(Sau tháng 4/1975, cả miền Nam lâm vào
hoàn cảnh hết sức nghiệt ngã. Nhiều gia đình phân ly tan vỡ. Tôi, sau 10 năm tù
rạc, trở về gặp người bạn cũ và kể lại chuyện này. Phần cuối của chuyện, tôi mượn
triết lý “Câu Chuyện Dòng Sông” - Hermann Hesse - Phùng Thăng dịch, để nói lên
cái quan niệm sống của bạn tôi.)
1.
Phạm Văn Gầm nhìn đời bằng một con mắt.
Từ ngày anh nhìn theo cái kiểu này thì đời cũng liên tiếp quất cho anh những đòn
chí tử. Đau nhất là đòn của vợ anh. Ngón đòn ê ẩm thấu tim gan. Có lúc uất quá,
anh muốn giết người. Cũng may, anh kịp dằn lòng. Nếu không, chắc đời đã nghiền
nát anh rồi.
Muốn rõ ngọn ngành, phải kể dông dài đầu
đuôi câu chuyện.
Gầm là tay có học, nhưng trong thời bát
nháo, kẻ không dựa vào thế lực người khác ắt khó được đời trọng dụng. Chán mớ đời,
lại đang tuổi động viên không chạy đàng trời nào cho khỏi. Anh vào lính Nghĩa
Quân lẩn quẩn ở quê nhà. Những ngày gần cuối tháng Tư, năm 1975, tình hình quân
sự rất bi đát. Những đơn vị bạn đã thoái binh từ hai ngày trước. Đồn Nghĩa Quân
không còn ai yểm trợ. Bị cô thế, thằng cha trung đội trưởng Nghĩa Quân dẫn anh
em chạy bỏ đồn, tìm nơi kháng cự. Trên mặt đất có nhiều đường chạy. Trời xui đất
khiến thế nào lại chạy vào ngõ cụt, phía bờ sông Vàm Cỏ Đông. Chui vô khu rừng
tràm. Cố thủ trong một nơi sình lầy nước đọng. Địa thế tác chiến bất lợi trăm bề.
Trước mặt là đồng ruộng, sau lưng là con sông lớn. Nếu bị tấn công, rút lui ngả
nào?
Nói cố thủ cho oai, chứ thật ra chả đánh
đấm mẹ gì. Quân chính quy Bắc Việt đang dồn nỗ lực về thủ đô. Ở đây, chỉ còn le
hoe một số du kích địa phương. Du kích đứng từ bìa làng, phóng loa kêu gọi
Nghĩa Quân đầu hàng.
Trung đội trưởng nói với anh em: “Cố thủ,
chờ quân mình phản công. Tên dép râu nào xông vô, bắn bể đầu cho tao.”
Kêu gọi không được, du kích dùng súng cối
60 bắn vào khu rừng tràm. Súng mới lấy được của một đơn vị thoái binh nào đó bỏ
lại. Du kích chưa quen sử dụng nên trái rớt bên đông, trái rớt bên tây. Cũng có
trái lọt vào rừng tràm. Chính trái đạn quái ác này văng miểng làm bị thương con
mắt trái của Gầm. Vết thương không trầm trọng, nhưng do điều kiện thiếu vệ sinh
nên nhiễm trùng, gây đau nhức khó chịu.
Sau mấy ngày cố thủ, hết lương thực mà
viện binh không thấy, cũng không liên lạc vô tuyến được với đơn vị bạn. Túng thế,
anh em Nghĩa Quân cho Gầm đi một mình ra đầu hàng, mục đích để được chữa
thương. Lúc đó, anh mới biết lệnh đầu hàng đã tuyên bố từ ba hôm trước. Du kích
bảo anh quay trở lại rừng tràm, báo tin này cho anh em Nghĩa Quân. Khi tất cả
Nghĩa Quân chịu buông súng trở ra thì con mắt của Gầm đã vô phương cứu chữa. Một
y tá địa phương giúp anh múc tròng mắt hư bỏ đi. Từ đó, Gầm nhìn đời bằng một
con mắt.
Cuộc đời chung, vốn nhiều xấu xa bỉ ổi.
Nhìn rõ mặt đời quá, nhiều khi lại đâm ra chán đời. Thà nhìn bằng một con mắt, may
ra còn thấy đời mờ mờ hư ảo dễ thương. Gầm tự an ủi như thế, và quyết tâm làm lại
cuộc đời riêng của mình. Xây dựng một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Chẳng
phải Gầm vẫn mong một ngày đất nước bình yên, vất cây súng, nắm lấy tay cày bừa
sinh sống hay sao? Đêm đêm, không còn nghe tiếng súng, ngủ khỏi giật mình là sướng
rồi.
Việt Cộng vào, tự xưng cách mạng. Gầm là
lính trơn, chỉ phải học tập chính sách mới một tuần, được cách mạng cho về làm
ăn. Xóa bỏ hận thù, xóa bỏ những tàn tích cũ, cùng nhau xây dựng lại một xã hội
yên bình tốt đẹp hơn. Tổ chức ngăn nắp, quy củ rõ ràng. Có nhóm, có tổ, có
khóm, có phường. Người ta bảo tổ chức như thế để giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt
đèn. Cách giải thích nghe có lý có tình, nhưng thật ra là để dòm ngó kiểm soát
lẫn nhau. Vợ Gầm cũng tích cực tham gia hoạt động xã hội mới. Bây giờ, chị là hội
viên Hội Phụ Nữ của xã. Cứ vài hôm, lại đi họp một lần. Chẳng biết khi họp, họ
nói với nhau những gì. Về nhà, trông chị phấn khởi yêu đời thấy rõ. Gầm mừng. Vợ
vui là anh vui. Người đàn ông nào cũng muốn đem lại hạnh phúc cho vợ. Gầm cũng
thế. Càng thương hơn nữa, chị không hề chê anh khuyết tật. Mọi người bình đẳng,
theo cách nói “con người vốn quý” của cách mạng.
Niềm vui trong gia đình kéo dài không
lâu. Sau này, vợ Gầm đi họp thường xuyên hơn. Lắm khi, chị đi đến khuya lắc mới
về. Và chị về không phải với gương mặt tươi tắn yêu đời như anh hằng mong đợi.
Chị hay kiếm cớ gây sự, mắng mỏ anh nhiều câu hỗn láo, cho rằng kết duyên với
anh là một lầm lỗi lớn trong đời chị. Chuyện gối chăn, cũng không còn đậm tình
chồng vợ. Chị tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt, khước từ lảng tránh ái ân.
Sau chiến tranh, đất nước lâm vào nỗi
nghèo nàn cơ cực. Muốn nâng cao phúc lợi toàn dân, phải có kế hoạch lâu dài.
Cách mạng phát động phong trào thi đua lao động. Làm thủy lợi, đắp đập đào
mương, dẫn thủy nhập điền. Là lính Nghĩa Quân của chế độ cũ, dĩ nhiên Gầm được
chọn làm đối tượng “lao động là vinh quang” của chế độ mới. Cái khẩu hiệu mới
nghe có vẻ sáng ngời, nhưng đủ sức vắt cạn tinh lực con người đến chết. Ngoài
việc thủy lợi như bao nhiêu người dân khác, những kẻ được liệt vào thành phần
ngụy quân ngụy quyền còn được cách mạng tận tình chiếu cố, làm thêm công tác
tháo gỡ mìn bẫy nơi các đồn bót cũ. Mìn chôn dưới mặt đất, ló lên cái ngòi kích
hỏa như sợi râu con dế lẫn trong cỏ, khó nhìn thấy. Phương tiện dò mìn là chiếc
gậy nhọn đầu, chọt chĩa khều móc theo những hàng rào kẽm gai. Trái mìn nào nổ,
coi như xong. Trái nào chưa nổ, phải tìm cách moi lên và vô hiệu hóa. Đã có nhiều
người bỏ mạng, hoặc sút tay gãy gọng vì công tác này rồi. Gầm may mắn, không bị
hề hấn gì. Trước sự việc này, cách mạng lý luận, các anh gài mìn thì các anh phải
tháo gỡ thôi. Hết chiến tranh, còn duy trì những thứ chết người đó làm chi?
Cũng đúng thôi! Lý của cách mạng, bao giờ mà chả đúng? Mỗi chuyến công tác chừng
mươi bữa nửa tháng. Về nhà chưa nóng đít, Gầm lại có lệnh đi công tác nữa.
Thời gian này, Gầm nghe lời đồn đãi bóng
gió về chuyện lén lút lăng nhăng của vợ anh với viên xã ủy. Anh hỏi vợ. Chị lồng
lên, xỉa xói vào mặt anh bằng đủ thứ ngôn từ chanh chua của mấy mụ chuyên môn
ăn cắp vặt ở những khu chợ đông người. Mồm miệng nào mà đấu khẩu cho lại con vợ
điêu ngoa? Gầm nhịn. Càng về sau, chị càng lộng hành công khai đi lại với viên
xã ủy, coi chồng chẳng ra chi. Gầm tức, toan giết kẻ gian dâm với vợ anh, nhưng
con gà thất thế, muốn vói lên mổ con chó sói là điều không dễ. Kiện thưa ư? Luật
lệ địa phương nằm trong tay của viên xã ủy. Nó chưa triệt tiêu Gầm, đã là điều
may. Đòi hỏi công lý là điều không tưởng. Chẳng làm gì được kẻ có quyền, Gầm
quay ra chửi vợ. Chị cũng không vừa, rủa lại anh là thứ “voi một ngà, người ta
một mắt”, ám chỉ tính hung dữ thể hiện qua sự dị hình. Bị chạm vào khuyết tật,
Gầm đau như ngực bị đâm dao nhọn. Manh nha trong đầu Gầm ý tưởng tùng xẻo con vợ,
rồi thắt cổ tự vận luôn. Cái lưỡi lê từ thời còn đi lính, chưa bén máu người. Lần
này, nó sẽ được dùng để trừng trị một con đàn bà trắc nết. Gầm tưởng tượng vợ
anh sẽ đau đớn rên la và quằn quại trên vũng máu. Một hình ảnh ghê khiếp quá,
chưa thi hành mà anh đã rợn. Ngay vào thời chiến tranh, anh cũng không nhẫn tâm
làm điều đó với đối phương, huống chi bây giờ hành sử với người đã từng cùng
chung chăn gối? Nhiều đêm trăn trở, Gầm tự hỏi, con đàn bà lăng loàn hư đốn này
có đáng để anh đánh đổi luôn mạng sống của mình? Câu hỏi, làm anh tỉnh thức.
Lòng anh chùng lại. Sau cùng, anh quyết định bỏ đi. Có kẻ chê anh hèn nhát.
Cũng có người thấu lẽ đời, cho thế là khôn. Anh ở lại, chẳng những không làm sứt
mẻ được ai, nhiều khi còn nguy đến tính mạng. Viên xã ủy đâu muốn thấy một cái
gai trước mắt? Gầm tự hiểu, và lánh mặt trước khi trở thành con sâu cái kiến bị
chà đạp.
2.
Tôi trở lại quê nhà sau 10 năm tù rạc,
nghe tin bằng hữu mỗi ngày một thêm tan tác. Người lẩn vào rừng sâu, sống đời hoang
dã. Người uất khí hộc máu tươi, vì cường quyền áp bức. Người xiêu tán phương
xa, biệt tăm không biết sống chết lẽ nào. Và người ở lại như Phạm Văn Gầm, nghe
nói cũng thay đổi lạ lùng. Anh nhìn đời bằng một con mắt, và lui về nơi khuất
lánh bên dòng sông, rũ hết sự đời, sống theo con nước.
Tôi mua bịch thuốc rê, chai rượu đế, lần
dò đi thăm bạn. Tôi đến vào buổi xế chiều. Chòi trống. Tôi đứng ngóng ra sông, chờ
Gầm. Gió thổi hiu hiu. Ánh tà dương đỏ rực mặt sông. Những cụm lục bình lờ lững
trôi xuôi. Vài cánh cò chấp chới xa xa. Bên kia sông, rừng tràm bát ngát. Gầm về
theo nước thủy triều lên. Trong cái lốt ngư ông áo vải nón mê, anh hoàn toàn lột
xác khỏi con người ngày cũ. Dáng anh gầy gò, phong thái thong dong.
Thấy tôi, anh cười rộ theo kiểu ẩn sĩ đời
xưa: “Gió lớn bốn phương, còn quay về quê cũ được sao?”
Tôi cũng cười vang trên bờ sông, như một
giang hồ hiệp khách: “Thiên hạ đại loạn, còn an nhiên tự tại được sao?”
Chúng tôi dắt tay nhau vào trong chòi
lá. Sau những thăm hỏi thông thường, tôi nói với Gầm về những ngày tù rạc của tôi.
Anh bảo, còn sống trở về là may, thời thế không là dầu sôi lửa bỏng, nhưng hiểm
nguy lúc nào cũng đang rình rập bên mình.
Buổi tối, chúng tôi bày rượu nhâm nhi chờ
trăng lên. Tôi nghe Gầm kể chuyện đời, chuyện mình.
Tôi nói: “Để chữa lành một vết thương,
mà chịu hãm mình cô quạnh bên một dòng sông là điều uổng phí.
Gầm bảo: ”Ở vào cái thế thúc thủ, còn vọng
động tranh chấp hơn thua là chuốc họa vào thân.”
Anh cho rằng, ý nghĩa của đời sống tùy
quan niệm mỗi người. Có kẻ tìm sự vui thú trong tiền tài. Có người tìm sự thỏa mãn
trong quyền lực. Nhưng những thứ đó không đem lại sự bình yên trong tâm hồn.
Còn anh, anh theo cái triết lý sống Ông Chài, một bài học thuộc lòng thuở nhỏ,
và đọc:
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Sớm doi tối vịnh vui vầy
Ngày dài đón gió, đêm chầy chơi trăng.
Tháng ngày thong thả làm ăn
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm
Nghêu ngao nay trích mai đầm
Một bầu trời rộng, vui thầm ai hay!*
Đọc xong, Gầm cười sảng khoái, nói “Phúc
tại tâm không lý đến đời”.**.
Tôi hỏi điều gì đã làm anh thay đổi quan
niệm sống đến tận ngọn nguồn gốc rễ?
Anh nói, hoàn cảnh và dòng sông. Hoàn cảnh
đã xô anh vào đường cùng, để từ đó, anh thấy đời là bể khổ. Dòng sông đã dạy
cho anh biết thế nào là sự im lặng.
Tôi hỏi: “Im lặng mà cũng phải dạy nữa
sao?”
Gầm ngó ra sông nói: “Trong im lặng mình
nhìn lại được chính mình”.
Trăng đã lên cao. Ngồi trong chòi, nghe
tiếng sóng vỗ ngoài bờ sông.
Tôi nói: “Dòng sông đâu chỉ im lặng, còn
có tiếng sóng nữa”.
“Vâng”. Gầm nói: “Tiếng sóng như tiếng vỗ
về của mẹ thiên nhiên. Đi tìm an ủi ở đâu cho xa? Ngay ở đây, bên bờ sông này
đã cho ta điều đó”.
Chai rượu đế chắt đến giọt cuối cùng.
Đêm đã khuya lắm. Con trăng đã xế về bên kia rừng tràm. Mọi vật chìm trong tịch
mịch lặng im. Chỉ còn nghe tiếng sóng triền miên như niềm an ủi bất tận của bạn
tôi trong nỗi đời hiu quạnh.
Lâm Chương
* thơ Nguyễn Đình Chiểu
**thơ Tô Thùy Yên

No comments:
Post a Comment