đã sinh ra người con trai mà hôm nay là người chồng tốt của tôi, người cha mẫu mực của hai đứa con của tôi. Sau khi biết nói lời xin lỗi, tôi đã được ông tha thứ. Dần dà, tôi còn được ông đặc biệt thương yêu còn hơn hai nàng dâu bản xứ của ông.

Cũng từ đấy, tôi bắt đầu vào đời với công việc làm ăn bận rộn vất vả để tự nuôi sống cho chính gia đình nhỏ bé của mình, nuôi hai con một gái một trai, ăn học, rồi lo cho chúng vào đại học, vào y khoa. Cả hai đều học hành đến nơi đến chốn và tốt nghiệp bác sĩ.

Ngoài việc lo làm ăn nuôi con, tôi còn lo giúp đỡ gia đình bên quê nhà, nào là lo nào là lo cho mẹ tôi bịnh bán thân bất toại, rồi lo cho các em đi vượt biên, bao nhiêu lần không được, lại lo cho cuộc sống trong thời gian chờ đợi bảo lãnh đoàn tụ… Rồi một ngày, các em và gia đình của chúng cũng được sang Mỹ đoàn tụ, tất cả 15 người giờ thì hơn 30 rồi. Kế tiếp là những đứa cháu ngoại như thiên thần xuất hiện. Thế là tôi chẳng còn thời gian để dời đi xứ đẹp, xứ ấm, phố phường đồ sộ nữa, mà lạ thay hạnh phúc từ đó vững mạnh và vươn cao.

Quảng Trị vẫn in dấu trong tôi, tôi vẫn nhớ thương nơi chôn nhau cắt rún… Nhưng tại quê hương mới, gia đình chúng tôi đã như cây cổ thụ, gốc rễ đã mọc ra chằng chịt bám vào mảnh đất này. Mẹ chồng tôi năm nay 91 tuổi vẩn khỏe và rất minh mẫn, vẫn thương yêu tôi như ngày nào. Người chồng quê mùa chất phác, mà khi qua chiến đấu tại chiến trường Việt Nam khi chỉ mới học xong high school năm xưa bị tôi hờn trách, hôm nay vẫn còn bên cạnh cuộc đời như chuyện tình “đôi dép”. Con gái mở phòng mạch tại đây. Thằng con trai hơn 40 tuổi không lấy vợ vì bận rộn với công việc và không thích ràng buộc.

Gần 10 năm nay vùng quê Mỹ nghèo của tôi nay đã có được Walmart và Highway 376. Trong nhà đã có microwave để hâm nóng thức ăn, mà hồi đó, 43 năm trước không có.

Kể từ 1972 khi đứa con gái từ quê nhà Quảng Trị một mình phiêu bạt qua đất Mỹ, lòng ngổn ngang trăm mối. Thời ấy, số người Á Đông tại nước Mỹ còn rất nhỏ, đâu được như ngày nay, riêng cộng đồng người Việt đã có tới hơn một triệu bảy trăm ngàn người.

Viết đến đây tâm hồn tôi cảm thấy tràn ngập tình thương và biết ơn với nguời chồng khác chủng tộc, cũng như với người Mỹ, nước Mỹ quê hương thứ hai của mình. Xin đa tạ anh, nguời bạn đời yêu quý, và xin tạ lỗi với nước Mỹ ngày ấy bị tôi trách móc, hận thù.


Trương Thị Thu Huyền

Giờ Giấc? Chuyện Chết Giấc!- Đoàn Xuân Thu

Tranh Bảo Huân

Tưởng chuyện “giờ giấc” chỉ là việc ngó đồng hồ mà biết sáng hay chiều, ai dè bước ra khỏi Việt Nam mới thấy đời không đơn giản mà đang giỡn.

Mở mắt ra ở Melbourne trời 4 độ C lạnh run, răng va lập cập như đàn kiến đang gõ trống. Gọi cho em bên Little Sài Gòn hỏi em ăn sáng phở hay mì thì em nói trong nắng hạ hoàng hôn em ăn instant noodle tức em ăn mì gói cho đỡ đói

Sao kỳ vậy? Thưa quý vị, tại vì Trái Đất không nằm phè ra cho dễ hiểu, mà nó lại… nghiêng. Cái trục nghiêng 23.5 độ ấy khiến Bắc bán cầu và Nam bán cầu “không chơi chung được mùa nào”.

Cho nên, tháng Tám ở Việt Nam là mùa Hè đổ lửa, còn ở Úc – Melbourne chẳng hạn – lại là giữa mùa Đông lạnh teo bugi, nếu có bugi. Còn ai không có bugi thì lạnh cái khác…

Khi người Việt trong nước đang ngồi quạt mo, Úc đã lấy áo len. Khi bà con ở Sài Gòn hớn hở đón Xuân thì Úc đang… lá Thu rơi. Bán cầu lệch mùa, dân tình lệch cảm xúc, đó là chuyện thường tình!

2.

Múi giờ – chuyện đau đầu từ kinh tuyến!

Địa cầu có 360 độ, người ta chia đều ra 24 múi giờ, mỗi múi 15 độ kinh tuyến. Mỗi nước nằm chỗ nào thì canh giờ theo múi giờ chỗ đó.

Giờ quốc tế gọi là GMT, giờ Việt Nam là GMT+7, Melbourne là GMT+10 vào mùa Đông, và… GMT+11 vào mùa Hè (vì có vụ gọi là “giờ tiết kiệm ánh sáng” – Daylight Saving Time).

Hậu quả là: có hôm mình gọi điện về Việt Nam hỏi “Sáng chưa?”, bên kia trả lời: “Sáng sớm… hôm sau rồi ông ơi!”

Chưa hết! Có lần em Út Đẹt ở Little Saigon (California) gọi điện về Melbourne thăm người yêu cũ – một anh chàng tị nạn mới qua Úc. Cô gọi lúc 10 giờ sáng giờ Cali, tưởng anh đang nhâm nhi cà phê sáng. Ai dè bên Melbourne là… 3 giờ khuya. Chàng đang ngủ ngon lành, ke ướt đầy mồm, ngáy như trâu rống, mộng thì điện thoại reo vang như còi báo cháy! Bị đánh thức giữa giấc mơ ăn bò viên rạp Đại Đồng Cao Thắng, chàng nổi nóng, không thèm bắt máy. Kết quả: nàng giận, không thèm gửi $100 như đã hứa. Vậy là chỉ vì múi giờ mà tan tình ta, mất tiền em cho. Khổ chưa?

Bảo Huân 

3.

AM, PM và mối tình oan trái với đồng hồ 12 giờ.

Giờ giấc trên thế giới có hai phe: một bên dùng hệ 12 giờ (thường là Mỹ, Úc, Philippines), bên kia dùng hệ 24 giờ (quân đội, bệnh viện,  chánh án, y tá).
Hệ 12 giờ chia ngày ra AM và PM:

* AM (Ante Meridiem) = Trước trưa, từ nửa đêm đến 11:59 sáng.

* PM (Post Meridiem) = Sau trưa, từ 12:00 trưa đến 11:59 khuya.

Chuyện tưởng đơn giản, nhưng thử hỏi: 12 AM là mấy giờ?

Nếu bạn nói “12 giờ trưa”, xin chúc mừng… trễ máy bay! Vì 12 AM là nửa đêm!

Một ông Mít kiều mới qua Úc đặt vé máy bay đi Sydney “12 AM” mà tưởng trưa, ra sân bay lúc 11 giờ sáng, bị hãng bay nó cười: “Bay đi hồi khuya rồi, ông nội!”

Trong khi đó, hệ 24 giờ thì đỡ nhầm: 12 giờ trưa là 12:00, 5 giờ chiều là 17:00, 11 giờ đêm là 23:00.Nhưng nhiều người Mỹ lại kêu: “Khó thấy bà làm sao nhớ?” – thế là họ trung thành với AM-PM, rồi sau đó… la làng vì lỡ hẹn.

4.

Đồng hồ từ đâu ra? Ai bày ra cái vụ 24 giờ này?

Trách ai bây giờ? Hãy trách… người Ai Cập cổ đại. Chính họ là người đầu têu chia ngày thành 24 giờ.

Lý do? Nghe rất “nghệ”: bốn ngón tay (trừ ngón cái) mỗi ngón có 3 đốt, cộng lại 12 đốt. Dùng ngón cái đếm, được 12 giờ. Hai bàn tay là 24 giờ. Đơn giản, tiện tay, khỏi cần máy tính!
Chữ “giờ” tiếng Anh là “hour”, bắt nguồn từ Latin “hora”. Phát âm tiếng Mỹ là /ˈaʊɚ/, tức là chữ “h” câm – giống như tình yêu cũ, thấy có mà thật ra… mất mẹ nó rồi!

Một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây, vậy một giờ = 3600 giây. Ai rảnh thì cứ đếm, còn tui thì chừng nào tới giờ cơm bụng đói là biết thôi.

5.

Múi giờ và những tai nạn dở khóc dở cười.

Thời đại Zoom, Skype, FaceTime… chỉ cần sai giờ là hỏng hết. Tình yêu xuyên biên giới mà không canh đúng giờ là tiêu:

– Em đang rót rượu đỏ nhậu thì anh… đang ngáp ngủ.

– Anh nói “nhớ em” thì bên kia… hết pin.

– Hẹn họp 10 giờ sáng giờ New York, nhưng sếp ở Melbourne vô trễ 14 tiếng, mất hợp đồng 2 triệu đô, giờ ngồi bán cà phê dạo.

Chưa hết, nhiều bạn trẻ du học Úc, học online lớp bên Anh, họp nhóm với bạn ở Mỹ, mà mẹ thì gọi điện từ Việt Nam lúc 3 giờ sáng… Lịch học, lịch họp, lịch ăn, lịch ngủ – lộn tùng phèo như cháo lòng không có huyết heo và giò cháo quảy.

6.

Kết luận: Đồng hồ thì có số, nhưng đời thì… loạn cào cào

Người ta hay nói: “Thời giờ là vàng bạc.” Ừ thì đúng, nhưng vàng này hay đổi giá, còn bạc thì lúc trắng lúc đen. Đời đen bạc là thế đấy!

Thời gian là một chiếc áo may sẵn, nhưng không ai mặc vừa. Người thì thấy nó chật – trễ chuyến bay, trễ cuộc hẹn, trễ tình yêu. Kẻ thì thấy nó rộng – ngồi chờ cuộc gọi không đến, đợi tin nhắn không về.

Với dân viễn xứ như tui, thời gian không chỉ là mấy con số chạy lòng vòng trên mặt đồng hồ. Nó là cảm giác “lạc nhịp” với quê hương. Là khoảnh khắc nhớ mẹ thuở xưa, miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương lúc trời khuya lạnh lẽo. Là khi muốn hỏi “má hết bịnh chưa?” thì ở bên kia… má đang đi chợ.

Tái bút – Tình giờ vẫn còn … nguyên vẹn.

Từ Melbourne – nơi đang là mùa Đông, tôi xin gửi lời chào đến Little Saigon – nơi chắc đang hè chói chang. Nếu có ai hỏi: “Bây giờ là mấy giờ?” – tôi chỉ biết trả lời: “Giờ là… giờ nhớ nhau!”

Còn đúng mấy giờ? Xin coi đồng hồ! Hay… hỏi trái tim mình.

 

Đoàn Xuân Thu

Mùa Thu Tháng Chín - Đỗ Công Luận

Trăng Suông - Lê Mạnh Thường

Tranh của họa sĩ Trần Thắng

 
Hoàng hôn đậm một màu đỏ ối như máu phủ kín một góc rừng miền Tây. Dòng sông ngoằn ngoèo gấp khúc ôm lấy đại ngàn. Đến khúc eo này nó bị thắt lại như con trăn khổng lồ bị tròng dây vào cổ rồi thít chặt. Mặt sông bảng lảng hơi sương. Không gian hoang lạnh đến rợn người. Thảng hoặc, chỉ có tiếng chim vỗ cánh rộp roạp hay tiếng con mang, con hoẵng khát tình tru lên man dại. Tiếng nói chắc nịch vang lên:

– Dừng lại đây nghỉ đã! 

Chiếc nốc nhỏ tiến sát vào gần bờ rồi dừng lại. Trên nốc có 3 người. Một ông lão trạc 70. Một cô gái trẻ và một con bé chừng 3 tuổi.

Ông lão cắm mạnh cây sào xuống nước rồi buộc nốc vào. Ông cởi trần. Bộ ngực và các cơ bắp cuồn cuộn ngày nào giờ đã nhão ra bèo nhèo, chảy sệ quện với thời gian. Làn da mồi nhăn nheo lấp lánh dưới ánh hoàng hôn đang chuyển sang màu tím tái. Ông ngồi cúi xuống, lấy chiếc khăn tay nhúng xuống sông rồi đưa lên lau người.Trong khoang, cô gái đang lúi húi dọn cơm ra mâm. Làn khói mỏng bay lên thơm nức mùi cá nướng. Con bé cầm chiếc bát ngồi cạnh mẹ mắt ướt nhòe nũng nịu: “Mẹ ơi, con đói lắm!” Cô gái vừa với tay thắp chiếc đèn bão đang treo ở mui nốc vừa nựng con: 

– Ngoan đi con! Con ra mũi ngồi với ông đi! Mẹ bưng cơm ra ngay đây!

Tợp một hớp rượu, ông lão dướn mắt nhìn lên những lùm cây um tùm trên bờ rồi đặt chiếc ly xuống mặt ván gỗ nghe tiếng “kịch”. Ông chùng giọng: 

– Hay là ta quay về đi con. 

Cô gái đang cầm thìa đút cơm cho con ăn vội ngước lên nhìn ông khẩn khoản:

– Con xin cha cho con thêm mấy bữa nữa!

– Ta đi tính đến bữa ni là một tháng 6 ngày rồi mà vẫn nỏ thấy hắn mô cả. Thôi, phải quay về nhà thôi con ạ, mùa lụt sắp đến rồi!

Cô gái vừa nói với cha vừa sụt sịt khóc:

– Cha, con xin cha rốn cho con một vài bữa nữa, một vài bữa nữa thôi cha ạ! Biết mô, con Thảo lại tìm được cha hắn. Răng mà con khổ ri hở trời?

Con bé mếu máo:

– Mẹ, răng mẹ lại khóc? Ông ngoại ơi, ông nói chi mà để mẹ cháu khóc rứa? Mẹ ơi nín đi, mẹ mà khóc là con nỏ ăn nữa mô!

– Ăn đi con, mẹ nỏ khóc nữa mô!

Vừa đưa tay quẹt nước mắt vừa nựng con, cô gái lại giục: 

– Cha ăn cơm đi, đừng uống nữa! Ăn xong vô nằm ngủ cho khoẻ. Mai ta lại đi tiếp cha hầy?

Màn đêm bao trùm đặc quánh cả vùng eo vực Bồng. Mặt sông gờn gợn sóng. Chiếc nốc nhỏ nhoi như lá tre khẽ dập dềnh, dập dềnh. Chốc chốc lại có con cá lăng, cá ngạnh húng hoắng búng nước nhộp nhoạp phá tan cái chốn thinh không lạnh lùng, hoang vắng này.

Ông lão đã ngủ. Tiếng ngáy “khoọc... khoọc...!” đều đều phát ra kèm theo hơi rượu nồng nặc quẩn đặc khắp cái khoang nốc bé tin hin. Nằm ôm con co ro một góc, cô gái chẳng thể nào ngủ được. Thỉnh thoảng con bé lại giật bắn mình rồi khóc hu hu tội nghiệp. Cô vội vỗ vỗ vào đít nó rồi cất giọng ư ử ru như sợ cha mình tỉnh giấc. Lời bài hát ru “Thập ân phụ mẫu” phát ra nghe méo xệch, không rõ lời. Vậy mà chỉ một lúc sau, con bé lại ngủ ngon lành. Ngắm khuôn mặt bầu bĩnh của con bé đang ngủ một cách thơ ngây, hồn nhiên đến nao lòng, nước mắt người mẹ chảy ướt đầm cánh tay co lên làm gối. Cô khóc. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu cô rơi nước mắt vì thương cha, thương con bé và thương cho cái thân mình.

Cô ngước mắt lên nhìn ra ngoài mui nốc. Có chút ánh sáng le lói, yếu ớt xiên vào. Bữa ni là ngày mấy mà trăng chừ mới lò dò lên nhỉ? Cô tự hỏi. Đã lâu rồi ta cố quên đi ánh trăng oan nghiệt, răng hôm nay trăng lại đến đùa ta? Hình như có tiếng hát lẫn trong tiếng gió hú từ trên bờ eo vực Bồng. Người hay là ma? Cô rởn người. Cảm giác lạnh buốt chạy dọc sống lưng. Tiếng hò rờn rợn vẳng ra nghe dài dại: “Trăng lên đến đó em tề/ Hỏi chi thì hỏi anh về kẻo khuya...”

Cô rùng mình bịt tai lại. Mắt nhắm nghiền. Đôi môi khẽ mấp máy khẩn cầu: “Đừng sáng nữa trăng ơi! Tôi khổ vì trăng lắm rồi! Tôi xin trăng hãy lặn mau đi! Trăng hãy lặn mau đi! Tôi xin trăng đấy! Lặn đi trăng!”

Bên cạnh, con bé vẫn say giấc ngủ. Ngoài cửa khoang, ông lão vẫn đều đều với âm thanh “Khoọc... khoọc!” đứt quãng. Ánh trăng ma quái vẫn chập chờn.

-------

Đêm 16. Ánh trăng thừa thãi chảy tràn mặt sông. Nước dòng Lam trong vắt khoe những hòn sỏi trắng phớ đang lúng liếng đưa tình. Lũ cá mương, cá chày mải mê đùa giỡn dạo đầu cho cuộc truy hoan cuồng say rạo rực. Dòng sông lấp lóa ánh bạc níu bờ cát vàng hoang hoải chảy về tít tắp xa xăm. Ánh trăng huyền hoặc mơn man bông đùa trên từng chiếc lá dâu non. Cơn gió đỏng đảnh lay lay từng ngọn cỏ trên bãi bồi. Cả bãi dâu xanh mướt ngút ngàn khẽ rên khúc tự tình rầm rì hoan lạc.

3 cô gái làng Vải đang ngồi cạnh mép sông. Họ vừa vốc từng vốc nước lên tưới tràn nhữngbắp chân trắng ngần như bột lọc vừa nhướng mắt về phía bờbên kia chờđợi.

Tiếng Thơm cất lên vẻ sốt ruột:

– Răng buổi ni họ vẫn chưa đến hè?

Huệ quay sang nhìn Thơm và Hạ rồi lại nhìn ra mặt sông. Phía bên kia vẫn một màu xanh đậm của lũy tre đang rung rinh trong gió. Bờ đê chạy dài ôm lấy bờ lở con sông. Huệ tự thắc mắc một mình:

– Chưa có bữa mô lâu như bữa ni. Hay là họ có chuyện chi rứa hè?

Hạ trấn an mọi người:

– Nỏ có chuyện chi mô! Chắc là bữa ni họ đi đánh cá ở xa nên về muộn! Ta cứ chờ tý nữa. Nếu bữa ni họ không sang thì bữa khác họ sang. Lo chi mà lo! 

Giọng cô nghe vẻ bình thản nhưng thực ra lúc này trong lòng Hạ cũng như Huệ và Thơm, Hạ cũng rất mong mấy chàng trai vạn chài bên kia sông sang đây để được gặp nhau, để họ trả nợ mấy câu hỏi mà tuần trăng trước họ chưa đáp lại được.

Hạ khẽ reo lên, đoạn cô kéo áo hai bạn rồi chỉ tay ra xa:

– Họ sang rồi tề! Đây nói có sai mô!

Chiếc nốc nhỏ như một chấm đen đang từ bờ bên kia dần dần tiến sang bên này. Chiếc nốc lớn dần, lớn dần. Nó lướt phăm phăm trên mặt nước như thể để bù lại cái khoảng thời gian dài các cô gái của phường hát làng Vải phải ngóng trông thắc thỏm. Trên nốc, 3 thanh niên làng Vạn trông dáng to khỏe đang hì hụi chống chèo. Khi cách bờ một đoạn bằng vài sải tay, họ dừng nốc lại. Một người cắm con sào xuống nước, buộc nốc lại. 3 chàng trai vẫy vẫy tay vào bờ chào các o. 

Một người bước lên trước vịn tay vào cây sào rồi đánh tiếng với vào bờ bằng một câu dạo vui tai: 

– “Hò... ơ... ơ... Chốn này vui vẻ tưng bừng/ Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi!”

Thơm khúc khích cười:

– Cuối cùng thì họ cũng đã đến! Chị Hạ, chị Huệ ơi, các chị hát đi!

Hạ giật nhẹ vai áo Thơm:

– Nhường em hát trước đấy!

– Không, em nỏ hát trước mô, chị Hạ hát đi!

Huệ vào hùa giục Hạ:

– Đúng rồi, Hạ đáp lại đi!

Hạ lội xuống. Làn nước mát lạnh quấn lấy bắp chân tròn lẳn. Cô nhìn 3 chàng trai đứng trên nốc vẻ đợi chờ. Hạ cất giọng đáp lại một câu trong vắt như nước sông:

– “Hò...ơ...ơ... Dừng xa, khoan kéo, ơ phường/ Hình như có khách viễn phương tới nhà!”

Lập tức phường nam tiếp lời: 

– “Đi qua, nghe tiếng em reo/ Nghe xa em kéo, muốn đeo em về!”

Các o phường nữ cũng chẳng kém, họ đồng thanh lên tiếng: 

– “Đêm khuya, trời tạnh, sương im/ Tai nghe tiếng nhạc chàng Kim tới gần... Hò...ơ...ơ... Mừng rằng bạn đến chơi nhà/ Cam lòng thục nữ gọi là trao tay!”

Phường nam được dịp bèn thổ lộ nỗi lòng mình: 

– “Đi ngang thấy búp hoa đào/ Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai... Hò...ơ...ơ... Đến đây vàng cũng như son/ Ai ai thời cũng như con một nhà...”

Các o phường nữ dường như chẳng chịu nghe những lời bộc bạch tâm tình của phường nam, họ thử tài ứng đối của phường nam bằng những câu hát đố mượt mà như lụa. Rồi phường nam cũng đối lại không kém phần sắc sảo:

– “Đến đây hỏi khách tương phùng/ Chim chi một cánh bay cùng nước non?”

– “Tương phùng nhắn với tương tri/ Cánh buồm một cánh bay đi khắp trời!”

– “Lá gì không nhánh, không ngành?/ Lá gì chỉ có tay mình trao tay?”

– “Lá thư không nhánh, không ngành/ Lá thư chỉ có tay mình trao tay!”

Cứ thế, tiếng hò câu ví loang loáng mặt sông. Âm thanh câu hát hòa vào dòng chảy của con nước nghe man mác, ngân nga. Hết hát dạo, hát mừng, hát chào, hát hỏi họ chuyển sang hát đố. Cả hai phường hát say sưa đối đáp quên cả thời gian. Hai bên chuyển sang hát mời và thả những câu xe kết đong đưa. Sương khuya ướt nhòa mái tóc họ mới sực tỉnh, vội vàng cất lên câu hát tiễn người. Ánh trăng chênh chếch trên cao soi rõ những ánh mắt khát khao nuối tiếc của những chàng trai, cô gái đang chập chững bước vào đường yêu.....

Nhờ ánh trăng vằng vặc lấp lóa mặt sông, nhờ những đêm hát phường Vải giao duyên đậm đà men say tình ái mà Huệ và Thơm lần lượt lên nốc về bên kia sông cùng người tri kỷ. Chỉ còn Hạ vẫn còn miệt mài bên khung dệt lụa. Hạ mê mẩn với những chiếc lá dâu, với nong tằm, con kén. Những đêm trăng sáng, Hạ lại dạy các em gái trong làng hát ví, hát phường vải để thỏa sức giao duyên cùng các phường hát nam trong vùng.

Cả cái vùng hạ lưu sông Lam này ai mà chẳng biết cái tên o Hạ. O Hạ vừa đẹp người, đẹp nết, hát hay lại giỏi giang, tháo vát. Chính o là niềm tự hào của làng Vải.

Lụa làng Vải bao đời nay đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng khắp nơi.Tương truyền rằng, những bộ y phục của vua, hoàng hậu và các quan đại thần trong triều đình xưa được may bằng những tấm lụa được dệt từ làng Vải. Để tỏ lòng tri ân với vị thánh mẫu đã ban cho làng Vải nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa nên hằng năm,ở đây lại tổ chức hội thi tài để tìm ra những tay dệt giỏi và động viên con cháu gìn giữ nghiệp tổ của làng. Năm nào Hạ cũng giành giải dệt lụa nhanh nhất, đẹp nhất. Người già hân hoan phấn khởi. Người trẻ ao ước, khát khao. Không ít nhà gần xa bóng gió muốn xin Hạ về làm dâu nhưng Hạ chỉ bẽn lẽn cười cười ra chừng như o chưa ưng ai. Trai trong vùng khối kẻ mơ ước được xe duyên kết tóc cùng Hạ nhưng Hạ vẫn hồn nhiên như cơn gió mải mê vui đùa bờ bãi ven sông. Và cũng chẳng hiểu sao những câu hát nặng tình của các chàng trai làng Vạn vẫn chưa thể lay động được trái tim o. Hạ đã làm biết bao gã trai phải khốn đốn, mất ăn mất ngủ thẫn thờ. Cha mẹ Hạ cũng rất phiền lòng vì con gái chẳng chịu nghe lời ông bà. Đã nhiều đêm bà nhỏ to thủ thỉ, tâm tình cùng con gái bằng tình mẫu tử sâu nặng và sự trải nghiệm của một người mẹ. Rằng đời con gái như giọt mưa sa, nó ngắn ngủi vô cùng. Cha mẹ xin con hãy đừng kén cá chọn canh kẻo đến lúc hoa tàn nhuỵ héo, duyên phận lỡ làng thì khổ cực trăm bề. Chỉ mong con hãy thương lấy cha mẹ, thương các em mà nhanh chóng tìm cho mình một tấm chồng để khi cha mẹ nhắm mắt xuôi tay cũng được yên lòng. Bà sụt sịt khóc, nước mắt mẹ ướt đầm vai áo Hạ. Nằm cạnh mẹ mà lòng Hạ như dao cứa. Nước mắt Hạ lưng tròng. Nào Hạ có muốn làm trái ý cha mẹ đâu. Hạ cũng là con người, cũng biết yêu thương, khao khát một mái ấm gia đình lắm chứ. Nhưng không hiểu sao trái tim Hạ vẫn chưa một lần thổn thức? Liệu trái tim Hạ có nghe được tiếng gọi của tình yêu hay không?Tại sao chuyện chồng con đối với Hạ lại vô cùng khó khăn đến vậy? Hạ có phải là một người bình thường như bao người con gái làng Vải này không? Càng nghĩ, Hạ càng thấy buồn. Hạ rúc đầu vào ngực mẹ rồi khẽ hứa với mẹ sẽ lấy chồng để cha mẹ yên lòng. Thực tình, Hạ chẳng muốn xa cái làng Vải, xa khung dệt lụa, xa bãi dâu xanh và khúc sông chất chứa biết bao kỷ niệm này. Hạ chỉ muốn được quẩn quanh nơi đây để ngày ngày miệt mài làm việc, đêm trăng sáng lại cất lên tiếng hát vang vọng sông quê bằng những câu hò, câu ví nao lòng. Những giọt nước mắt Hạ lăn xuống thấm ướt chiếc gối thêu đôi chim bồ câu đang rủ rỉ tâm tình.

Ngoài kia, sương rơi ướt đẫm mảnh sân nhỏ. Thỉnh thoảng tiếng côn trùng khe khẽ thở than. Gió lạnh kéo ánh trăng khuya len lỏi ùa vào căn nhà nhỏ ven sông.....

Hạ đã tìm được ý trung nhân. Một người hoàn toàn xa lạ. Hạ vẫn không tin đó lại là sự thật bởi tình yêu đến quá bất ngờ.

Lại một đêm trăng sáng. Hạ dẫn các em trong phường hát nữ ra bờ sông để hát đối cùng trai làng Vạn.

Trăng thanh. Gió mát. Nước chảy hững hờ. Những câu ví đầy ngẫu hứng bay bổng ngân nga vang lên say đắm lòng người. Hạ đứng nhìn các em say sưa đối đáp trao tình cùng cánh trai làng Vạn. Lòng Hạ rộn lên niềm vui nguyên lành như thể đang cùng Huệ và Thơm ngất ngây trong phường hát năm nào. Bây giờ Huệ và Thơm về bên kia sông không biết có vì cuộc sống tất bật mưu sinh mà nhớ tới cô bạn Hạ làng Vải này không? Huệ ơi, Thơm ơi! Các bạn có nghe mình gọi không?

Hạ bỗng bừng tỉnh khỏi những âm thanh rạo rực. Cô quay mặt nhìn lên phía trước. 1 chiếc nốc lạ từ thượng nguồn đang lững thững trôi xuống. Trên nốc, một người đàn ông đang nhẹ nhàng vung mái chèo khua nước. Ai rứa hè? Răng lại đi có một mình? Có phải là phường hát không? Hạ dán mắt theo dõi. Đám gái trai hai làng vẫn đang mải mê hát và vục nước đùa nhau.

Chiếc nốc lạ cắm sào nằm cạnh nốc của phường hát làng Vạn. Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Người thanh niên có thân hình lực lưỡng, mái tóc húi cao, hàng cúc áo phanh ra để lộ bộ ngực săn chắc. Hạ nhìn kỹ khuôn mặt anh ta. Người lạ. Khá điển trai. Anh ta vừa gài lại  cúc áo vừa hướng ánh mắt vào Hạ rồi cất vang giọng dạo đầu: “Hò..ơ...hò... Bấy lâu nghe hết tiếng nàng/ Bên anh nức tiếng đồn vang đã từng/ Nghe tin anh cũng vội mừng/ Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang”.

Anh ta vừa dừng tiếng hát, cả đám gái trai phường hát sững sờ nhìn nhau. Hạ ngạc nhiên đến không ngờ. Ôi, giọng hát sao mà nghe mạnh mẽ, trong trẻo đến hút hồn rứa nhỉ? Hạ đã thuộc nhiều làn điệu dân ca, đã hát đối rất nhiều với các phường hát nam nhưng chưa có chàng trai nào có giọng hát vừa khoáng đạt vừa mang đậm hồn thơ tiếng nhạc đến vậy. Người ơi, chàng là ai? Chàng từ mô đến? Chàng chỉ đến đây để hát thôi ư? Mà răng chàng lại hát “Bấy lâu nghe hết tiếng nàng/ Bên anh nức tiếng đồn vang đã từng”? Chàng muốn nói ai trong số các cô gái làng Vải đêm nay? Phải chăng đây là thiên định cho cuộc nhân duyên của mình? Những câu hỏi cứ vẩn vơ trong đầu Hạ. Một cảm giác run run chạy qua sống lưng nàng. Lấy hết can đảm, Hạ lội xuống nước nhẹ nhàng đung đưa lời dạo qua môi: “Hò... ơ... hò... Bấy lâu thức nhắp mơ màng/ Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng...” Rồi Hạ mơ màng: “Bóng trăng em tưởng bóng đèn/ Bóng cơn em tưởng bóng thuyền anh xuôi.”

Người lạ mạnh dạn thổ lộ nỗi lòng bằng lời ca da diết con tim: “Nước chảy cho bè anh trôi/ Ai bắt bè anh lại kết nên đôi vợ chồng... Hò...ơ...hò... Chờ em nửa tháng ni rồi/ Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng...”

Cả đám bạn hát hai làng lặng im ngơ ngác nghe Hạ và người lạ đối đáp cùng nhau. Tiếng hát của chàng trai đầy ma lực khiến Hạ như lạc vào mê cung tình ái rồi gặp được người tri âm để bày tỏ nỗi lòng. Giọng hát có khi êm đềm như dòng nước mùa xuân chan chứa tình đời. Khi thổn thức cõi lòng của người cô đơn. Rồi lại dồn dập như những con thuyền đang tất tả ngược xuôi qua lại. Cũng có khi nó khựng lại, chộn lên như con nước đang chảy mạnh bỗng dưng gặp phải tảng đá chắn ngang. Cả cái không gian mênh mang như chìm đắm trong men say chuếnh choáng tương phùng.

Mặt trăng viên mãn rạng ngời....

------

Tĩnh làm nghề buôn gỗ. Nhà mãi trên mạn ngược. Anh bảo, muốn lên nhà anh thì trước tiên phải đến phố huyện. Từ đường cái bắt đầu đi đò dọc mất 3 ngày 4 đêm mới đến được bản của anh. Nếu chèo đò ngược sông Lam lên có khi phải mất cả tháng trời mới đến nơi. Hạ không sợ điều đó. Tuổi thơ anh đã phải chịu nhiều mất mát, thiệt thòi. Cha mẹ bị nước lũ cuốn trôi khi đang vớt củi trên sông. Khi đó Tĩnh mới tròn một tuổi. Tĩnh được gia đình ông bác họ cưu mang nuôi nấng. Năm Tĩnh 15 tuổi thì bác qua đời. Gia đình bác chuyển đi nơi khác. Không họ hàng, anh em. Tĩnh sống nhờ vào sự đùm bọc thương yêu của bà con làng xóm nên mới khôn lớn đến bây giờ.

Nghe những lời tâm sự xót xa của Tĩnh, nước mắt Hạ tuôn rơi. Hạ thương Tĩnh vô cùng. Hạ rất muốn được bù lại cho Tĩnh những mất mát buồn đau bằng chính cả cuộc đời mình. Đi bên nhau trên bãi cát dài cạnh mép sông, ánh trăng soi tỏ khuôn mặt hai con người đang ngất ngây hạnh phúc. Vòng tay ôm Hạ, Tĩnh thủ thỉ:

– Hạ ạ, hoàn cảnh của anh thì em đã rõ rồi đấy! Anh thấy nghề buôn gỗ bây giờ cũng gặp thật nhiều khó khăn, bất trắc. Anh không muốn mình phải luôn đối mặt với sự nguy hiểm, anh chỉ muốn một cuộc sống yên bình, vợ chồng sớm tối có nhau...

Hạ quay sang hỏi lại vẻ thắc mắc:

– Nghĩa là răng hả anh?

– Bây chừ, ở trên quê anh cũng không còn ai thân thích. Anh muốn xin phép cha mẹ em được ở lại đây, được cùng em làm nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Anh sẽ quyết tâm học được nghề của quê em. Anh đã tích cóp được một lưng vốn tàm tạm, vợ chồng mình sẽ mở rộng sản xuất, cuộc sống của chúng mình sẽ khấm khá phải không em?

– Anh..!

Hạ định nói nhưng cổ họng ngắc ngứ. Hạ cảm thấy lâng lâng vui sướng. Ánh mắt cô long lanh nhìn Tĩnh. Mãi một lúc sau Hạ mới nói nên lời:

– Rứa thì còn chi vui hơn phải không anh? Em tin là cha mẹ sẽ đồng ý. Cha mẹ em rất vui khi có được một chàng rể tương lai như anh!

Đột nhiên Tĩnh cúi xuống bế bổng Hạ lên chạy vào vườn dâu đang rung rinh trong gió. Hạ vẫy vùng rồi nũng nịu đấm vào ngực Tĩnh thùm thụp. Tĩnh và Hạ nằm dưới gốc dâu. Ánh trăng hau háu khát thèm. Trong vòng tay ghì chặt của Tĩnh, Hạ cảm giác như cả đất trời nghiêng ngả. Hạ thấy mình đang bồng bềnh trôi trên dòng sông quê. Những cơn gió cứ mơn man, mơn man cơ thể Hạ. Bên tai Hạ vẳng nghe đâu đây câu ví vỗ về. Bỗng dưng con thuyền chao đảo rồi lao xuống ghềnh thác. Con thuyền húc vào những tảng đá lởm chởm sắc nhọn. Hạ lịm đi. Cô cảm thấy hình như có một viên đá găm vào cơ thể mình đau nhói. Hạ hoảng hốt khẽ kêu lên rồi choàng tỉnh. Máu! Tĩnh lò cò ngồi dậy rồi dìu Hạ xuống bờ sông. Cả hai ngâm mình dưới làn nước mát lạnh. Hạ vừa cảm thấy xấu hổ, sợ sệt nhưng cũng vừa được trải qua những cảm giác ngọt ngào của tình yêu. Cô khoát nước vào mặt Tĩnh rồi giục Tĩnh nhanh chân quảy đôi thùng gánh nước kĩu kịt về nhà. Con đường cát nhỏ thân thuộc chạy từ bến sông vắt lên bờ đê để về làng hôm nay sao mà ngắn thật. Hạ ước giá như con đường này bây giờ thật dài, thật dài để hai đứa được đi bên nhau thật lâu, để Hạ được thỏa thuê ngắm nhìn, trò chuyện cùng người mình yêu thương. Trăng lên cao soi rõ bóng hai người liêu xiêu bên bờ cỏ. Hai chiếc bóng có lúc nhập vào nhau làm một, có lúc lại tản ra rồi lại nhập vào như trò ú tim. Phải chăng hạnh phúc đến từ những điều bất ngờ nhất chứ không phải là một sự sắp đặt hoàn hảo? Hạ thầm cảm ơn dòng sông, cảm ơn ánh trăng và câu hò đã cho Hạ tìm được hạnh phúc của riêng mình. Một hạnh phúc thật đơn giản nhưng vô cùng ý nghĩa mà không ai dễ gì có được.

Sương khuya ngấm vào da thịt nghe lành lạnh. Tiếng gà gáy sang canh lục tục cất lên. Hai chiếc bóng cứ nhỏ dần, nhỏ dần rồi khuất hẳn vào bụi tre đầu làng Vải.

------

Hạ cũng không thể nào lý giải được nguyên nhân vì sao Tĩnh bỏ làng Vải ra đi lâu như vậy. Trước hôm đi, nằm bên cạnh vợ, Tĩnh thủ thỉ muốn về trên quê ít ngày để làm giỗ cho cha mẹ, xong việc anh xuống ngay. Hạ xin đi nhưng Tĩnh can ngăn. Tĩnh bảo, sang năm hãy về, con còn nhỏ quá chưa thể về được. Hạ thương chồng vất vả lặn lội đường xa, cô bỏ vào túi chồng một ít tiền làm lộ phí để Tĩnh lên đường về quê.

2 năm sống cùng nhau trong ngôi nhà của cha mẹ vợ, Tĩnh là một chàng rể siêng năng, cần cù và khéo tay. Hạ đã sinh được một bé gái xinh xắn đặt tên là Thảo. Thảo là thảo hiền, hiếu thảo với cha mẹ. Tĩnh bảo vậy. Cha mẹ vợ vui mừng ra mặt vì có một chàng rể tốt tính, khỏe mạnh, tháo vát, ăn ở biết điều. Hạ thì khỏi nói. Cô luôn tự hào vì có được một người chồng như Tĩnh. Đã mấy lần Hạ hỏi han, bàn với chồng đưa con về thăm quê nội, để được ra mộ thắp hương cho cha mẹ chồng bởi từ hồi lấy nhau tới giờ Hạ cũng chưa một lần được về trên đó. Tĩnh lảng đi và nói rằng cứ để con lớn lên chút nữa rồi anh sẽ đưa em và con về cũng được. Quê anh xa lắm, mãi trên mạn ngược. Ở đâu? Cứ qua Dừa, qua Lạng, đi đò ngược sông Lam 7 ngày nữa mới tới nơi, anh chưa muốn em và con phải khổ. Nghe anh đi! Đành vậy. Hạ chịu thua.

Sau 2 năm chẳng quản nắng mưa, khó nhọc, Tĩnh đã nắm được những bí quyết cơ bản của nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa mà người vợ thương yêu truyền cho. Đó là những bí quyết giúpHạ luôn chiến thắng trong các cuộc thi tài của làng Vải trước đây. Những tấm lụa với những sợi tơ vàng óng ánh mê hoặc mọi người bây giờ cũng đã được Tĩnh dệt nên chẳng kém vợ bao nhiêu. Hạ vui mừng vì đã chọn được một học trò đặc biệt để truyền nghề. Người học trò đó sẽ theo Hạ suốt cả cuộc đời này và cùng nhau tạo dựng nên một cuộc sống no đủ bên những đứa con ngoan. Nghĩ vậy, Hạ vui lắm.

------

Chiếc nốc nhỏ vẫn lầm lũi đi lên phía trước. Đi mãi. Không biết qua bao nhiêu eo, bao nhiêu vực xoáy trên dòng Lam hùng vĩ này. Cha chống, con chèo, miệt mài hết ngày này qua ngày khác. Ông lão sức đã tàn, hơi đã kiệt. Có lúc ông lại uể oải ngồi xuống giương đôi mắt đục mờ nhìn ra xa. Vẫn rừng xanh tiếp núi thẳm. Tìm người như ri thì biết khi mô mới tìm được? Chiếc nốc như một kẻ độc hành phiêu lưu trên sa mạc, không biết đâu là đích của mình.

Trời vừa xế chiều. Ánh nắng quái vẫn còn soi xuống mặt sông rồi hắt lên mặt người từng bóng nước rung rinh. Chiếc nốc đang đi qua một eo nhỏ có tên là eo Bớp. Hai bên rừng núi âm u tĩnh mịch. Đã thấm mệt. Hạ vừa nhanh tay chèo vừa nhủ thầm phải đi qua cái eo rùng rợn này đã rồi mới nghỉ lấy sức được. Nghĩ vậy, cô đưa tay quệt những giọt mồ hôi chảy tràn trên mặt vừa cúi lưng khua mạnh mái chèo. Vừa qua khỏi eo Bớp, trời đất bỗng nhiên quang đãng lạ thường. Không còn cảnh núi rừng âm u mà thay vào đó là những bãi bồi chạy dài tít tắp. Những nóc nhà nhỏ nép mình dưới bụi vầu, bụi nứa đẹp như tranh vẽ. Bỗng nhiên Hạ hét to:

– Cha ơi, nhìn tề!

Ông lão vịn sào đứng dậy nhìn theo hướng tay Hạ chỉ. Phía xa xa, 1 vườn dâu xanh ngắt nằm bên mép sông. Càng đến gần, vườn dâu càng kéo dài lên phía trước tầm mắt của hai cha con. Ông lão ngạc nhiên thốt lên:

– Răng lại giống cảnh quê mình hè?

Hạ nói nhỏ:

– Rứa là đúng rồi cha ạ!

Ông lão quay lại:

– Đúng cái chi?

– Dạ...! Con biết rồi cha ạ!

Hai cha con cho nốc vào sát gần bờ rồi cắm sào dừng lại. Trên bãi dâu có nhiều người đang lúi húi hái lá chất đầy vào chiếc sọt sau lưng. Nắng đã tắt hẳn. Cơn gió mát rượi thổi bay bay mái tóc Hạ. Cô vẫn chăm chú nhìn lên bờ. Đám người trong vườn dâu lục tục kéo nhau về. Hạ run rẩy kêu lên: “Cha ơi!” Tĩnh và một người đàn bà vừa bước ra khỏi vườn dâu, sau lưng họ là hai chiếc sọt đầy lá xanh rờn. Hai người vừa bước nhanh chân về làng vừa nói cười với nhau, vẻ mặt rờ rỡ rạng ngời. Một lúc sau, một thằng bé chừng 8 tuổi chui ra từ những lùm dâu. Nó vừa chạy vừa gọi toáng lên: “Cha mẹ ơi, chờ con với!”

Hạ ngã khuỵu xuống nốc. Nước mắt chảy ướt đầm vai áo. Nước mắt thấm vào môi, vào miệng nghe đắng đót vô cùng. Cô muốn hét thật to nhưng lúc này bỗng dưng có cái gì ứ nghẹn, uất ức không thể bật lên thành tiếng. Hạ cảm thấy mình như vừa bị một cơn gió độc xô ngã mà không thể nào dậy được. Thấy vậy, ông lão vội chui qua mui rồi nhanh tay đỡ lấy con gái. Ông nghẹn ngào vuốt mái tóc Hạ rồi vỗ vai nhỏ nhẹ:

– Thôi, đừng khóc nữa con! Bây chừ cha con ta quay về đi, nước lụt sắp về rồi con ạ! Về đi kẻo không kịp!

Hạ nấc lên, đôi vai run bần bật, 2 tay bíu chặt mạn nốc:

– Cha ơi!

Ông lão chui sang, nhổ sào, chống nốc ra giữa dòng rồi từ từ trôi xuôi.

Trăng bắt đầu nhú lên. Cả cái khối vàng vọt kia ngọ nguậy bước ra khỏi đám mây bợt bạt. Dòng sông man mác thẫn thờ.

Hạ ngồi nhìn trân trân vào bãi dâu cho đến khi chiếc nốc bắt đầu chui vào eo Bớp tối thui.

Trong khoang, con bé Thảo vẫn ngủ ngon lành...


Lê Mạnh Thường