Họ tự
nhận họ là “hai con khỉ già”, bởi vì nụ cười của họ bây giờ cũng xệch xạc, méo
mó lắm, nhất là mỗi lần cãi nhau, nhìn lại càng chẳng giống ai, cứ vênh vênh
váo váo mà lại lườm lườm nguýt nguýt trông đáng ghét tệ. Nhưng đó là chuyện của
họ, chẳng là của ai trên cõi đời này, nếu ai có trùng hợp mà nhận vơ là của
mình thì cũng mặc thiên hạ.
Đúng ra họ đã hay chí chóe từ hồi còn trẻ, y như hai con khỉ non. Lúc mới yêu nhau họ cũng hay giận hờn, nhưng những thứ giận hờn thuở đó nó chỉ bùng lên như lửa rơm, làm cho họ càng nhớ tới nhau nhiều hơn khi xa cách.
Trước khi quyết định đi tới hôn nhân, họ đã về vấn kế và xin phép cha mẹ đôi bên so tuổi như bao nhiêu cặp vợ chồng khác. Lão thầy bói đeo đôi kính đen, gật gù bấm bấm đốt tay, sau một lúc lẩm nhẩm tính toán, nghe loáng thoáng câu gì “thìn tuất sửu mùi tứ hành xung, tý ngọ mẹo dậu ở với nhau không nát một chiếc chiếu”. Nhưng may quá hai người không nằm trong nhóm tuổi ấy, cuối cùng thì thầy cũng nói một câu ba phải: “Nữ mạng hỏa, nam mạng thổ, thổ sanh hỏa, tương sanh, tuy không giàu có nhưng cũng trăm năm đầu bạc.”
Thôi thế
cũng được, bà già đứng dậy xuýt xoa cám ơn thầy, dẫu có khắc khẩu chút đỉnh mà
cứ đầu bạc răng long cãi nhau hoài hoài thì cũng xem là hạp tuổi, không lo một
đứa rửa chân về chầu Giời sớm. Mạng Tích lịch Hỏa chỉ là lửa sấm sét, nó gầm
thét lên nhưng chớp nhoáng là nguội ngay, còn thổ ngự sơn thì tuy không điền sản,
dinh cơ, nhưng thanh cao chót vót ngọn núi, sấm chớp không hề hấn gì. Sợ nhất
là cái mạng mộc gặp hỏa, hay hỏa gặp thủy thì coi chừng đứa chết đứa bị thương.
Thuở ấy thời chiến tranh, có bao nhiêu đôi vợ chồng tuổi rất hợp, thế mà vẫn nửa
chừng đứt chến. Nhưng lúc ấy, hai người đang yêu nhau lắm, dẫu có phải nhảy vào
lửa để chết cho tình yêu họ vẫn chết, cho nên việc đưa nhau đi xem tuổi chỉ là
để các ” cụ ” ở nhà yên tâm mà thôi.
Thời
gian cứ thế vùn vụt trôi đi, mới ngày nào mà nay đã ba mươi mấy năm đầu gối tay
ấp. Hôm lũ con đề nghị mừng ngày “hấp hôn” cho cha mẹ, ông đã nửa đừa nửa thật
nói với lũ nhỏ:
“Thôi,
đừng phú quý sinh lễ nghĩa, tao với mẹ mày ngày nào cũng là ngày tân hôn, cần
gì tổ chức cho rậm đám. Đứa nào thương cha mẹ, cứ cho tý tiền đi du lịch trăng
mật tuổi già, chứ ăn thì đã không dám ăn, mà mặc đẹp cũng chả ai nhìn.”
Đúng thế, với tuổi này ông nghĩ như vậy là thực tế, tiết kiệm được tiền cho con cái, lại không ngại thiên hạ xì xèo. Vợ chồng ông sống theo lối Việt Nam, hôm Valentine, ông đi làm về, nghe thiên hạ ra rả chuyện tặng nhau đóa hoa Tình Yêu, lại thấy chú Mỹ đen đứng bán hoa ở ngã tư đường, ông bèn hào sảng mua tặng bà một đóa hồng nhung đỏ. Hí hửng lái xe về, ông đậu xe ở “garage” rồi đem đóa hoa vào bếp. Thấy bà đầu bù tóc rối đang nấu cơm, ông vui vẻ đưa đóa hoa cho vợ. Chưa kịp nói câu gì hay ho để lấy điểm với bà, thì bà đã nhăn nhó lên như khỉ:
“Làm
trò khỉ gì thế, hoa với chả hoét. Sao không mua cho tôi bó rau muống xào thịt
bò ăn cơm có phải ngon không?”
Ông cụt
hứng, ngẫm nghĩ: “rõ chán phèo cho cái con khỉ già”, làm như cuộc đời chả hề biết
tới chữ “romantic” bao giờ cả. Nhưng nhìn mặt mũi vợ đỏ gay khi đứng bên bếp lửa,
đang làm bữa cơm chiều cho cả nhà, ông lại nghĩ thương vợ: ” Ừ phải đấy, cứ rửa
cho bà ấy đống bát đĩa bẩn mà lại bằng trăm đóa hoa hồng phỉ gió kia”. Thế là
ông xắn tay áo lên để rửa bát, bình thường đã mấy khi ông đụng đến những bếp
núc bát điã của vợ, cứ cho là những việc ấy của đàn bà, đàn ông sờ vào e nó hạ
giá trị con người đi. Ông lúng túng rồi tuột tay làm vỡ cái ly, thế là bà tru
tréo lên:
“Thôi ông ơi, hễ ông sờ vào đâu là đổ vỡ đến đó. Cứ để tôi, chẳng cần ông phải làm.”
Ông lắc
đầu bỏ ra ngoài vườn, thôi đi tưới cây vậy. Nhác nhìn thấy mấy cây mướp đắng bà
trồng hôm nay đã leo lên hết chiếc cột gỗ bên vệ rào, ông nghĩ ngay đến chuyện
làm cho bà cái giàn. Nghĩ là làm, ông hí hoáy đi lấy thang, rồi dùng những
thanh gỗ mỏng để bắc giàn, nhưng chưa gì ông đã thấy bà đứng lù lù sau lưng. Tưởng
bà khen, ai ngờ bà lại la hoảng lên:
“Này cẩn
thận, khéo ngã thì khốn đó ông. Tối rồi, mắt mũi thấy gì đâu mà làm, vào ăn cơm
kẻo nguội.”
Ông nhất
định phải làm cho xong, chút nữa ông trượt chân khi với tay cột sợi giây cho
cái giàn mướp. Bà lại la hoảng lên :
“Tôi lạy
ông, ông chẳng làm gì nên thân cả. Lỡ ngã gãy chân, nằm một chỗ là chết cái
thân già này.”
Ông tự
ái:
“Bà cứ
hay ồn ào, không ngã mà nghe bà la hoảng cũng đủ giựt mình ngã gẫy cổ. Đàn bà
có thứ đâu ăn nói cứ toang toác lên.”
Bà đâu có toang toác. Bà lo cho ông đấy chứ, nhưng hai chữ “toang toác” lại làm bà ấm ách, mặt sưng lên, trông hệt một con khỉ. Tuy nói vậy, ông cũng vác cái thang cất vào nhà kho, rồi vào nhà ăn cơm. Trên chiếc kệ gỗ, đã thấy đóa hồng đỏ ông mua tặng bà được cắm vào chiếc ly thủy tinh. Ông tủm tỉm cười, đàn bà họ nói vậy mà không phải vậy, đóa hoa hồng bây giờ hình như đã tươi lên vì có nước …
Cũng không phải lúc nào họ cũng cãi nhau, và cũng không phải lúc nào ông với bà lại không có những giây phút êm đềm bên nhau khi lũ con đi vắng cả. Những câu chuyện họ trao đổi, nghe không ngọt ngào như hồi đôi mươi, nhưng đầy những lo lắng và băn khoăn cho nhau về sức khỏe cũng như những chuyện trong nhà, ngoài phố. Ông hay nhắc bà cần phải uống thêm thuốc bổ mỗi ngày, còn bà thì lo lắng về cái chân của ông dạo này đi đứng có phần thiếu ngay ngắn.
Nhưng
phiền nhất là mỗi lúc lái xe mà có bà bên cạnh lái phụ, nhắc nhở từng chi tiết
khi cái kim đồng hồ nhích lên nhích xuống, bởi vì bà không lái xe mà lái tài xế.
Cái này thực khổ cho ông, khi mắt phải chăm chú nhìn kính trước kính sau, miệng
bà thì ong óng nhắc nhở chạy nhanh chạy chậm, khiến đầu ông cứ hoảng lên suýt
tông vào xe người khác.Mỗi lần thấy đèn đỏ, ông lơ đãng còn để hồn đi đâu, bà lại
la ” ối! ối!” như nhà cháy. Ông quát vợ:
“Có câm
cái mồm đi không? Đi với bà có ngày chết mất ngáp. “Pô Lít” tôi không sợ mà sợ
cái miệng bà.”
Bà im một
tý rồi lại ấm ức:
“Đã lái
dở mà cứ chạy “len” giữa, lỡ muốn “ếch xít” thì sao?”
Ông hầm
hừ:
“Đường
nó nằm trong đầu tôi, lái “len” trong, lỡ trượt bánh xe là tông vào thành xi
măng, cũng giập đầu mà chết.”
Họ cứ cãi nhau loạn xạ như thế, nhất là khi ông mắt mũi kèm nhèm, không nhìn rõ bảng tên đường, định quẹo phải mà một tay Mỹ đen đã lù lù chặn ngay bên cạnh. Thế là “sảy một ly đi một dặm”. Họ đã có nhiều kinh nghiệm những lần đi lộn đường như vậy, rồi loanh quanh mãi tìm không ra lối về, đi lạc vào những khu lạ hoắc, chỉ mới hoàng hôn mà nghe như đã tối om om vì nỗi sợ dâng ngập lòng.
Bà còn
sợ nhất là tính nóng nảy của ông, khi bị một cái xe đằng sau cứ bóp còi “tin
tin” thúc hối, bởi ông bận nghĩ đâu đâu nên khi đèn xanh nhấp nháy vẫn chưa chịu
chạy. Rồi khi nó vượt qua mặt ông, bèn giơ ngón tay giữa ra để chọc tức. Mỗi
ngón tay là một biểu tượng cho ngôn ngữ, có xấu có tốt, nhưng ở trường hợp này
thì bà phải can ông đừng bắt chước kiểu trả lời thiếu văn hóa như thế, nhất là
lỡ gặp thằng có súng, thôi thì “một câu nhịn, chín câu lành” vậy. Hồi mới qua Mỹ,
chả hiểu “mô tê ” gì về thứ ngôn ngữ ngón tay như vậy, đang lóng ngóng tìm đường
đi thì đã thấy một cái đầu ở xe bên kia thò ra, giơ một ngón tay lên, ông lại
còn mỉm cười nói ” thank you” người bạn Mỹ tốt bụng, về nhà cứ thắc thỏm sao nó
biết mình đang tìm đường để chỉ.
Mỗi lần có dịp đi đâu với ông, phải lái trên “ree-way”, xe cộ lạng lách như điên khiến ông xoay trở đến nhức đầu, mồm luôn luôn rủa “đồ khốn nạn” bà lại bật cười. Hôm ấy trong lòng ông đời đầy những thằng khốn nạn, chúng nó đi đâu mà như ăn cướp, xã hội này khó lòng mà có hòa bình khi con người cứ xùng xục lên như vậy. Nghĩ cho cùng thì chả bao giờ hết chiến tranh, từ triệu năm trước tới ngàn năm sau, con người cứ sống rồi chết, chiến tranh rồi lại hòa bình, kẻ đi vào lòng đất người lại tiếp tục sinh ra. Gọi là nhân loại còn khổ, vì lòng người cứ xùng xục lên như nồi nước sôi.
Hôm nay
ông bà lại cãi nhau. Mặt bà sưng lên còn ông thì lừ lừ không nói năng. Họ đang
cằn nhằn nhau, hay là chỉ có bà hay cằn nhằn mà thôi. Bà nói dai như đỉa, mà lạ
thật, bà chỉ hay dai dẳng với ông thôi, chứ với người ngoài bà ngọt sớt. Chiến
tranh chỉ xảy ra giữa đôi vợ chồng già, khi ra ngoài bà hay đem hai chữ “bình
an” để tặng riêng cho thiên hạ.
Thế có
tức không chứ. Chuyện đâu có gì ghê gớm, chỉ vì hôm nay là ngày giỗ ông thân
sinh đẻ ra ông mà hai vợ chồng thằng con trai lại dẫn đứa cháu nội đi đâu từ
sáng sớm.Chúng nó quên cả ngày kỵ của ông cố, đến giờ này vẫn chưa dẫn cháu về
ăn giỗ. Ông bảo bà:
“Muốn
gì thì phải nói. Thời buổi này bận bù đầu bù cổ, có chút thì giờ chúng nó phải “enjoy”
với nhau, chúng nó làm sao nhớ được ngày gì ngoài ngày thứ bảy với chủ nhật.”
Bà chua
chát:
“Nhưng
ít ra thấy tôi sửa soạn bàn thờ, ngâm nếp đồ xôi, nói xa nói gần thì cũng phải
biết để cháu ở nhà đốt nhang cho ông bà chứ. Có thứ đâu lại cắp đít đi hết như
vậy.”
Ông
chép miệng:
“Ôi
dào! Không có chúng nó thì tôi với bà cứ bày ra cúng rồi cùng xơi với nhau,
càng ít người càng được ăn nhiều.”
Nhìn
căn nhà vắng vẻ, nấu nướng bày biện xong đã mệt ngất ngư mà con cháu chưa đứa
nào về, bà đâm tủi thân:
“Mai mốt,
tôi với ông chết đi chắc chẳng có ai đốt cho nén nhang, cứ thời buổi này thì chẳng
giỗ chạp làm gì cho mất công.”
Ông gật
gù:
“Ừ, mà
cũng chẳng cần phải chôn nữa cho chật đất. Tôi có chết cứ thiêu xong rồi đem
tro đổ xuống biển, chả phải gửi chùa chiền , nhà thờ cho mất công chúng nó một
năm đôi lần thăm viếng. Nằm dưới ấy lại mát. Còn không thì đem lên núi, trải ra
làm phân bón cho cây cỏ, không ích lợi hơn à?”
Nghe ông bình thản nói vui mà vẫn cứ ngậm ngùi. Mâm cơm cúng đã dọn lên, mùi trầm nhang nghi ngút. Bà đốt ba nén nhang cắm vào bát nhang trên bán thờ, miệng lâm râm khấn vái:
“Lạy
các cụ. Hôm nay ngày giỗ ông, mời các cụ về xơi bữa cơm với con cháu. Các cháu
bất hiếu cụ bỏ lỗi cho, thời buổi này chẳng giống hồi xưa. Các cụ “sống khôn chết
thiêng” về phù hộ cho cả nhà an vui, khỏe mạnh, gia đạo trong ấm ngoài êm. . .”
Nghe bà
khấn, ông vốn vui tính hay đùa, buột miệng:
“Các cụ
có phù hộ thì cứ phù hộ, còn việc hiện về xin miễn cho kẻo con cháu nó sợ”.
Đang buồn
trong bụng, bà đâm tức mình, quay sang vặc lên với ông:
“Ăn nói
rõ là ba lăng nhăng, ông đừng đùa với người khuất bóng mà mang tội. Các cụ nghe
được cả, đâu phải chỗ để ông đùa, bố thế hèn gì con cũng vậy. Tôi nói cho ông
biết, lát nữa dẫn nhau về đây tôi cho một trận . . . “
Ông
nhăn mặt:
“Thôi
xin can bà, bà chửi chúng nó các cụ cũng nghe, lần sau hoảng không dám về ăn giỗ
nữa. Ai lại mời các cụ về ăn giỗ, cầu vui cầu khỏe, gia đạo trong ấm ngoài êm
mà gia chủ mặt mũi nhăn nhăn như con khỉ già, tôi mà là các cụ tôi cũng “đấm”
vào. Bà cứ để tôi bảo chúng nó, “ngọt mật mới chết ruồi”, nhấm nha nhấm nhẳng
chỉ làm nó ghét mình hơn.”
Bà
ngang nghạnh trả miếng, bởi vì có mấy khi bà chịu thua ông:
“Không
phải ngọt với ai cả, nó là con chứ không phải bố mình, nói nặng còn chẳng nghe
ra, chứ nhẹ đã ăn thua gì.”
Thế là bữa cơm nấu nướng công phu đầy những món ngon bỗng lạnh ngắt vì chẳng ai muốn ăn, con gà ngậm đoá hoa hồng nằm trên điã xôi như đang sốt ruột chờ đợi. Ông bực mình nghĩ tới thằng con trai vô tâm không biết đến ngày giỗ ông nội mà bảo vợ ở nhà giúp mẹ chồng. Chúng nó đi đâu mà quên cả đường về, bọn trẻ bây giờ đều vô tâm thế cả, nếu cha mẹ mà không có lòng tha thứ và thông cảm, chắc chắn sẽ buồn giận suốt đời. Hóa cho nên hồi vợ chồng chúng nó mới lấy nhau, ông đã nghĩ đến chuyện ở riêng, để ai có tự do của người đó. Nhưng riêng thì riêng, nề nếp gia đình vẫn phải giữ.
Ông mặc
quần áo rồi bảo vợ:
“Tôi đi
đằng này một chút.”
Bà đang
ngồi buồn rầu nhìn mâm cỗ:
“Đi
đâu? Cơm canh dọn sẵn rồi cũng bỏ đi, đúng là “bố nào con nấy”.
Ông bực
mình, quát:
“Bà biết
tôi đi đâu mà đã toang toác. Tôi đi tìm chúng nó về để bà chửi, chứ ăn uống thế
này ngon lành gì mà ăn.”
Tự
nhiên giọng bà dịu xuống, ứa nước mắt:
“Thôi
ông ạ. Hai đứa kia đi học, đi làm xa, đến ngày giỗ nếu mình không nhắc cũng chẳng
đưá nào nhớ. Chỉ còn chúng nó ở với mình, khó lắm lại sinh tội ra, nó dọn đi
thì mất cả con lẫn cháu.”
Thấy bà
nói, ông bật cười, cái tính bà thì ông không lạ, chỉ chớp lên như lửa trời rồi
lại tắt đi ngay, lão thầy bói chả nói thế là gì. Ông nhìn vợ pha trò:
“Trông
mặt bà cứ y như “con khỉ già “trong sở thú.”
Bà cũng
nguýt yêu ông:
“Ngó ông cười thì khỉ cũng đẹp hơn. Răng cỏ chưa gì đã “sứt càng gẫy gọng”, cứ tưởng đẹp lắm đấy . . .”
Hai vợ
chồng già giống như “hai con khỉ” ngồi bắt chấy cho nhau. Họ cãi nhau luôn để rồi
vẫn thương nhau như thế đấy, ai có cười thì hở mười cái răng. Vậy mà hễ ông đi
làm về, thấy vắng bóng bà là vội đi tìm ngay, rồi khi thấy bà nằm lù lù một đống
trùm chăn kín mít, sờ vào chân vợ thấy lạnh ngắt, ông vội đi lấy dầu để bóp
chân cho vợ. Còn bà, hễ ông đi làm về muộn, bụng bà chưa gì đã rối tinh cả lên,
đi ra đi vào nhìn mãi cái kim đồng hồ. Chỉ khi nào nghe tiếng xe của ông đậu
ngoài “garage”, bà mới thở phào nhẹ nhõm, nhưng bụng lại bực “cái con khỉ già”
về muộn mà không nói qua cho bà biết, mặt bà lại sưng lên hệt một con khỉ. Chẳng
biết ai là khỉ, nhưng đấy chỉ là lối suy nghĩ thật âu yếm mà họ dành cho nhau ở
cái tuổi già mà thôi . . .
Bỗng
nghe tiếng xe ngừng ở ngoài sân, ông đứng bật dậy, vợ chồng thằng con đã dẫn
cháu về. Ông mở cửa đón cháu, thằng bé lên năm mặt mũi xinh xắn, chạy ào vào ôm
lấy cổ ông nội, nói bi bô:
“Thưa
ông nội cháu mới về.”
Thằng
cháu nói còn đả đớt, mặt nó hồng lên như hai quả đào. Ông ôm cháu vào lòng, âu
yếm hỏi:
“Cháu
ông đi đâu mà lâu thế? Hôm nay giỗ cụ, không về sớm mà ăn giỗ.”
Bây giờ
anh con trai mới lên tiếng:
“Chúng
con cho cháu đi sở thú. Nhớ ngày giỗ cụ muốn về sớm, nhưng thằng cháu ông nó
không chịu về, cứ đòi xem mãi.”
Ông vuốt
tóc cháu, hôn lên đôi má phính:
“Thế
cháu thấy con gì trong sở thú kể ông nghe với.”
Thằng
bé bây giờ mới sung sướng kể:
“Cháu
xem con khỉ con bú mẹ, xem hai con khỉ già cãi nhau.”
Ông bảo
cháu:
“Tưởng
gì! Ở nhà mình cũng có “hai con khỉ già” cãi nhau suốt ngày.”
Bà đang
đứng trong nhà nhìn ra, nghe ông nói, lườm ông một cái dài hơn cây số.
Nguyên Nhung
No comments:
Post a Comment