Pages
Monday, February 28, 2022
Bạn Thời Chơi Nhà Chòi - Nguyễn Văn Sâm
1.
Khi em đưa cái Thẻ Kiểm Tra, mình chưa đọc
tên đã biết ngay là em. Nhưng mình cứ làm tỉnh ngồi ôn lại những kỷ niệm ngày
xưa. Em thì tình thiệt không biết mình. Nhớ hồi nhỏ hai đứa cũng quyến luyến
nhau, dầu chưa tới mười tuổi. Em hay giận hờn khi thấy mình thân thiện với con
Bình khi cả bọn chơi nhảy cò cò. Mình cũng thấy ghét thằng Bé sứt môi khi thằng
nầy tỏ ra săn sóc hay nhường nhịn em. Thường thì mình xô đẩy thằng Bé, nhiều
khi còn cười ngạo cái bất hạnh của anh ta nữa. Nghĩ cũng kỳ cho tuổi trẻ ác tâm
và không biết suy nghĩ. Mình không ưa má em. Thím hỗn hào với chồng, Thím khinh
khi mọi người, tối ngày chỉ nằm dài ca hát nghêu ngao. Đàn ông thì kêu bằng
thằng cha tuốt: Thằng cha thầy giáo, thằng cha thầy chùa, thằng cha y tá, thằng
cha góp tiền đất. Đàn bà thì con hết thảy: Con mẹ Ba cho vay tiền ngày, con mẹ
Bảy Mập bán bánh mì, con mẹ vợ thằng cha Hiệu Trưởng, con mẹ Tư gánh nước mướn.
Chỉ có cậu Út là được thím nể nang và thân thiện một điều cậu Út, hai điều cậu
Út mà thôi.
Mình thích nhứt là được Chú Ba Huê chở vợ con
với lại mình đi ra An Lạc ăn cháo đầu cá lóc với rau đắng. Xe chật, ngồi dựa
hông vô nhau nghe hơi nóng của em truyền qua mình chắc đâu còn nhớ tới giờ.
Nhưng mà rau đắng họ trồng cả đám lớn bên hè, người ta đi đái vô đó tỉnh queo...
Ghê quá! Biết họ có rửa rau sạch không nữa! Mình cũng thích bữa nào chú Ba rủ
đánh cờ tướng với chú, khoái là được khen mình cao cờ. Khoái là em bị chú sai
lấy nước cho anh, khoái là em bận áo quần xích xác lòi cái ngực chưa nẩy nở mà
mình con nít quỷ ưa dòm vô đó kiếm kiếm điều gì mà mình tưởng tượng là rất lạ
lẫm. Hình như mình mê em sau cái lần cùng nhau chơi nhà chòi khi con Bình giận
bỏ về ngang mình phải thế chỗ. Em bắt mình làm con em làm má. Mình đòi làm
chồng em làm vợ. Em lưỡng lự cuối cùng rồi cũng đồng ý. Mình nói chồng thì nắm
tay vợ đi chợ. Em đỏ mặt rồi cũng rụt rè đưa tay cho nắm…
Sau khi thi đậu vô Đệ Thất mình bị bắt ở trọ
không gặp em nữa. Có về nhà vài ba lần nhưng đều mất tích biệt tăm.
Trời hơi chạng vạng. Xóm nhà lá khu Bà chủ
Phát đã lốm đốm lên đèn. Mùi cơm sôi, mùi cá kho hòa với mùi củi cành cây cao
su chưa khô cháy tươm dầu quyện lên trong không khí thành nét đặc trưng buổi
trời sắp tối của xóm. Chú ba Huê bẻ mạnh tay lái lách tránh mấy đứa nhỏ đương
mảy mê chơi trò Thiên Đàng Địa Ngục Hai Bên rồi quanh cua từ
từ chạy xe vô con đường nhỏ đầy bông bụp của sân nhà. Khi tiếng nổ lịch bịch
phát ra từ chiếc cần câu cơm của chú còn vang dội ở xóm nhà thằng Bé sứt môi
thì thằng Dần từ nhà dưới đã đi chậm chậm ra tới cửa buồng. Tay nó níu tấm ri-đô để
vạch ra một lỗ nhỏ nhìn coi chuyện gì sẽ xảy ra. Nó ngó lấm lét chú Huê trong
khi chú sửa lại cách đậu chiếc xe cho ngay ngắn. Trong nhà, vợ chú, má con Én,
trở mình trên cái giường tre nhưng cũng chưa chịu ngừng bài hát còn đương dang
dở. Thím tay cầm cuốn bài ca đưa thẳng trước mặt, cố lấy hơi hát lớn hơn bản
Vọng cổ trong tuồng Hạnh Nguyên Cống Hồ của thời xa xưa:
Nhìn dòng sông đen hắc,
Nhớ xứ thể cắt can trường.
Thầm suy trách thay vua Đường.
Xui nên dở dang chỉ hường.
Rồi thím chuyển giọng của con a hoàn, cũng
Vọng cổ lối thời năm nẳm gì đâu mà thím học theo trong dĩa hát Pathé:
Ghen ghét chi ông Tạo,
Để người phòng khuê phải hòa giặc Phiên.
Chú Ba Huê lòn tay xuống cái hộc dưới đệm
xe rút ra một gói giấy lấm tấm ướt mỡ thấm từ bên trong ra, thủng thẳng đi vô
nhà. Chú hỏi vợ liền như đã ôm trong lòng từ lâu lắm, sau khi ngó lướt qua vợ,
nhíu mày tỏ ý không bằng lòng chuyện gì đó:
‘Má con Én có nghe chuyện gì lạ trong xóm
sáng nay không vậy?’
Chị vợ lõ mắt ếch ngó chồng không trả lời,
một phút sau đủng đỉnh lồm cồm ngồi dậy. Cái áo cánh màu hồng điểm bông tấm li
ti gợi cảm của thím rộng cổ trễ tràng xệ rộng trước ngực. Chú nói mau:
‘Hồi sáng sớm, xe ra tới đầu ngõ tôi thấy
hai ông bị bắn đâu chừng hồi hai ba giờ khuya gì đó, máu miệng trào ra, còn ri
rỉ chảy chưa đông lại hết. Cả hai tướng tá coi nho nhã, trẻ măng, áo quần cũng
tươm tất lắm. Không biết phe nào. Tay bị trói thúc ké sau lưng. Tôi vái họ phò
hộ được đắt mối. Bây giờ giữ lời hứa, mua con gà quay về cúng.’
Mình cúng họ cũng phải. Có thể họ là người
của phe mình trước kia. Cũng có thể họ là những người bị phe mình trước kia
giết oan như bao nhiêu trường hợp mình từng chứng kiến. Bên nào thì cũng là
đồng bào. Bên nào thì họ cũng đã chết quá sớm, cuộc đời hưởng có bao nhiêu lâu
đâu. Tội nghiệp thì thôi!
Chị vợ phán thẳng băng làm cụt ý chồng:
‘Tưởng chuyện gì, chuyện bị xử bắn lén xảy
ra hà rầm. Thời buổi chiến tranh mà. Mình dân làm ăn thì đừng để ý tới chuyện
ai giết, ai bị giết cho mệt thân. Cúng kiến gì cho hao tiền. Họ có bà con gì mình
đâu nè!’
Chú Ba chống chế:
‘Thì cúng chút híu có tốn bao nhiêu đâu!
Bữa nay chạy được nhiều mối ngon. Được giá!’
Chị vợ xốc lại cái vai áo xệ, lầm bầm:
‘Muốn nhậu thì nói mẹ nó đi. Đừng qua mặt
con nầy. Bày đặt nầy nọ như là người tin thần tưởng thánh lắm. Hồi xưa ông quả
quyết là chẳng có linh hồn, không có thần thánh, cũng không có Địa Ngục Thiên
Đàng gì hết mà!’
Tuy không vừa ý với lời dè bỉu của vợ, Chú
Tư Huê cũng làm thinh không thèm trả lời trả vốn gì hết. Chú đặt gói gà lên bàn
nước, đi ra nhà sau lui cui soạn đem lên hai cái dĩa bàn thang, bày biện cúng
kiến. Vợ chú bây giờ mới đủng đỉnh bước xuống giường, miệng vẫn ỷ ê ỷ a mấy câu
ca một bài Tứ Đại Oán thảm sầu.
Bực mình chú Tư phê bình nhẹ nhàng:
‘Má con Én ca bản xưa không à! Đời bây giờ
người ta ca Vọng cổ tân thời sáu câu 32 nhịp theo cách của Bảy Cao, Thanh Tao,
Năm Phồi không ai còn ca kiểu xưa như kép Từ Anh, Tám Thưa hay cô Ba Soạn nữa
đâu.’
Chị vợ nổi hứng cất giọng thân mật:
‘Nghe chị ca Máu Nhuộm Phụng Hoàng
Cung nè em! Em mà phán là chị ca dở tối nay chị nhịn cơm cho em biết.’
Chú Tư ngó vợ bằng cặp mắt của người tình.
Và Má con Yến nói lối dài
trước khi vô giọng cổ xuống xề nghe ngọt lịm kiểu tài tử đẹp trai Năm Phồi.
Người chồng đưa tay bẹo má vợ. Thưởng.
Con Én, ở đâu chạy vô xem giữa hai người,
nó thở hào hển mà vẫn liếng thoắng:
‘Ba ơi, ba mét cho thằng Dần bị đòn nứt
đít đi ba. Đi đi ba, ông Huế về rồi đó!’
‘Chuyện gì mà dữ vậy?’ Tay chú xoa mạnh
đầu con, làm rối tóc con nhỏ, khiến nó xụ mặt.
‘Nó là con nít quỷ đó ba. Nó dòm nách má
rồi ra ngoài nói tùm lum tà la là má có lông nách dài.’ Con nhỏ vừa nói vừa chu
mỏ dài sọc.
Thím Tư bịt miệng con không kịp, thím đưa
mắt lừ con gái. Chú Tư lừ lại vợ mình:
‘Cũng không nên bận quần áo lôi thôi quá.
Nhà cửa trống hếch trước sau. Nít nhỏ chạy vô chạy ra hà rầm. Thằng Dần nói vậy
còn đỡ. Cậu Út nói vậy thì…’
Chú ngưng ngang vì thấy mình không nên
khơi sâu điều vợ không muốn nghe.
Con Én nắm tay ba nó giựt giựt:
‘Ba mét ông Huế để thằng Dần bị đòn nghe
Ba! Hôm bữa nó ăn hiếp con. Nó còn nói nữa lớn nó cưới con làm vợ rồi đánh nhừ
tử cho bỏ ghét. Đánh như ba thằng Bé sứt môi đánh vợ. Đánh như ba thằng Dần
đánh má nó đó.’
Cách vách, thằng Dần nghe hết mấy câu trao
đổi của người bên kia, nó nuốt nước miếng cái ựt như nuốt cơn giận lớn cành
hông.
Nhang được thắp lên. Chú Tư cắm ba cây lên
mình con gà. Chú rót nước vô mấy cái chén chun. Tự tay chú ra khạp gạo lấy một
nắm gạo bỏ lên cái dĩa nhỏ rồi trút muối lên kế bên. Chú nói với vợ:
‘Chết như vậy oan ức sẽ thành cô hồn, mình
phải rải muối gạo để vong linh họ đỡ tủi.’
Mình không chết là may! Đi theo họ có hai
năm mà xuýt chết mấy lần do Tây phục kích hay là xung phong công đồn mà phá
không thủng phải chém vè. Còn cái thằng Đại Đội Trưởng nữa, nhiều khi nó ngó
mình bằng cặp mắt quỷ như muốn ăn tươi nuốt sống vì mình can thiệp thả mấy
người dân biết rõ ràng là bị bắt oan. Cũng may mình rút kịp ra ngoài nầy. Ở lại
thì thấy ông bà ông vãi lâu rồi. Bởi vậy tội nghiệp hai người nầy quá chừng.
Chú thành kính rót rượu vô ba cái ly nhỏ
đặt ngang hàng trước con gà. Chú lâm râm vái.
Vợ chú vô buồng lấy áo bà ba bận tề chỉnh.
Thím cũng đốt ba cây nhang, xá xá rồi đem ra trước cửa xá trời. Thằng Dần ở
trong nhà dòm ra thấy hết cử chỉ của thím. Nó vái thầm trong bụng là ưng ai
thím nổi từ tâm bỏ qua chuyện đó, không cho chồng mét ba nó. Nó cũng tự hứa là nếu
được như vậy thì từ rày sẽ tử tế với con Én hơn, không ăn hiếp nó nữa. Và nó
đứng dựa cửa buồng, lim dim ngủ gà ngủ gục…
⁂
Bốn năm chiếc xe cảnh sát ngừng ở con
đường độc đạo trải đá, dựa bờ sông. Mỗi chiếc cách nhau chừng trăm thước, đủ để
trấn giữ cả khu yên hoa nổi tiếng bình dân hoạt động mấy năm nay. Khi máy xe
vừa tắt, khi những người cảnh sát nhảy xuống xếp hàng dài bắt đầu làm phận sự
thì hầu hết những ngọn đèn lờ mờ trong dãy nhà lụp xụp bên kia đường dựa bàu
nước đồng loạt tắt. Tiếng la ơi ới, tiếng kêu nhau ầm ĩ, tiếng chạy thình thịch
và tiếng ùm ọc, bì bõm của vài người nhảy xuống nước, lội trốn vang dội trong
đêm. Đàn ông từ những căn nhà tắt đèn đổ ra đường giả bộ thanh nhàn thơ thẩn
như người đi hóng gió sông. Đàn bà thì chẳng thấy ai. Mấy ghe thương hồ bật đèn
lên sáng một khúc sông, người trên ghe ra trước mũi ngồi hút thuốc bàn tán…
Sau một hồi bao vây và lục lọi, lính bắt
được vài chục gái, một số chịu trận trốn trong buồng, trong nhà tắm, trong cầu
tiêu bị lôi ra. Một số ôm cột xi măng dưới nước bị rọi đèn pin vô
mắt, ngoắc lên. Ướt loi ngoi, chậm chậm bước lên bờ cỏ.
Tiếng một mụ chủ chứa than với người lính
quen mặt:
‘Trời ơi, bộ mấy ông ghét dân Cầu Hàn lắm
sao mà suốt ba tuần liền tuần nào cũng bố. Điệu nầy tụi em chắc dọn đi chỗ khác
làm ăn chớ ở đây đói hết sao sống?’
Người lính trẻ cười hiền:
‘Thì kiếm nghề khác mà sống. Nghề nầy dơ
quá! Rồi mấy cổ lây bịnh tùm lum…’
Một má nuôi chõ mỏ vô:
‘Nói thì dễ thầy ơi. Bỏ nghề rồi biết làm
gì ăn đây. Với lại còn nhà cửa nữa. Sang lại cho ai rồi mua nhà mới ở đâu? Dính
ăn dính thua ráo nạo rồi. Thôi thì lỡ đâm lao phải theo lao thôi. Mấy thầy
thương thì nhờ ghét thì chịu.’
Người lính không muốn nghe tiếp, đưa
cây ba-trắc dang ra thẳng tay lùa từng tốp vô một căn nhà được
lấy làm Đại Bản Doanh tạm thời. Ai vô tới cửa cũng để lại Thẻ Kiểm Tra trên
bàn. Ai không có thì là giấy cớ mất kiểm tra, không có gì hết thì vô ngồi một
góc chờ tính sau.
Các cô gái, ái ngại ngó qua ngó lại những
người đồng cảnh rồi chiếu tướng người lính để đoán coi anh ta hiền hay dữ. Cô
nào mặc quần áo phong phanh thì quơ quào gì đó của bạn che chắn đỡ. Cô nào ướt
thì mượn nhờ khăn của bạn lau được chút nào hay chút nấy. Áo ướt, dính vô da
thịt, phơi bày khiến nhiều cô mắc cỡ co ro hay lấy tay che ngực, mặt bí xị như
giẻ rách.
Có tiếng cười diễu, hơi lớn:
‘Tới nước nầy mà còn e lệ gì nữa! Bộ chưa
từng cho ai coi sao mà che.’ Cả bọn cười ồ, không khí buồn bã sợ sệt hình như
đã bớt chút đỉnh.
Người lính trẻ ngồi trước bàn để đống Thẻ
Kiểm Tra buồn tình giở ra coi từng thẻ. Bỗng anh sửa lại thế ngồi, chăm chỉ ngó
vô tấm thẻ cầm trên tay nãy giờ, đọc lại lần nữa rồi ngước mặt lên với đám
đông. Anh đọc tên người mang thẻ và kêu lên ngồi trước mặt để hỏi chuyện:
‘Cô tên nầy? Hay là mượn thẻ của ai? Sao
không giống hình trong thẻ?’
‘Dạ thẻ của em. Em là Hồng thị Én! Ai ở
đây cũng đều biết là thẻ của em.’
‘Cô lúc nhỏ ở khu Vườn Lài?’
‘Sao thầy biết?’
‘Nghiệp vụ mà. Chúng tôi có cách riêng.’
‘Đâu cô nói về thời gian lúc nhỏ của cô ở
đó rồi tại sao cô đi khỏi xóm. Làm gì để sống. Có vô Khu không
mà bỏ đi bí mật vậy?’
Cô gái lấm lét ngó vô mặt người đối thoại:
‘Thầy đừng nói vậy tội nghiệp em. Làm gái
ở đây đã khổ lắm rồi. Mắc vô cái tội đi Khu có mà chết.’
‘Cô nói đi! Tại sao ba cô bị bắt!’
‘Ba em nói sao thì em nói lại với thầy.
Bữa đó có người mang một gói gì đó, ông ta nói là trái cây người bà con ở Cai
Lậy biếu khi đi thăm. Ổng đi xe ba em. Sợ trái cây dập, mà ôm thì mỏi tay, ông
ta kêu ba em mở thùng xe dưới chỗ ngồi, bỏ vô, ông ta ngồi trên cho dễ dàng
thoải mái. Chạy gần tới một chốt xét xe vừa mới được dựng lên, ông ta nhảy
xuống băng qua đường lẻn vô hẻm, xe ba em bị chận lại xét. Có chứa lựu đạn. Ông
bị giam mấy tháng, sau họ thấy tình ngay lý gian nên thả ra.’
‘Chuyện nầy thì chúng tôi biết rồi.’ Người
lính mặt lạnh như tiền trả lời rồi lơ đãng ngó ra ngoài sân. Lính tráng vẫn láo
nháo với một số người vừa bị bắt thêm khi trốn trong những nhà có cửa bí mật.
Khách thương hồ trên ghe được dịp đứng lên chỉ chỏ, cười nói.
‘…Má em lúc ba em bị tù có lùm xùm sao đó
với Cậu Út cháu nội bà chủ Phát nên bị bà ấy chưởi mắng thậm tệ. Má mắc cỡ bỏ
nhà đi. Em ở đó vài ba ngày thì bà Ngoại lên đem về Trà Ôn sống với ngoại… Khi
ba được thả về và mướn được nhà kha khá thì xuống dưới đó đem em lên Sàigòn. Em
chưa bao giờ gặp lại má. Bả đi biệt từ đó. Có thể là đi theo gánh hát cải lương
như đã tuyên bố nhiều lần khi còn ở với ba em.’
‘Xin lỗi. Cô đưa bóp cho
tôi xét giấy tờ. Coi có gì khả nghi không.’
Cô gái rụt rè đưa cái bóp cầm
tay cho người lính. Coi đẹp mà chẳng có bao nhiêu tiền trong đó. Cô gái chăm
chăm ngó từng cử chỉ của người cảnh sát. Coi bộ hơi mắc cỡ vì mình nghèo. Người
lính lục từng ngăn một hồi rồi rút ra một tấm hình. Một người đàn ông ốm yếu,
mình trần môi sứt lòi răng dưới lỗ mũi bên trái, tay anh ẵm đứa con gái chừng
ba tuổi coi bộ cũng tong teo. Cả hai chụp hình mà không vui.
Cô gái nhìn cử chỉ của người lính. Cô nhín
mày suy nghĩ.
‘Anh chàng sứt môi nầy là chồng cô?’
‘Dạ ảnh tên Bé! Mà bây giờ ảnh hết sứt môi
rồi. Năm ngoái có tàu Bịnh Viện Hoa Kỳ ghé Bến Tàu vá môi cho ảnh. Lúc nhỏ em
và bạn em ăn hiếp ảnh hoài. Nhưng bạn em lên học trường Petrus Ký rồi ở trọ gần
đó luôn em không bao giờ gặp nữa.’ Cô vừa nói vừa quan sát sự biến đổi sắc mặt
người đối thoại. Người lính cảnh sát vẫn lạnh lùng, nghiêm trang như từ trước
tới giờ.
‘…Em về thăm chỗ cũ vài ba lần, không gặp
người quen nào ngoài anh Bé rồi hai đứa nghèo khổ dựa nhau mà sống. Thầy coi,
có còn quen ai đâu?’
Người trước mặt bây giờ mới nhếch mép cười:
‘Chú ba Huê lúc nầy còn chạy xích lô máy
không?’
Người con gái trả lời như máy:
‘Dạ còn! Nghề nghiệp bao nhiêu năm biết
làm gì ăn?’
‘Anh Bé có đánh vợ như ba ảnh không?’
Người con gái hai mắt sáng lên. Cô đưa tay
lấy lại tấm hình, tự tiện bỏ vô bóp, không trả lời thẳng câu hỏi mà
tuôn ra tràng tâm sự dài.
‘Lúc nhỏ em có người bạn cùng lứa, chơi
với nhau thân mật lắm. Lớn lên cũng mong gặp ảnh để được làm vợ ảnh, để được
ảnh đánh mà không bao giờ gặp. Tới bây giờ nếu có gặp lại nhau thì cũng lỡ làng
rồi. Chẳng có duyên số với nhau thì dành chịu. Chịu thua ông Trời chơi ác!’
Người lính trả Thẻ Kiểm Tra cho đương sự,
nói lớn với người bạn lính khác mới vừa bước vô:
‘Anh coi giùm mấy cô nầy, tôi phải hướng
dẫn cái cô nầy đi cầu, cổ đau bụng máu mà không dám đi một mình.’ Anh nheo mắt
với bạn.
Cô gái năn nỉ nho nhỏ nhưng giọng đã có
hơi dạn dĩ:
‘Cho con bạn em theo với. Nó mới có 17
tuổi thôi, bị gạt bán vô động cả tháng rồi. Hồi vô nó còn gin. Tiếc
thân nó khóc hoài.’
Cả ba bước ra cửa, đi về vùng bóng tối
phía xa xa.
Một lúc sau anh lính một mình về lại căn nhà làm Tổng Hành Dinh cuộc ruồng bố. Người bạn ngó anh gật đầu. Anh nheo mắt và mỉm cười nói nhỏ: ‘Bạn thời chơi nhà chòi.’
Victorville,
CA, 20 April 2019
Nguyễn Văn Sâm
Tôi Là Người Nước Nào ?! - Đỗ Chiêu Đức
Dĩ nhiên, tôi là Đỗ Chiêu Đức, được sanh ra ở xã Thường Thạnh và lớn lên ở xã Thường Thạnh Đông, chợ vườn chồm hổm ở Cái Chanh, 5 giờ sáng nhóm đến khoảng 9-10 giờ sáng thì tan chợ. Cái Chanh cách Thị Trấn Cái Răng khoảng 5 cây số đường đất với cầu ván đóng đinh cũng có, mà cầu tre lắt lẻo cũng nhiều, như câu hát ru em mà tôi thường nghe :
Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi....
Nên mặc dù là người Việt gốc Hoa (Triều Châu), tôi chỉ biết gọi Cha Mẹ Anh Chị bằng Pá Má Hia Chế và các từ thông dụng như Ăn cơm, ăn cháo là " Chìa bừng, chìa múi..." ra, thì toàn bộ sinh hoạt gia đình đều bằng tiếng Việt của Nam kỳ Lục Tỉnh. 7 tuổi vào trường làng học lớp Đồng Ấu, học đánh vần với quyển Con Gà Con Chó, với các thành ngữ sau khi đã qua vần ngược là :
* Dùi đánh đục, đục đánh săng.
* Ách giữa đàng , mang vào cổ.
* Ăn bữa giỗ, lổ bữa cày.
* Đặng buồng nầy, xây buồng nọ.
* Ăn thì có, ó thì không...
Tôi lại nổi tiếng đánh Cờ Nhào giỏi nhất đám con nít ở Cái
Chanh. Một hôm, có Bác Ba ở xóm Ông Cò Nhỏ nghe tiếng tôi tìm đến đánh thử, Bác
ghìm với tôi chừng nửa tiếng đồng hồ, rồi cũng bị tôi lừa thế nhào đôi một cái,
bác chỉ còn có 8 con cờ, đang tìm cách gở gạt, đi lầm một nước, tôi lại được
dịp nhào ba, còn có 5 con cờ thua là cái chắc. Bác Ba xô bàn cờ đứng dậy, xoa
đầu tôi và khen : " Con Tùa Hia thông minh thiệt !". Tôi nổi tiếng
" thông minh" từ đó ! 10 tuổi ( 1958) ra chợ Cái Răng học chữ Hoa,
cậu tôi mới dạy cho tôi đánh cờ Tướng, và câu chuyện bắt đầu từ đây...
Trước 10 tuổi, lớn lên và học chữ Việt ở xã Thường Thạnh Đông,
chợ Cái Chanh. Tôi là một đứa bé nông thôn nhà quê Việt Nam thuần túy. Khi ra đến
Thị Trấn Cái Răng học chữ Hoa ở Trường Tiểu học Tân Triều của người Hoa sáng
lập, tôi mới thấy được chiếc xe hơi Traction chạy đưa khách từ Cái Răng đi Cần
Thơ, phố xá nhà lầu hai ba từng, và điều làm tôi ngạc nhiên nhất là một hôm
đang trên đường đi tới trường, thì có mấy đứa nhỏ cũng đi học ở một trường Việt
gần đó, chỉ trỏ và nói rằng : Mấy đứa "Ba Tàu" giàu hơn mình, đi học
phải mang giày, còn mình thì đi chân không thôi ! Tôi không biết "Ba
Tàu" là gì, nhưng rồi cũng phải biết, vì 2 tiếng "Ba Tàu" nầy
theo tôi suốt thời gian niên thiếu, như khi chuyển sang học luyện thi bằng Tiểu
Học ba tháng, lớp tôi 11 đứa đậu được 10 đứa, thì các bạn ở trường Việt lại
khen : Mấy đứa "Ba Tàu" nầy giỏi thiệt. Một tháng sau, tôi đậu luôn
vào Đệ Thất của trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, thì lại nghe : Cái
thằng "Ba Tàu" đó giỏi qúa ! Hai năm sau (1964), tôi đi thi ẩu ... và
đậu luôn bằng Trung Học Đệ Nhấp Cấp. Mấy anh học Đệ Tứ thi rớt lại mĩa mai một
cách thán phục : Cái thằng "Ba Tàu" đó mới học Đệ Lục mà, sao mà đậu
bằng Trung Học được ?!
16 tuổi (1964), Tôi và ông bạn Liêu Chương Cầu lên Chợ Lớn làm
lao công trong trường Phước Đức ở số 226 đường Khổng Tử (nay là trường Trần Bội
Cơ). Chợ Lớn là nơi kinh doanh buôn bán của người Quảng Đông, cả người Việt vào
Chợ Lớn buôn bán cũng biết nói tiếng Quảng Đông. Tôi là người Tiều Châu, tiếng
Tiều còn nói không rành, làm sao biết tiếng Quảng Đông mà nói. Tôi và ông bạn
Cầu chỉ lỏm bỏm được vài câu Quan Thoại cà chật cà vuột, nên nhiều khi văn
phòng hoặc thầy cô giáo sai biểu hoặc nhờ cậy điều gì, phải nói tới nói lui mấy
lần hoặc phải ra dấu thì mới hiểu được, nên các thầy bà đó gọi chúng tôi là
"Ón Nàm Chẩy 安南仔" (tiếng Quảng Đông có nghĩa là "Thằng
An Nam"). Và không chỉ ở trong trường, đi mua đồ, hay đi ăn cơm ở các sạp
cơm bình dân, vì đang tập nói tiếng Quảng Đông nên phát âm không chuẩn, họ vẫn
gọi chúng tôi là "Ón Nàm Chẩy" như thường.
50 tuổi (1998), định cư ở Mỹ, rồi phải chạy theo cuộc sống ở đây, đâu có thời giờ để mà đi học tiếng Anh. 56 tuổi (2004) nhập quốc tịch Mỹ, nhưng nói chuyện với Mỹ vẫn "mõi tay" như thường ! Và mấy người Mỹ làm chung ở trường học vẫn gọi tôi bằng Vietnamese mặc dù tôi đã là công dân Hoa Kỳ rồi, nghĩ có tức không ?! Nhưng nếu nói mình là người Mỹ, thì mình có nói rành tiếng Mỹ đâu mà câu mâu !? Nhưng, đây cũng là một điều bất công rất tự nhiên trên nước Mỹ : Người Đức, Người Ý, Người Pháp, người Anh... nói chung là người da trắng, khi nhập tịch Mỹ là thành ngay Mỹ Trắng. Người Châu Phi bất kể nước nào, nhập tịch Mỹ, thì thành Mỹ Đen. Nhưng người "da vàng mũi tẹt" nhập tịch Mỹ, không có ai gọi là "Mỹ Vàng" cả ! Ngay cả người da vàng với nhau, gặp nhau cũng hỏi : where do you come from ?( Bạn từ đâu đến đây ?) Ý muốn hỏi, bạn là người đến từ Đài Loan, Nhựt Bổn, Việt Nam, Đại Hàn, Phi Luật Tân...
Dưới 10 tuổi ở Cái Chanh, tôi là em bé quê Việt Nam, khi ra đến chợ Cái Răng thì thành "Ba Tàu", lên đến Chợ Lớn thì lại thành "Ón Nàm Chẩy". Qua đến Mỹ, mặc dù đã nhập tịch rồi vẫn bị gọi là Vietnamese !!! Việt Nam chê, gọi tôi là "Ba Tàu", nhưng họ chưa chắc đã giỏi tiếng Việt bằng tôi. Cũng như Tàu chê tôi, gọi tôi là "Thằng An Nam", nhưng họ cũng đâu có giỏi tiếng Tàu bằng tôi đâu ! Chỉ có Mỹ chê, gọi tôi là Vietnamese thì tôi chịu, vì tôi nói tiếng Mỹ rất " mõi tay". Rốt cuộc, Đỗ Chiêu Đức là người gì đây ?!
Nhờ các tiền bối, thân hữu "xử" dùm xem, Đỗ Chiêu Đức là người nước nào ? ( Chinese, Vietnamese or American ?)
Nay kính,
Đỗ Chiêu Đức
TB: Hỏi chơi thôi ! Chớ tôi là người Việt Nam chính hiệu mà ! Sanh ra và lớn lên ở VN, nơi chôn nhau cắt rún là VN, mồ mả ông bà tổ tiên ở VN, cha mẹ còn ở VN, anh em con cháu còn ở VN ... Chỉ có cái "gốc Hoa" mà thôi ! Mà đã là "gốc" thì mình đâu có chọn lựa được ! Qua Mỹ 20 năm (1998-2018) tôi không có về thăm "gốc" lần nào cả, vì có biết ai bên đó đâu mà "thăm", có thăm thì cũng có ai biết mình là ai đâu mà "viếng"! Nhưng, tôi lại về VN đến 10 lần, cứ chắc mót 2 năm đủ tiền mua vé máy bay là vợ chồng tôi lại bay về VN thăm Cha Mẹ, em út, con cháu và bà con cô bác .... Đặc biệt năm 2013 về VN đến 2 lần vì Ba tôi mất ... Không phải chỉ riêng tôi, mà tất cả người Việt gốc Hoa đều như thế cả ! Về thăm Trung Quốc chỉ là để du lịch khi dư dả, còn về thăm thân nhân ở VN mới là chánh ...
Người Hoa ở VN cho con cái học tiếng Hoa vì sợ mất gốc, cũng giống như người Việt Nam chúng ta hiện nay ở Mỹ cho con cái học tiếng Việt Nam cũng chỉ vì sợ mất gốc mà thôi !
Hỡi ôi ! Buồn thay cho " Cái thứ Ba Tàu !"
Đỗ Chiêu Đức
Tại Sao Ukraine Lại Quan Trọng?
Sunday, February 27, 2022
Ngày Xuân Phiếm Luận Chữ Đồ - Trần Thị Nhật Hưng
Phóng tác theo ý tưởng
của cụ Đồ Gàn
Trong “Phiếm Luận Về
Chữ Đồ” của cụ Đồ Gàn, theo cụ, trong tiếng Việt không có chữ nào có nhiều
nghĩa và nhiều ứng dụng bằng chữ “Đồ.” Chữ này chiếm một địa bàn rộng lớn vì nó
được dùng để chỉ tất cả những dụng cụ tiện nghi mà con người sáng tạo ra để đáp
ứng đời sống vật chất cho chính mình. Ví dụ như: Cái bàn, cái tủ, cái giường,
cái ghế là… đồ đạc trong nhà. Cái cày, cái cuốc, cái xẻng là… đồ làm vườn, làm
ruộng. Cây súng, lưỡi gươm, cung nỏ là… đồ binh khí. Con búp bê, trái banh, cỗ
bài là… đồ chơi.
Cụ Đồ Gàn còn cho
rằng, ngay đến những giai đoạn văn minh loài người cũng được mệnh danh qua chất
liệu của đồ dùng chẳng hạn thời đại đồ đá, đồ đồng. Sở thích con người cũng đa
dạng qua các món đồ: Đồ sứ, đồ vàng, đồ cổ… sưu tầm cả đồ phế thải.
Chữ đồ trong phạm vi
ẩm thực thì có đồ ăn, đồ uống. Qua đó sở thích của con người cũng khác nhau. Có
người thích đồ Tàu, kẻ thích đồ Tây, nhiều người chỉ muốn thưởng thức cây nhà
lá vườn từ đồ Ta của ta thôi, nhưng tựu trung thì ai ai cũng chỉ thích ăn đồ
nóng, uống đồ lạnh. Gấp quá, lười, hay không có thời gian nấu thì tạm thời ăn
đồ nguội. Muốn dự trữ phòng bão lụt, chiến tranh thì dùng đồ khô. Rồi trong món
ăn kẻ thích đồ cay, người thích đồ mát. Không muốn nấu chín thì ăn đồ sống.
Thích nhậu thì ngoài bia, rượu còn có đồ nhắm mà khoái khẩu nhất phải kể là
nhắm với đồ biển (hải sản).
Chữ đồ còn được dùng
trong lãnh vực y phục. Khi ra ngoài, không ai phô trương đồ lót hay đồ cộc, mà
phải mặc đồ tề chỉnh còn gọi là đóng đồ vía, có kẻ muốn lập dị còn chơi kiểu đồ
quái dị nữa. Ngoài ra, đồ trang sức cũng không kém phần quan trọng, cần có để
tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài. Khi chưng diện tiệc tùng xong, về nhà, bao đồ dơ
đem bỏ máy giặt.
Ý nghĩa chữ đồ, không
giới hạn ở thiết bị, ẩm thực hay nói chung vật dụng vô tri mà còn tiến lên bình
diện con người. Người mổ heo thì gọi đồ tể, kẻ dạy học thì gọi thầy đồ, ông đồ
hay cụ đồ. Tuy nhiên khi dùng chữ đồ nói về con người, thường hàm ý xấu. Không
ai nói đồ tử tế, đồ thánh hiền, đồ đạo đức, đồ quân tử, đồ tốt bụng, đồ hiền
lương hay đồ thủy chung mà chỉ nghe khi chửi nhau, thiên hạ ong óng lên, mày là
đồ ba que, đồ xỏ lá, đồ sở khanh, đồ quạ mổ, đồ mất dạy, đồ khốn nạn, đồ lưu
manh, đồ tiểu nhân, đồ chó đẻ, đồ dị hợm, đồ đểu cáng, đồ ba nhe, đồ mất nết,
đồ mọi rợ, đồ phải gió, đồ nham nhở, đồ thối tha, đồ ăn cướp, đồ trộm cắp, đồ
bê bối, đồ phản động, đồ phản quốc, đồ ác ôn, đồ nhỏ nhen, đồ bần tiện, đồ bủn
xỉn, đồ bất nhân, đồ bất hiếu, đồ bất nghĩa, đồ hết thuốc chữa, đồ… đồ… đồ…
Trời đất! Sao trong văn học Việt Nam lắm câu chửi thế. Hèn gì, lời tốt lành
dành cho nhau thì quá khan hiếm nên khiến đất nước ta chiến tranh, đau khổ
triền miên. Lời thị phi nhân ngãi cũng phát sinh tràn lan đến nỗi nhà văn Võ
Hồng đã thốt lên:
“Thiên hạ luôn bủn xỉn
lời khen mà hào phóng lời chê bai, chỉ trích…” Hà!
Một nghĩa tự đồ thường
thấy nữa liên quan đến khái niệm giáo dục chỉ về học đường, người ta thường
nghe nhóm chữ quen thuộc đồ đệ, tông đồ, môn đồ, cao đồ. Từ khi còn bé ai cũng
được học vẽ bản đồ, địa đồ. Lớn hơn một chút, qua các môn khoa học lý thuyết
hay thực hành thì học đồ thị, đồ biểu, thiên văn đồ, sơ đồ, giản đồ, lược đồ,
họa đồ. Khi đã học hết mọi thứ, những học trò giỏi trưởng thành có ý chí vươn
lên trong quá trình học tập thường vạch ra cho mình những đồ án để thực hiện
làm nên cơ đồ vẽ vang. Nhưng để ám chỉ những học trò hư hỏng, luôn có những ý
đồ, mưu đồ không tốt, đã không làm nên trò trống gì cả còn phản thầy thì người
đời gọi là đồ nghịch tử hay loạn đồ.
Nói chung chữ đồ theo
cụ Đồ Gàn không chỉ rất nhiều nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa đen như tôi vừa trình
bày ở trên, mà nó còn góp phần đánh dấu từng giai đoạn lịch sử và văn hóa nước
ta qua các bài thơ, phú, ca dao, hát nói.. v..v… Chẳng hạn qua bài:
Thầy đồ
Thầy Đồ là người tài
bộ
Quẩy cầm thư sang giáo
thọ phủ Vĩnh Tường
Trước nha môn thiết
lập học đường
Trò dăm đứa “chi, hồ,
dã, giả…
Một hôm thầy Đồ nhàn
hạ
Đồ ra hồ xem ả hái hoa
Ả hớ hênh ả để đồ ra
Đồ thấy đồ ngâm nga
tức khắc
Xuân tiền lạn mạn hoa
sinh sắc
Thủy diện vi mang bạng
thổ thần
Đồ ngâm rồi, đồ đứng
tần ngần
Đồ nọ tưởng đồ kia
thêm thắc mắc
Đêm năm canh Đồ nằm
khôn nhắp
Những mơ màng Đồ nọ
tưởng đồ kia
Đồ ơi, gặp gỡ làm chi!
(Khuyết danh)
Chúng ta hình dung
được phần nào về chiếc váy rất thuận lợi với khí hậu nóng bức vùng nhiệt đới và
sinh hoạt đồng áng, trồng lúa, tát nước nhưng vô cùng hấp dẫn khêu gợi (nếu hớ
hênh) cách trang phục của phụ nữ Việt Nam thời xưa đơn giản chỉ bằng mảnh vải
quấn thân hoặc khâu kín thành ống mà trong dân gian đã ví von với niềm tự hào,
hãnh diện về bản sắc văn hóa của dân tộc:
Cái ống mà thủng hai
đầu
Bên ta thì có bên Tàu
thì không.
Rồi cũng từ tự đồ,
chúng ta nhìn lại lịch sử của dân tộc, trải bao năm bị đô hộ: Hết Tàu, Tây,
cộng sản, chữ đồ đã được dùng trong một cuộc đối thoại để thấy tinh thần đấu
tranh bất khuất của dân ta thể hiện dưới mọi hình thức, ở mọi từng lớp chống
bọn ỷ thế phương Bắc, bọn cường quyền xâm lược một cách tài tình thâm thúy.
Một Đoàn Thị Điểm giả
cô hàng nước đón tiếp sứ Tàu, đã dùng tài năng văn học đối đáp bén nhạy khi sứ
Tàu đọc câu:
Nam bang nhất thốn
thổ, bất tri kỷ nhân canh.
(An Nam một tấc đất
không biết bao nhiêu người cày) có ý xấc xược, chòng ghẹo.
Bằng lời lẽ nghiêm
trang, tác phong lịch sự, bà đáp ngay rằng:
Bắc quốc đại trượng
phu, giai do thử đồ xuất.
(Đại trượng phu nước
Tàu cũng từ chỗ đó mà ra) đã khiến bọn ỷ thế phương Bắc khâm phục nước ta về
mọi phương diện.
Tuy nhiên trong cuộc
sống, bên cạnh các anh tài hào kiệt, vẫn không thiếu những bọn hèn nhát dù là
bậc khoa bảng, muối mặt làm tay sai cho kẻ thù của dân tộc để cụ Nguyễn Khuyến
vào thời Pháp thuộc đã phải than lên trong bài:
Ông Nghè Tháng
Tám
Cũng cờ cũng biển cũng
cân đai
Cũng gọi ông nghè chứ
kém ai
Mảnh giấy làm nên khoa
giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt
anh tài
Tấm thân xiêm áo coi
mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy
mới hời
Ghế chéo, lọng xanh
ngồi bảnh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa
đồ chơi.
Nhìn chung, những kinh
nghiệm đau thương đó, mãi đến nay vẫn chưa thức tỉnh được mọi người luôn luôn
đắm chìm trong đau khổ, hết bị dày xéo bởi Tàu, Tây, Nhật, nay còn quằn quại
dưới ách thống trị của cộng sản. Một lần nữa, chúng ta không quên được những biến
cố xảy ra tại miền Bắc vào thập niên 50 đã phá hủy mọi truyền thống văn hóa dân
tộc khi cộng sản du nhập lối sinh hoạt nhảy múa loạn cào cào “son, đố, mì” từ
quan thầy Mao Trạch Đông lôi kéo thanh thiếu niên thoát ly khỏi hệ thống nề nếp
gia đình đã khiến vô số chị em phụ nữ là nạn nhân của những vụ chửa hoang rồi
tự tử để lại trong nhân gian những câu chửi rủa chế độ:
Đồ mi là đồ phá đồ!
(Nhại theo nốt nhạc
của điệu nhảy múa trên).
Hoặc:
Người ta vì nước vì
non
Cô ta lại chết vì
“son, đố, mì.”
Thêm vào đó, gần đây
nhất, biến cố 30.4.75, cộng sản thôn tính miền Nam đưa cả nước vào thảm trạng
nghèo đói. Người dân thắt lưng buộc bụng chỉ trông ngóng vào những thùng quà từ
nước ngoài do thân nhân vượt biên gởi về. Trong giai đoạn nghiệt ngã của chính
trị và kinh tế như vậy, những bài ca dao phát xuất từ văn chương bình dân là
bằng chứng hùng hồn nhất để tố cáo chế độ, một sự phản kháng âm thầm nhưng mạnh
mẽ, đã in sâu, truyền bá rộng rãi trong tâm khảm của mọi người. Mới nghe qua,
tưởng là những bài tiếu lâm thông thường, nhưng nếu đọc kỹ, xét kỹ ta mới thấy
được thảm trạng đắng cay cười ra nước mắt của thời đại:
Hôm qua anh đến thành
Hồ
Anh ra bưu điện lãnh
đồ em cho
Đồ em vừa đẹp, vừa to
Vừa đã con mắt, vừa no
cái mồm.
Trước tình cảnh đó,
cộng thêm bài học chua cay từ sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội của Đông Âu và Liên
Xô, người cộng sản Việt Nam buộc lòng phải thay đổi chính sách để cứu vãn chế
độ. Gọng kèm được nới ra. Đô la tư bản đầu tư ồ ạt tuôn vào giúp nền kinh tế Việt
Nam có đà phát triển nhưng cùng lúc tệ nạn xã hội vốn dĩ đã trầm trọng lại càng
trầm trọng hơn. Ngành giáo dục bị tuột dốc, trường học, nhà thương thì khan
hiếm, thay vào đó, khách sạn, nhà chứa, ăn chơi đàng điếm tham nhũng trồi lên
như nấm. Cái vẻ phồn vinh giả tạo của nền “kinh tế thị trường theo định hướng
Xã Hội Chủ Nghĩa” chỉ là cái vỏ ốc bóng loáng không còn ruột được trưng bày
trong tủ kiếng hay như một khúc gỗ mục bị mối mọt đục khoét được sơn son thép
vàng. Ca dao lại có dịp cười lên ha hả:
Đi chơi cho biết Đồ
Sơn
Đi rồi mới biết không
hơn đồ nhà
Đồ nhà tuy có hơi già
Nhưng là đồ thật hơn
là Đồ Sơn!
(“Đồ Sơn” là một thắng
cảnh ở miền Bắc).
Thôi, xin phép các bạn
được ngừng tại đây.
Trân trọng kính chào
quí vị. Thân chúc quý vị một năm mới:
Sức khỏe dồi dào
An khang thịnh vượng
Vạn sự như ý.
Trần Thị Nhật Hưng