Pages

Trên Chuyến Tàu Cuối Năm - Trần Thế Phong

Cuối năm đó, tôi mua vé tàu lửa về quê thăm mẹ. (Hình minh hoạ: Báo Phụ Nữ)

 

Năm 1980 tôi được “xá chế,” nhớ mẹ quá chừng mà không có tiền về thăm, tôi bán hai quyển sách cho mấy người buôn sách cũ trên đường Cách Mạng Tháng Tám (Lê văn Duyệt). Một cuốn là “Chiến Hữu” của E.M Remarque, một cuốn “Nạn Nhân Buổi Giao Thời” của Pearl Buck được ba chục đồng. Tôi mượn thằng bạn thân 20 đồng, chị hai gởi 30 đồng là 80 đồng. Cuối năm đó, tôi mua vé tàu lửa về quê thăm mẹ. Biết là không đủ tiền cho chuyến đi và về, nhưng cứ về gặp mẹ rồi hãy tính sau.

Bốn giờ sáng vợ chở xuống ga Bình Triệu mua vé tàu nhanh để về Đà Nẵng. Tàu nhanh chạy ba đoạn: Từ ga Bình Triệu ra Nha Trang, Nha Trang ra Quy Nhơn và Quy Nhơn ra Đà Nẵng. Nói là tàu nhanh nhưng chạy chậm như rùa, cũng ngừng những ga nhỏ để đón khách và chở hàng hóa.

Lấn vào sắp hàng mua được tấm vé rất trần ai, vì cuối năm bà con trở về quê quán ăn Tết và người đi buôn hàng chuyến từ Sài Gòn ra miền trung tấp nập… Mua được vé rồi mà lên tàu tìm chỗ ngồi lại càng khó hơn, vì trên ghế ngồi, lối đi chất đầy hàng hóa. Có lẽ kiểm soát viên trên tàu và những người đi buôn ăn chia nên những người đi buôn xem thường hành khách, chỗ nào trống là chất hàng. Tàu chạy khoảng mười phút thì những hàng hóa để trên ghế được sắp xếp vào dưới ghế nên hành khách có chỗ ngồi.

Lo lắng cho chuyên đi, và gặp mẹ sau bao năm xa cách nên cả đêm tôi không ngủ được. Lên tàu vợ dặn cố gắng ngủ cho lại sức. Có chỗ ngồi, tôi cố dỗ giấc ngủ, mỗi lần thiu thiu là khách bỏ hàng lên xuống ồn ào như chợ chiều ba mươi Tết.

Tàu chạy đến tám giờ tối mới đến Nha Trang. Những hành khách đi tiếp về Quy Nhơn hay Đà Nẵng ngủ tại ga để ngày mai mua vé sớm tiếp tục cuộc hành trình. Tôi tìm một góc vắng dựa vào tường, xắc tay mang theo ôm trước ngực, hành lý mang theo không có gì quý giá nên chẳng sợ bị đánh cắp. Tôi ngủ được một giấc thì giựt mình thức dậy vì hành khách đã sắp hàng mua vé. Tôi cũng sắp hàng và mua được vé. Đúng bảy giờ sáng tàu khởi hành. Tàu từ Nha Trang chạy ra Quy Nhơn ít người đi buôn nên không ồn ào như ở ga Bình Triệu. Tôi kéo mũ che mặt và cố ngủ một giấc để lấy lại sức.

Đang lim dim ngủ thì nghe một người hát dạo từ phía cửa trước lên xuống nói thật lớn:

– Kính thưa bà con cô bác, kính chúc cô bác nhiều sức khỏe, thượng lộ bình an, mua may bán đắt, gặp nhiều may mắn. Để giúp vui cho bà con đi đường bớt mệt nhọc, tôi xin trình bày bản nhạc: Tàu Đêm Năm Cũ.

Tôi nhìn lên thì thấy một người thương phế binh cụt hai chân, tóc dài ngang cổ, mặc áo rằn ri Biệt động quân, đầu đội mũ đi rừng, ngồi trên một ghế thấp có 4 bánh xe phía dưới. Một thằng bé khoảng mười tuổi đi trước, tay cầm một ca nhựa để xin tiền. Tôi đoán người nầy là thương phế binh của Việt Nam Cộng Hòa.

Giọng ca của anh, trầm, buồn, lưu luyến, tiếng đàn ghita đệm theo điệu bolero rất điêu luyện. Khi anh cất giọng hát: Trời đêm dần tàn tôi đến sân ga đưa tiễn người trai lính về ngàn… Cả toa tàu đang ồn ào chuyện trò, bỗng dưng im lặng để nghe. Có lẽ từ ngày 30 Tháng tư, 1975, Cộng sản chiếm miền Nam, tất cả những sách vở, báo chí… đều bị tịch thu và đốt hết, nhạc vàng của miền nam cấm hát, ai hát sẽ bị bắt. Thay vào là sách của Lenin, Kart Mart, Hồ Chí Minh… và hát nhạc miền Bắc. Bây giờ, nghe lại một bản nhạc xưa do một người thương binh Miền Nam hát gợi lại nhiều kỷ niệm, im lặng lắng nghe và nhớ những lần tiễn đưa cha, anh, chồng, em đi vào chiến trường…

Tôi nhìn những hành khách trên tàu phần đông là đàn bà. Có nhiều cô gái còn rất trẻ khoảng trên dưới hai lăm, mặt mày sáng sủa, yểu điệu thục nữ nhưng ăn mặc xuề xòa, mộc mạc, trông có vẽ khổ cực lam lũ. Những đôi mắt sáng nhưng có long lanh những buồn phiền…

Khi anh chấm dứt bài hát, bà con bỏ tiền đầy ca nhựa cho thằng bé, anh lết gần đến trước mặt và hỏi tôi:

-Ông thầy mới gỡ lịch ra phải không?

Tôi biết anh hỏi tôi mới ở tù ra phải không, nhưng tôi giả vờ không hiểu và trả lời anh:

-Có lịch đâu mà gỡ, tôi về trung thăm gia đình.

-Em đi trên tàu nầy hằng ngày em gặp nhiều người mới ra tù, em đoán là trúng chốc ông thầy ơi!

Tôi thấy anh thương phế binh nầy là người cùng một chiến tuyến không may bị thương tật cụt hai chân, tôi cảm thấy xót xa thương cảm, tôi hỏi lại anh:

-Trước anh binh chủng Biệt động quân hả và bị thương ở chiến trường nào?

-Dạ, bị thương năm 1972 mùa hè đỏ lửa giải tỏa Kontum.

Anh trả lời tôi với giọng buồn và chân thật:

Em gia nhập vào binh chủng Biệt động quân năm 1968, (Hình: wikipedia)


-Em gia nhập vào binh chủng Biệt động quân năm 1968, năm 1970 em cưới vợ, vợ em làm thợ may và sinh được đứa con trai. Năm 1972 em bị thương tàn phế, em được hưởng trọn lương và giải ngũ. Năm 1975 mấy ông nội nầy vào cúp hết nên rất khổ cực, vợ bỏ đi lấy chồng. Cũng may em có biết đàn và hát nên hai cha con đi hát trên tàu, bến xe kiếm ăn qua ngày.

-Anh học đàn và hát bao giờ mà đàn hay quá vậy? Tôi hỏi để biết thêm về anh.

-Dạ, em có một thằng bạn cùng đơn vị, nhà ở Sài Gòn, có đi học đàn, buồn chuyện tình nên tình nguyện đi lính Biệt Động Quân, hai đứa ở cùng một trung đội. Mỗi khi về hậu cứ dưỡng quân nó dạy em đàn. Năm 1972 em bị thương cụt hai chân, nó tử trận.

-Con trai anh bây giờ ở đâu?

-Dạ, đi cùng em đó, nó gần mười tuổi rồi, em cụt hai chân, nó giúp em nhiều việc, hai cha con sống đùm bọc lẫn nhau cũng đỡ tủi thân.

-Bây giờ gia đình anh ở đâu? Tôi hỏi để biết thêm hoàn cảnh của anh.

-Dạ, cha mẹ em ở Tuy Hòa, ông bà mất để lại cho em một căn nhà nhỏ, cũng may có chỗ cha con trú ngụ cũng đỡ khổ.

Tôi thấy xót xa vời hoàn cảnh của anh, tôi hỏi tiếp.

-Anh không cho thằng bé đi học sao?

-Đi học làm sao theo em xin tiền cô bác để cha con sống qua ngày. Thời bây giờ không học cũng làm đại úy ông thầy ơi…

Anh nói mắt nhìn về đứa con trai với chiếc áo thun và quần tà lỏn đã bạc màu, nón lưỡi trai đội ngược, đang đưa ca cho bà con hành khách bỏ tiền vào. Nhìn hai cha con người thương phế binh, tôi rất buồn và đau khổ. Chiến tranh đã qua rồi, nhưng để lại những đau thương tan tác cho dân miền Nam, nhất là những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị thương tật tàn phế phải lê lết sống qua ngày.

Anh nhìn tôi với đôi mắt đượm buồn và nói:

-Ông thầy cũng như em, thỉnh thoảng nhớ lại những ngày đầu vào lính, em xin hát bài Biệt Kinh Kỳ để tặng ông thầy, hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai ông thầy ơi.

Nói xong, những ngón tay phải rảy nhẹ lên những dây đàn đệm nhạc và cất tiếng hát, mắt nhìn xa xăm ngoài cửa sổ toa tàu: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã khoác chiến y rồi, người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên, giã từ trường yêu với bao bạn hiền, có về là khi nước non vui bình yên…”

Hành khách trên tàu cũng lặng yên lắng nghe, khuôn mặt người nào cũng đượm buồn… Hát xong bản nhạc anh chào tôi theo kiểu nhà binh và nhìn tôi nói nhỏ:

-Sau cơn mưa trời lại sáng, chào ông thầy em đi kiếm cháo.

Ở tù mới ra, chưa có công ăn việc làm, vợ con còn nheo nhóc, vay mượn được 80 đồng về thăm mẹ già nhưng tôi cũng bấm bụng bỏ vào ca thằng nhỏ 5 đồng và tôi nói với anh:

-Tôi mới ở tù ra, nhưng tôi còn lành lặn hơn anh, hai anh em mình cùng chiến tuyến, tôi biếu anh mấy đồng và để kỷ niệm lần đầu gặp nhau, chúc cha con anh nhiều sức khỏe. Anh cúi đầu cảm ơn tôi và lếch lần qua toa tàu khác.

***

Cha con người thương binh biệt động đi rồi, tôi nhớ lại bài hát Biệt Kinh Kỳ mà anh vừa hát tặng tôi.

Năm 1968 tôi đang học ở Sài Gòn thì thằng bạn ở Đà Nẵng đánh điện vào cho biết tôi đã có lệnh gọi nhập ngũ vì tôi khai lược giải cá nhân ở nhà Lâm. Nhận được điện tín tôi không buồn cũng không vui vì những năm chiến tranh ác liệt những người bạn từ giáo chức, hành chánh, sinh viên đều gọi nhập ngũ.

Tôi đến Air Việt Nam mua vé về quê thăm cha mẹ và đi trình diện trại nhập ngũ số 1 ở Đà Nẵng cho kịp thời gian đã ấn định trong giấy gọi. Tôi báo tin cho mấy thằng bạn chơi thân ở đường Hòa Hưng: Giang, Châu, Định, Hùng và Henry (lai Pháp bạn bè hay gọi hắn là Henret, vì có hai răng cửa bị sún). Ngày tôi về quê, đêm hôm đó mấy thằng bạn chung tiền mua một két bia 33 và một con gà (tiền gà thằng Henry mua vì nó con lai nên có tiền hơn mấy đứa bạn khác), lên căn gác của nhà Châu nhậu suốt đêm. Bia đổ hết vào một thau lớn, một cái ly uống xây chừng, con gà trộn với rau răm và củ hành đưa cay.

Vì thằng nào cũng học sinh, sinh viên tửu lượng ít, uống được ba tuần bia thì ngà ngà say.

Thằng Henry ôm đàn ghita hát bài Biệt Kinh Kỳ tặng tôi, mấy thằng bạn gõ đũa vào thau bia nhịp theo tiếng đàn và hát theo Henry. Henry xỉn xỉn cứ hát đi hát lại bản nhạc. Hát một đoạn uống xây chừng một tua.

“Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi

Bạn ơi! hãy nói ‘khoác chiến y’ rồi

Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên

giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền

có về là khi nước non vui bình yên.”

Thau bia đã cạn, bạn nào cũng say mềm và lăng ra ngủ khò. Đến sáu giờ sáng tôi giựt mình thức dậy và gọi Henry chở tôi ra phi trường vì 7 giờ 30 máy bay cất cánh. Khi chia tay Henry ngậm ngùi nói:

-Mày vào quân trường tau cũng về Pháp, tau có quốc tịch Pháp bà già sợ chiến tranh lan rộng không yên ổn nên đưa tau đi. Chúc mày thượng lộ bình an, vào quân trường vui khỏe và gặp nhiều may mắn. Sẽ gặp lại nhau…

Henry bắt tay tôi và đi nhanh ra nơi gởi xe, Tôi nhìn theo bạn lưu luyến ngậm ngùi…

*

Mãi nhớ chuyện xưa và nhớ bản nhạc Biệt Kinh Kỳ mà Henry hát trong đêm chia tay, nhớ những thằng bạn từ thuở ấu thơ, những ngày sống ở Sài Gòn và những ngày trong quân ngũ, tôi thiếp vào giấc ngủ chập chờn.

Đang lim dim ngủ, một người công an đứng sát ghế ngồi, nhìn thấy công an tôi sợ quá, kéo mũ che mặt ngủ tỉnh bơ như không để ý. Người công an lấy mũ che mặt đập vai tôi và hỏi:

-Ông thầy quên em rồi sao?

Bây giờ già rồi đầu óc lú lẫn nên chẳng nhớ ai.

-Em là Dũng bóng làm trong phòng siêu tần số với thượng sĩ Bàu.

Thật sự tôi nhìn lên tôi cũng biết là Dũng bóng làm phòng siêu tần số dưới quyền tôi làm trung tâm trưởng. Nhưng tôi trả lời:

-Dũng hả anh nhớ rồi, em vào ngành công an lâu chưa?

-Em vào ngành công an cũng được bốn năm. Ông thầy vẫn khỏe? Gặp và thấy ông thầy khỏe mạnh em mừng lắm. Em đi kiểm soát trên tàu hằng ngày mà em chưa gặp một người bạn cùng đơn vị, hôm nay em găp ông thầy và thấy ông thầy mạnh khỏe em rất vui. Xin phép ông thầy em đi làm nhiệm vụ, em đợi ông thầy ở ga Quy Nhơn, thầy trò mình nói chuyện nhiều.

Nói xong Dũng đi lần qua toa tàu khác.

*

Đơn vị tôi là một trung tâm truyền tin diện địa đồn trú trong bộ tư lệnh quân đoàn 2. Truyền tin là mạch máu của quân đội, chịu trách nhiệm các đường dây liên lạc, công văn, công điện trong vùng 2 chiến thuật và điện thoại các phòng ban trong bộ tư lệnh và tiểu khu Pleiku…

Trung tâm gồm có các ban: siêu tần số, tổng đài, viễn ấn tự, mật mã, điều chỉnh, giai tần đơn, quân xa, máy điện, đường dây cáp điện thoại. Làm việc theo ca, chia làm 3 ca trực ngày và đêm.

Nguyễn Anh Dũng cấp bậc hạ sĩ nhất, độc thân, người hiền lành, nước da trắng trẻo thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, làm việc chăm chỉ, tới phép thường niên 15 ngày là xin về thăm gia đình. Bạn bè thấy Dũng giống con gái nên gọi Dũng bóng.

Binh chủng truyền tin điều chuẩn an ninh rất kỹ. Sáu tháng là ban an ninh đơn vị gởi giấy điều chuẩn an ninh về địa phương ký xác nhận gia đình, cha mẹ, anh chị em, bà con họ hàng có theo Cộng sản hoặc liên hệ với Cộng sản. Nếu có thì cho làm những công việc không quan trọng hoặc đổi ra tác chiến. Hồ sơ an ninh của Dũng rất trong sạch không có liên hệ với Cộng sản thế mà sau 1975 lại được vào ngành công an.

Tôi nghĩ Dũng là Việt cộng nằm vùng khai man lý lịch trà trộn vào lính truyền tin chờ cơ hội đặc chất nổ phá hoại trung tâm. Nếu trung tâm mà bị đặt chất nổ hư hỏng là tôi sẽ bị ra tòa án quân sự bị tử hình hoặc ở tù rục xương.

Mãi suy nghĩ tàu đã đến ga Quy Nhơn, tôi bước xuống và đi vào sân ga thì thấy Dũng đứng chờ tôi. Gặp tôi Dũng nói:

-Thiệt tình em gặp lại ông thầy em mừng lắm, bây giờ cũng đã tối rồi, em mời ông thầy đi ăn cơm với em.

Tôi nói với Dũng:

-Bây giờ thầy trò gì nữa, gọi anh em với nhau cho thân mật.

-Ông thầy cho phép em mới dám gọi. Mời anh vào tiệm cơm bên kia đường.

Vào tiệm cơm Dũng gọi hai phần cơm 2 người, hai chai bia. Và Dũng tâm sự:

-Chắc thấy em đi công an anh ngạc nhiên và không thích phải không?

Tôi nói đãi đưa với Dũng:

-Anh biết ngành công an phải lý lịch trong sạch, gia đình tham gia cách mạng… mới được tuyển vào. Anh rất mừng cho em.

Không phải vậy, trường hợp em là khác. Dũng kể:

Năm 1970 quốc lộ 19 do sư đoàn mãnh hổ Đại Hàn kiểm soát an ninh, mỗi sáng đi mở đường, nếu có du kích Việt Cộng nấp những làng hai bên đường bắn sẻ một người lính chết là tràn vào làng kéo thanh niên, thanh nữ ra bắn hết. Em có một thằng em cũng bị Đại Hàn bắn chết. Năm 1975 mấy ông nầy về, những gia đình có người bị bắn chết được cấp giấy gia đình liệt sĩ.

-Nhờ gia đình liệt sĩ em được vào ngành công an phải không?

-Dạ, đầu năm 1977 ở tỉnh Bình Định tuyển công an em lấy giấy gia đình liệt sĩ làm đơn xin vào.

-Anh nghe nói ngành công an kiếm chát cũng khá hả em?

-Dạ, khá lắm, nhưng đối với em là khác. Dù sao em cũng ở trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, có giáo dục nhân bản, thương dân mình bây giờ đang đói khổ, nhất là những vợ của lính cùng chiến tuyến với mình, bị đi ở tù, hoặc đi kinh tế mới, em không dám tìm cách bắt chặt những người đi buôn phải đóng chịu hằng ngày không biết hàng hóa nhiều hay ít, như những thằng công an ngoài Bắc ăn tàn nhẫn lắm.

-Em không ăn tiền đâu mà nộp lên trên.

Tôi hỏi Dũng để biết thêm về ngành công an mà dân ai cũng ghét.

-Bởi vậy nên em nghèo hơn tụi Bắc kỳ. Chắc em làm một thời gian nữa em xin đổi qua ngành khác, để lấy đức cho vợ con.

Nhắc đến vợ con, tôi hỏi để biết hoàn cảnh Dũng.

-Bây giờ vợ con em đang ở đâu và làm nghề gì?

-Dạ, nhà em ở thành phố nầy. Em cưới vợ năm 1978, nhân viên bán vé tàu ở ga Quy Nhơn và sinh một cháu trai được ba tuổi. Em dành dụm mua được căn nhà nho nhỏ để cho gia đình trú ngụ.

-Như vậy em cũng yên ổn rồi, anh rất mừng cho em.

-Thú thật với anh em cũng không muốn vào ngành nầy nhưng đổi đời không biết làm nghề gì nên phải chấp nhận.

Tôi nói với Dũng:

-Em có ý định chuyển ngành thì rất tốt, giữ phúc đức cho con cháu sau nầy.

Dũng nhìn tôi hơi rụt rè và nói:

-Gặp anh em mừng lắm, nhắc lại cho em những kỷ niệm thời còn bạn bè, công việc làm, em rất buồn biết bao giờ tìm lại. Anh mới ra tù còn vất vả lo cho vợ con, em xin biếu anh một ít tiền làm lộ phí và em đã mua vé cho anh về Đà Nẵng.

Dù sao, với nhân cách của người sĩ quan quân đội miền nam, tôi từ chối và cảm ơn Dũng. Nhưng Dũng nài nỉ và nói:

-Anh nhận cho em vui, xin anh cứ nghĩ em là lính của anh như ngày xưa, không thay đổi gì.

Nghe Dũng nói rất chân thật, hơn nữa tôi mới ở tù ra cũng thiếu tiền cho chuyến đi. Tôi nói với Dũng:

-Anh nhận số tiền nầy, sau nầy anh khá lên anh sẽ gởi lại cho em. Cảm ơn em rất nhiều.

Tôi nhìn Dũng rất vui, tôi nói tiếp:

-Thôi em về kẻo vợ con trông. Hy vọng chuyển vào anh sẻ gặp em, sẻ ghé lại thăm vợ con em. Anh em mình tâm sự nhiều.

Tôi bắt tay Dũng và chúc Dũng nhiều sức khỏe và gặp nhiều may mắn.

*

Dũng đi rồi, tôi lang thang vào ga tìm một chỗ ngủ. Mãi suy nghĩ về Dũng mà tôi cứ thao thức không ngủ được.

Cộng Sản đã xâm chiếm miền Nam, tất cả sĩ quan bị đi ở tù không biết ngày về, những người có chút học thức tham gia chế độ miền Nam không bị ở tù thì đày đi kinh tế mới, nhưng cái tình của người miền Nam vẫn còn thương yêu nhau, đùm bọc lẩn nhau… Nhất là những người lính huynh đệ chi binh.

Khi còn tại chức trước năm 1975, người sĩ quan QLVN phải làm đúng bổn phận, trách nhiệm của người sĩ quan chỉ huy. Tôi cũng làm đúng bổn phận và trách nhiệm. Nghiêm khắc, la rầy, phạt trọng cấm, cúp phép… Tôi cứ nghĩ một người sĩ quan thất cơ lỡ vận bị Cộng Sản tuyên truyền, lính sẽ thù hận nhưng không ngờ vẫn còn kính nể, thương yêu nhiều hơn xưa.

Lang man suy nghĩ, có vé tàu Dũng đã mua, tôi không lo thức sớm để sắp hàng mua vé, và có uống một chai bia, tôi thiếp vào giấc ngủ mặc dù nhiều hành khách đi lại nói chuyện ồn ào. Sáu giờ sáng thức dậy, mua một ổ bánh mì điểm tâm và lên tàu với tâm hồn nhẹ nhàng, vui tươi.

Có tiền của Dũng đến ga Quảng Ngãi tôi mua một con gà luộc (ga QN bán gà đa luộc chín rất ngon) và kẹo mạch nha về làm quà cho mẹ.

***

Tôi về ăn Tết với mẹ được một tháng vào lại Sài Gòn tìm việc làm nuôi vợ con. Khi vào tôi mua mè xửng Huế và bánh đậu xanh để làm quà cho Dũng, người thương phế binh và vợ con. Buổi tối nghỉ lại ga Quy Nhơn tôi đi lang thang hỏi thăm Vợ chồng Dũng không ai biết, có lẽ buổi tối nhân viên nghỉ hết. Trên đường tàu chạy vào Tuy Hòa tôi hỏi mấy anh công an kiểm soát họ trả lời là Dũng đã chuyển ngành và không biết ngành gì.

Khi nghe tin Dũng đã chuyển ngành tôi rất vui và mừng cho Dũng đã giữ đúng lời hứa. Ít ra người quân nhân miền Nam cũng phải có bản lĩnh như vậy.

Trên đường từ Tuy Hòa vào Nha Trang tôi cũng không thấy cha con người thương phế binh hát dạo, tôi hỏi hành khách trên tàu đi buôn hằng ngày họ trả lời cũng không thấy hai cha con người thương phế binh hơn nửa tháng rồi. Tôi rất buồn, không biết có mệnh hệ nào cho hai cha con… Anh lê lết trên tàu, bến xe hát những bản nhạc vàng của miền Nam như một cái gai trước mắt bôi bác chế độ họ muốn nhổ đi cho khuất mắt. Tôi thương và buồn vô cùng cho hai cha con người thương phế binh phải gánh chịu những tai ương sau chiến tranh điêu tàn…

Chuyện đã xảy ra trên bốn mươi năm rồi, tôi vui, buồn mỗi khi nhớ lại…

Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi

Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi

Thành đô lưu luyến chắn bước chân tôi

trước giờ chia phôi mấy ai không bùi ngùi

kỷ niệm buồn vui mãi ghi trong lòng tôi.

Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi

Bạn ơi! hãy nói “khoác chiến y” rồi

Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên

giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền

có về là khi nước non vui bình yên.

Nhớ lúc lên đường đưa tiễn chân tôi,

Thương lên khoé mắt mẹ nhắn đôi lời,

Diệt thù lập công cho xứng tài trai,

Sắt son ghi lòng chớ phai.

Ai đi chinh chiến xây đắp tương lai,

Con đi chinh chiến để nước yên vui

Lời mẹ hiền khuyên nguyền khắc trong tim

bao giờ dám quên.

Bạn ơi! khi nào ai hỏi đến tên tôi

Đời tôi lính chiến cánh chim tung trời.

Ngày nào khi đất nước hết binh đao

giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu,

trở về thành đô nắm tay ta mừng nhau.

Người đi chiều ấy áo nhuộm bụi đường

Chiều nay về giữa kinh kỳ say hương.

Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi

Bạn ơi! hãy nói “khoác chiến y” rồi

Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên

giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền

có về là khi nước non vui bình yên.


May 25, 2024

Trần Thế Phong 

 

https://www.nguoi-viet.com/ban-doc-viet/tren-chuyen-tau-cuoi-nam/

Bà Năm Đi Mỹ - Phan Đức Minh

(Hình minh họa: Fabian Møller/Unsplash) 


Mấy hôm nay, Bà Năm mất cả ăn, cả ngủ vì chỉ còn một ngày nữa thôi, sáng mai là Bà lên máy bay sang Mỹ đoàn tụ gia đình, sống với đứa con gái lớn đã sang sinh sống ở Mỹ dễ chừng hơn 20 năm rồi.

Lâu lâu nó vẫn gửi thư cho Bà và gửi tiền nữa. Với số tiền năm, sáu trăm đôla mỗi lần nó gửi về, đem đổi ra tiền Việt Nam hơn chục triệu lận. Bà ngồi mà ăn, cúng vô chỗ này, chỗ nọ để lo cho kẻ nghèo khổ, giúp đỡ bà con, chòm xóm, kẻ nhiều người ít, cũng không cách nào cho hết.

Bà già rồi, sống với đứa con gái út, hàng ngày chỉ có việc ăn hai ba bữa rồi đi đây, đi đó, thăm bà con, bè bạn. Về nhà thì mở TV, coi băng video cải lương, phim hài, phim chưởng… đủ thứ trên đời. Cuộc sống của Bà nghĩ thật sung sướng. Bao nhiêu người già cả ở quanh cái chợ Bà Chiểu, Quận Bình Thạnh nơi đất Sài Gòn này, ước mơ có được một phần cuộc sống của Bà mà đâu có được. Họ phải đầu tắt, mặt tối, chạy xuôi chạy ngược, buôn bán tảo tần nơi lề đường, hè phố, bị công an rượt đuổi chạy có cờ… để kiếm miếng ăn cho no cái bụng thôi mà cũng không nổi.

Bà Năm có đứa con gái vượt biển rồi đi Mỹ mà cuộc đời sướng như thế đó. Người ta bảo: “Bà Năm ăn ở phúc đức lắm mới được đứa con gái như thế. Chớ biết bao nhiêu người, sinh con đẻ cái, gái trai cả bầy mà có làm nên cơm cháo gì đâu?”

Cuộc đời của Bà quả là sướng như tiên ở Sài Gòn rồi còn chi nữa. Bảo đứa con gái út viết thư cho chị nó, Bà cứ bảo nó viết cái tên Sài Gòn, vừa quen, vừa gọn, vừa dễ nghe, chớ đâu lại có cái tên dài lòng thòng…Thành Phố Hồ Chí Minh, nghe mệt thấy mồ.

Mỗi khi nhận được thư của đứa con gái từ Mỹ gửi về Sài Gòn cho Bà, có lúc kèm theo vài tấm ảnh… theo thói quen từ hồi có… “loại thư Việt Kiều gửi về quê,” Bà lại dúi vào tay người đưa thư mấy ngàn bạc cho người ta vui vẻ, lương tiền nhà nước làm chỉ đủ sống.

Chu cha! Đất Mỹ đẹp quá trời! Con Nguyệt, con gái Bà, nói nó ở thành phố San Diego, tiểu bang Ca-li, một thành phố đẹp lắm. Coi những tấm ảnh, Bà thấy thành phố San Diego quả là đẹp thật. Nhà cửa, đồ đạc, xe cộ của con gái Bà sao mà đẹp chi lạ! Hai đứa con trai của nó trong ảnh còn đẹp hơn cả mấy đứa trẻ trong những bức tranh Tầu ôm quả đào tiên.

Con Nguyệt nó bảo làm thủ tục bảo lãnh cho Bà sang Mỹ ở với nó. Nó bảo Bà già rồi, sang Mỹ khỏi có phải làm ăn chi hết, rồi ít lâu sau thành dân Mỹ, lại có tiền chính phủ nuôi, chỉ ở nhà chơi với cháu thôi. Bà muốn coi cải lương hả? – Băng video phim Việt Nam, phim Tàu, phim chưởng Hồng Kông nhiều vô số kể. Chẳng thiếu thứ gì. Nó mua, nó thuê về nhà cả thùng lận. Bà tha hồ mà coi. Bà muốn đi Chùa hả? – Nó lái xe Mỹ, xe Nhật êm ru bà rù, chở Bà đi đây, đi đó, chỉ nháy mắt là tới nơi, chớ đâu có phải đi bộ mỏi cả giò, đổ mồ hôi hột hay đi xích lô chạy loạng quà loạng quạng, cứ như muốn ủi vào xe lam, xe đạp, xe Honda, ô tô con, ô tô mẹ, chạy tưới hạt sen, lộn xộn xà ngầu… kinh khủng, muốn chết quá!

Mấy năm trước, khi Ông Cụ còn sống mà ai nói tới chuyện kéo Ông đi Mỹ sống với con gái, là Ông chửi toáng cả lên: “Không có đi đâu cả! Ở quê nhà với bà con, chòm xóm bạn bè, mồ mả Tổ Tiên không sướng hơn hay sao? Tiền bạc nó gửi về, ngồi mà ăn đến chết cũng không hết. Già cả rồi, sang đó làm nên cái giống chi mà làm?”

Thế nhưng từ ngày Ông mất đi, Bà thấy buồn buồn làm sao ấy. Thiếu người bầu bạn, đôi khi có cằn nhằn gấu ó với nhau về cái chuyện “đi hay ở ” thật đấy, nhưng lúc này Bà Năm mới cảm thấy cô đơn, cô đơn thực sự.

Người già có cái tình yêu thương cũng như nỗi cô đơn của người gia. Thế là càng ngày Bà càng cảm thấy cần phải đi Mỹ để sống với đứa con gái mà Bà từng mang nặng, đẻ đau, rồi còn gian nan về những phen chạy giặc, chiến tranh nữa chớ. Bà phải đi Mỹ để sống với hai đứa cháu ngoại trong ảnh thật dễ thương. Lắm lúc Bà ngồi một mình mà nước mắt rưng rưng, Bà thương đứa con gái hiếu thảo và hai đứa cháu ngoại quá chừng chừng…

Sáng nay, Bà gọi con Lan, đứa con gái út, dậy thật sớm để kịp ra phi trường Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh lúc 7 giờ sáng nhưng xe đón từ lúc 5 giờ.

Bà Năm có hai đứa con gái, con Nguyệt là lớn, vượt biển đi Mỹ đã hơn 20 năm. Con Lan là thứ nhì mà cũng là út, lúc ấy còn bé tí ti. Bây giờ con Lan đã lớn tướng rồi, đã vào đại học và theo mấy khoá Tiếng Anh. Chị nó bảo: “Sang Mỹ, con Lan sẽ vào đại học, tha hồ mà học.”

Con Lan đang ở cái tuổi mới lớn, nó còn thích đi Mỹ hơn cả bà Năm nữa, tuy rằng đi Mỹ thì nó phải xa vô số bạn bè, thân thiết, đã từng gắn bó với nhau trong những tháng ngày khốn khổ, gian nan, kinh hoàng nữa chớ. Nó nghĩ lại mới ngày nào đó, vậy mà Chị nó đi Mỹ cũng đã hơn 20 năm, mau dễ sợ! Nó tính trong đầu: sang Mỹ chịu khó mất vài bốn năm thì cũng lấy xong cái B.S. hay B.A. chi đó, như Chị nó nói. Học thêm vài năm cũng lấy được cái bằng Master cho nó hách, rồi đi làm. Thế là sẽ có vô số tiền. Nó sẽ đáp máy bay từ Mỹ về Sài Gòn. Lúc đó là đi thẳng cái một, khỏi có… quá cảnh xứ này, nước nọ lôi thôi. Bạn bè của nó kéo cả băng, cả đoàn đi đón. Vui ơi là vui! Nó sẽ cho tiền những đứa bạn nào nghèo khó, chồng con vất vả đầu hôm sớm mai. Nó sẽ lôi hết bạn bè cũ cùng học lớp 12 với nó ở Sài Gòn, thuê vài cái xe đi chơi khắp mọi chỗ kêu bằng… danh lam, thắng cảnh, quay video, chụp ảnh, đi ăn nhà hàng chết bỏ… cho bõ ghét những ngày… con nít chẳng dám đi đâu hay làm cái gì…

Có tiếng xe pin, pin ở ngoài cổng. Người ta tới đón mẹ con Bà Năm ra phi trường. Bà con, bạn bè lối xóm bu lại, nước mắt ngắn dài, kẻ ở người đi… Ôí! Cảnh biệt ly sao mà buồn thế! Mẹ con Bà Năm với mấy cái va-li bự chảng, hai cái xách tay nho nhỏ đã lên xe. Một số bà con thân thiết cũng leo lên xe để tiễn mẹ con bà Năm tới tận phi trường. Một số bà con ở lại, vẫy tay từ biệt khi cái xe 12 chỗ ngồi đã từ từ lăn bánh.

Bà Năm cố nhìn lại cái xóm cũ đã gắn bó, sống chết với Bà từ bao nhiêu năm nay. Những dãy nhà hai bên đường phố chạy thụt lùi lại phía sau cùng những bóng cây, cột đèn, thân thương quá đỗi. Vài chiếc xích-lô đưa khách sớm, dăm cái xe đạp, vài chiếc Honda rồ máy chạy ào ào… Tự nhiên Bà Năm thấy nhớ, thấy thương Sài Gòn quá đi mất thôi. Vậy mà Bà nỡ bỏ nó để đi xa, chẳng biết bao giờ mới trở lại nơi này.Bác tài xế bấm còi pim ! pim! khi tới chỗ ngã tư đông người lộn xộn làm con Lan giật mình khi còn đang ngủ gà, ngủ gật vì sáng nay nó phải dậy sớm. 

Xe qua cổng phi trường, vòng qua vòng lại rồi đậu phía trước một ngôi nhà đông nghẹt những người. Hai mẹ con Bà Năm đã lọt vào trong căn phòng “cách ly” để lại bên ngoài số bà con, bạn bè thân thiết với bao nhiêu nỗi niềm thương nhớ đến độ xót xa.

Thoát được cái cảnh lo sợ bị rạch, Bà Năm thấy an tâm đỡ khổ. Bà đã già, lẩm cẩm, may mà có con Lan đi theo chớ không dám chết quá. Bà có biết trời trăng, mây nước gì đâu. Hết nạp giấy tờ, kêu tên, rồi nạp tiền đủ thứ linh tinh. Đến chỗ mấy ông, mấy bà công an áo vàng, cầu vai đỏ choé, bà hơi run khi thấy họ lục xét, bới tung đồ đạc của mấy người đi trước. Con Lan hích hích cùi chỏ rồi thò tay bấm Bà: “Má để con!” Con nhỏ này nó học ở đâu mà bữa nay nó lanh như… quạ, dấm dúi tiền bạc cho đám công an bằng những cái phong bì “có nhân” ở bên trong. Kẹt quá, nó dúi đại cả mớ tiền Hồ vào tay bọn công an tỉnh bơ, chẳng còn coi ai ra gì cả.

Công việc đi qua nhanh như gió. Cuối cùng một lão công an, mặt lạnh như tiền, hất hàm hỏi “Bà và Cô có đem theo đôla không?” – Thưa không ! – Thế còn giữ tiền Việt Nam không?

Con Lan lại hích hích cái cùi chỏ vào ba sườn Mẹ nó. Bà Năm lôi trong người ra cái phong bì to bự đựng mớ tiền Hồ còn lại, đưa cho lão công an, miệng líu ríu: “Còn lại mấy trăm ngàn, xin biếu… đồng chí uống cà phê.” Lão công an phì cười khi nhét cái phong bì vào ngăn kéo bàn gần đó nhanh như người ta làm xiệc . Lão ta cười chắc là vì lão ta có đồng chí đồng choé gì với Bà Năm bao giờ đâu…

Hành khách lên xe, ra chỗ máy bay đậu. Ngồi trong máy bay rồi, con Lan buộc dây lưng an toàn cho Mẹ. Sau một hồi gầm gừ, lắc lư, chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam từ từ cất cánh. Bà Năm nhăn mặt vì khó chịu, nôn nao trong người. Ngồi cạnh cửa kính máy bay, Bà thấy phố xá, đồng ruộng quanh vùng Sài Gòn lu mờ, xa dần rồi mất hẳn. Chung quanh chỉ còn là mây trắng xoá, mịt mờ…

Nỗi buồn xa xứ ở đâu tự nhiên kéo đến. Hai hàng nước mắt chạy quanh. Con Lan rương tròn đôi mắt nhìn Mẹ nhưng chắc là nó không làm sao hiểu nổi. Máy bay dừng lại ở Thái Lan để chuyển sang máy bay quốc tế, nghe nói bự lắm. Con Lan lúc này lanh lẹ, dễ thương vô cùng. Nó thương Mẹ nó. Nó lo cho Bà đủ chuyện trong chuyến đi nửa vòng trái đất đầu tiên và chắc cũng là cuối cùng của đời Bà. Mới ăn có một bữa trên máy bay với một bữa ở khách sạn để chờ chuyển máy bay mà Bà Năm đã thấy nhớ món cá lóc nấu canh chua, cá nục kho khô, nhất là điã giá sống… Con Lan cứ ăn tỉnh bơ, ào ào hết sạch. Con gái 17 bẻ gãy sừng trâu còn được, huống hồ năm nay nó đã lớn tướng, dư sức lấy chồng được rồi. Bà lẩm cẩm lo nghĩ vẩn vơ, nếu cứ ăn uống hoài kiểu này chắc chết quá! Mà không, con gái Bà nó bảo ở bên Mỹ đồ ăn không thiếu cái chi cả. Chợ Mỹ, Chợ Tàu, chợ Việt Nam có đủ hết. Tha hồ mà làm… bún bò giò heo, bún cá, phở, mì, bánh canh, bánh xèo, chả giò, bánh cuốn… Tự nhiên Bà Năm lại thấy … lên tinh thần.

Người ta hướng dẫn Mẹ con Bà Năm lên cái máy bay to chi lạ. Nghe nói nó chở cả mấy trăm con người và vô số đồ đạc, va-li, thùng, xách, linh tinh. Dễ sợ thật ! Bà thấy hành khách đông vô số kể, ngồi trông từa tựa như cái rạp cải lương ở gần Chợ Bà Chiểu thân quen của Bà. Mấy cái màn ảnh chiếu phim cả ngày cả đêm, hoạ hoằn mới cho chúng nó… giải lao nghỉ xả hơi một lúc. Cứ độ 2 tiếng đồng hồ, mấy cô tiếp viên lại đẩy cái xe đi quanh, dọn ăn, dọn uống cho khách. Bà nghe nói ở Mỹ cả chục triệu người béo phị, đi không nổi. Chắc tại họ ăn uống lu bù tối ngày sáng đêm như thế này chăng. Bà ăn đâu có nổi, Chỉ có con Lan là cứ tỉnh bơ như sáo sậu, hết coi phim lại ăn, lại uống. Bà bảo con Lan: “Con ăn nhiều thế, mai mốt béo phị ra thì ai nó thèm lấy!” Con Lan phì cười: “Má đừng có lo! Con biết hết trơn rồi.”

Máy bay hạ cánh xuống phi trường Mỹ. Con Lan bảo là Phi Trường quốc tế Los Angeles. Bà Năm mệt mỏi nhừ tử cả người, đứng lên muốn hết nổi.  Máy bay bay miết, bay hoài, dễ chứng cả ngày lẫn đêm chi đó. Bà Năm thấy cái lối sống ở trên máy bay và chắc cả ở Mỹ nữa nó không đơn giản như ở quê nhà, nơi gần chợ Bà Chiểu. Cái chi cũng máy với móc, lộn xà lộn xộn, không biết đâu mà rờ cả.

Con gái Bà, con Nguyệt sẽ lái xe từ San Diego lên đón Mẹ con Bà ngay tại nơi này. Người đâu mà đông thế? Người ta ăn mặc thật là kỳ cục. Cả đời, bây giờ Bà mới thấy người ta ăn mặc chẳng giống dân Sài Gòn của bà tí nào. Đàn ông, con trai thì lắm người mặc áo để phanh cả bộ ngực lông lá tùm lum. Có người ăn mặc đồ lớn như dân Sài Gòn đi ăn cưới, có người chỉ mặc có mỗi chiếc áo “may-ô ba lỗ,” có người cởi trần trùng trục đi lại tự nhiên, thoải mái. Đàn bà con gái cũng mặc quần, mặc váy như mấy cô, mấy bà hạng sang ở sài Gòn, nhưng có nhiều người lại mặc váy, quần cụt, ngắn cũn cỡn trông chẳng giống ai.

Ở chỗ đông người thế này mà đàn bà con gái chi lạ, cứ như ở trần, ở trên thì vú vê to nung núc, rùng rà rùng rình, để ra cả đống cho người ta coi, ở dưới cứ như là… để ra ngoài hết trơn, cái quần, cái váy ngắn tí teo, lại còn xẻ rạch lên một khúc nữa… Trông dễ sợ quá! Bà Năm không biết con gái mình, con Nguyệt nó có ăn mặc như thế này không? Nếu nó lại bắt Bà phải ăn mặc như thế nữa thì không biết rồi ra làm sao? Liệu Bà sống nổi hay không. Tự nhiên Bà chặc lưỡi… kệ nó tới đâu thì tới, đã đến đất Mỹ thì cũng như… leo lên lưng cọp rồi, tụt xuống đâu còn được nữa. Thôi thì …cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem …đất Mỹ xoay vần tới đâu.

Sau khi làm thủ tục giấy tờ này nọ, Mẹ con Bà đẩy xe hành lý ra phía ngoài. Còn đang ngơ ngác thì con gái Bà, con Nguyệt, đã la lên: “Má! Má, con đây nè!” Con gái Bà lúc này nó cao, nó to con, nó đẹp như “đầm” ấy, Bà nhận ra không nổi. Nó chỉ người đàn ông đứng bên cạnh: “Đây là chồng con. Đây là hai đứa cháu ngoại của Má! Và đây là bạn bè của con…” Con Lan đứng sau lưng Bà, bây giờ mới đến phiên người ta ôm lấy nó cứng ngắc, hỏi thăm rối rít tít mù, làm cho nó đỏ bừng cả mặt, cả tai…

Mấy cái xe Mỹ, xe Nhật bóng láng đưa Mẹ con Bà Năm về nhà con gái. Bà thấy cái chi cũng lạ. Nhà to và đẹp quá, nhưng không bày đồ đạc tùm lum tà la như nhà của Bà ở gần Chợ Bà Chiểu. Con rể và con gái Bà chắc hẳn giàu lắm. Hai đứa cháu ngoại thì cứ nhìn Bà mà nói với nhau bằng thứ tiếng gì đó. Chắc là tiếng Mỹ! Vợ chồng con Nguyệt nói với Bà thì bằng tiếng Việt, còn khi chúng nó nói chuyện với nhau lại bằng tiếng Mỹ chi đó, làm Bà chẳng hiểu chi hết trơn.

Gặp mấy ngày nghỉ cuối tuần, bà con bạn bè người Việt ở gần, nghe tin Bà Năm sang Mỹ, cũng kéo tới thăm. Bà cũng thấy vui vui một chút. Cơm nước bày ra đầy cả bàn, nhưng Bà ăn sao nó dở ẹt, không bằng món cá bống kho tiêu, cá lóc nấu canh chua của Bà ở Sài Gòn. Chúng nó lấy xe chở Mẹ con Bà đi chơi tùm lum đủ chỗ, đẹp mắt và to lớn, vĩ đại vô cùng. Sạch sẽ nữa chớ, không có tạp nhạp, lộn xộn, dơ dáy như cái xóm cũ của Bà.

Đường phố San Diego. (Hình minh họa: Frank Rolando Romero/Unsplash)


Mấy ngày đầu đoàn tụ qua đi. Vợ chồng con Nguyệt đi làm, hai đứa cháu ngoại được đưa đến trường học con nít. Chỉ còn Bà với con Lan ở nhà, cái nhà rộng thinh rộng thang, phòng dưới nhà, phòng trên lầu, đủ kiểu. Chẳng bù với cái nhà của Bà gần Chợ Bà Chiểu, chỉ có một cái phòng để ngủ, một phòng cho khách ngồi chơi, còn lại là nhà bếp với bộ bàn ghế ăn cơm và linh tinh đủ thứ. Ấy vậy mà mới ở Mỹ chưa được một tháng, Bà Năm đã lại thấy nhớ nhung luyến tiếc nếp sống của Bà, một bà già hiền lành, chất phác, ở gần chợ Bà Chiểu. Đến cái ngày con Lan được chị nó dẫn đi học ở cái trường nào đó xa lắm, phải đi bằng xe hơi, chớ không có đi bộ hay đi xe đạp được đâu. Thế là chỉ còn có một mình Bà ở lại với ngôi nhà to lớn rộng thênh thang mà thôi.

Lúc này, Bà thấy quả thiệt là buồn, cái buồn miên man khó tả. Con Lan đã chỉ cho bà cách bật TV bằng cái… bấm cầm tay. Bật máy lên thì Bà chỉ thấy toàn là… đánh lộn, la hét um xùm. Bật sang kênh khác thì lại bắn súng đùng đùng, máu me tùm lum. Chán quá, Bà tắt máy. Hết đi ra lại đi vô, Bà đâm ra cứ muốn ngủ gà, ngủ vịt. Mà nằm xuống thì đâu có ngủ được…

Bà từng nghe nói thành phố San Diego là nơi ấm áp mà sao mùa lạnh mới sang Bà đã thấy lạnh chi mà lạnh dữ. Ở Sài Gòn, Bà có thấy lạnh bao giờ đâu. Buổi sáng sớm và ban đêm, ở Mỹ, Bà cứ phải mặc cả mớ quần áo, trông to bự chác như hình vẽ Ông già Nô-en vậy. Có bữa con Lan mở TV, Bà thấy cảnh động đất, mưa lụt, bão bùng, xe cộ tông nhau, người chết, nhà cửa tan tành…

Ở Mỹ cái gì đối với Bà cũng vĩ đại, to lớn, dễ sợ, kinh hoàng, dựng tóc gáy, nổi da gà. Nó không yên tĩnh, hiền lành như cái vùng đất chợ Bà Chiểu của Bà. Tối đến vợ chồng con Nguyệt đi làm về. Cả nhà chỉ gặp nhau vào lúc ăn cơm. Ăn xong, ai về phòng người nấy, hay vợ chồng con Nguyệt lại lấy xe đi đâu đến khuya. Bà Năm muốn chơi với hai đứa cháu ngoại. Khốn nỗi hai đứa nhỏ lại chỉ biết nói tiếng Mỹ mà thôi, Bà đâu có hiểu. Còn có con Lan thì nó lo học và làm bài túi bụi. Rảnh một tí, nó mở cái TV để coi ca nhạc mà kẻ đàn, người hát cứ như đánh vật với nhau, la hét um xùm. Hình như nó bảo nhạc Rốc, nhạc riếc chi đó, nghe đến chóng cả mặt, đau cả đầu. Không thế thì nó lại ôm cái điện thoại nói chuyện với bạn với bè. Nói liên hồi, không biết mệt. Chuyện chi mà nhiều thế?

Bà Năm đau nặng phải vô nằm bệnh viện, lắm lúc mê man rồi lại tỉnh. Vợ chồng con Nguyệt chỉ biết thương Bà, nhưng vẫn không hiểu được vì sao. Sau nó mới hiểu, hỏi: “Có phải ở đây Má buồn, Má không chuyện trò được với ai, nhất là với hai đứa cháu ngoại, Má nhớ quê hương, bạn bè của Má, Má nhớ mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, Má nhớ Chợ Bà Chiểu… nên má đau, má bệnh phải không?” Bà Năm nắm lấy tay nó rồi gật đầu. Con Lan bỗng nhiên mím môi lại, nước mắt chảy hai hàng. “Sao Má không ở lại Việt Nam với chòm xóm, bạn bè, với Chợ Bà Chiểu của Má? Má không chịu đi Mỹ thì đâu con có đi! Con nhất định ở với Má cho đến khi nào Má… không còn nữa, Má đi với Ba cơ mà!” Rồi nó ôm mặt khóc rưng rức xót thương cho Mẹ, người đã suốt đời khổ cực vì chồng vì con, hình như chẳng có lúc nào để nghĩ đến chính mình… 

Bỗng Bà Năm tỉnh táo, vẫy tay cho vợ chồng con Nguyệt cùng tới gần. Bà nắm lấy tay hai đứa con gái, nói trong hơi thở nghẹn ngào: “Má chấp nhận rời bỏ tất cả để ra đi vì Má thấy thương con Nguyệt, nó muốn Má được an nhàn, sung sướng lúc tuổi già, nhất là Má thương con Lan, Má hy sinh vì mong cho nó được ăn học nên người và có một cuộc sống tốt đẹp như chị nó ở đất nước văn minh, giàu có, vĩ đại như thế này. Má già rồi nên không quen, nhưng Má chấp nhận… Má chỉ tiếc một điều là không được chết và nghỉ yên bên cạnh Ba con…”

Nguyệt lúc này mới cảm thấy một nỗi xót xa thật to lớn. Nguyệt đã chịu một phần trách nhiệm trong cái chết của Bà Năm. Vợ chồng Nguyệt đã không làm được một việc mà nhiều gia đình Việt Nam khác đã làm được. Đó là vợ chồng Nguyệt không để ý hay không làm được cái việc: dạy cho hai đứa con những khi ở nhà với Cha Mẹ, tập nói tiếng Việt. Nếu hai đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt như nhiều đứa trẻ gốc Việt khác thì Bà Năm đã có nhiều giờ phút khuây khỏa, vui chơi, chuyện trò với hai đứa cháu ngoại mà Bà thương hết mình. Đằng này, Bà không làm sao gần gũi được với chúng nó. Khi Bà và hai đứa cháu ngoại gần nhau, thay vì chuyện trò như nhiều gia đình gốc Việt Nam khác, thì lại chỉ biết nhìn nhau như những người xa lạ ở đâu đâu ấy.

Nguyệt cũng úp mặt vào hai bàn tay để giấu đi những giọt nước mắt xót thương người Mẹ già đã từ giã tất cả để đến nơi đây sống với mình. Nguyệt thương Mẹ nhưng không hiểu được Mẹ. Bây giờ thì mọi sự đã trễ mất rồi, không cách nào làm lại được nữa dù chỉ một lần… Nếu hai đứa con của Nguyệt nói được tiếng Việt để Bà cháu hủ hỉ với nhau thì… 

Bà Năm không nói được nữa, Bà đã vĩnh viễn ra đi để được sống với chồng Bà bên kia thế giới, có lẽ gần gũi hơn với Quê Hương Đất Tổ, ở đó có nhiều bạn bè thân thiết và có cái chợ Bà Chiểu thân thương gắn bó với Bà từ những ngày khốn khổ xa xưa…

 

https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/ba-nam-di-my/

Người Việt Cứ Liều Mạng Ra Đi, Vì Sao? - Mạc Văn Trang

Người đi lậu qua biên giới vào Mỹ, đang dựng trại nghỉ trong đêm (Robert Gauthier/Los Angeles Times via Getty Images)


Càng đi nhiều càng thấy đất nước mình đẹp quá: Núi rừng, sông, biển, cánh đồng… bị tàn phá biết bao nhiêu mà vẫn còn đẹp lắm! Dân mình, có người thế này thế nọ, nhưng sao thật dễ thương, dễ gần, đề hoà đồng cùng nhau. Đất đai, khí hậu nước mình, quanh năm gieo hạt gì xuống cũng có thể ra hoa trái, sum suê…

Gần đây ông Nguyễn Phú Trọng luôn khẳng định: Nước ta đã bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay chưa? Nào là chỉ số Hạnh phúc cao; Tuổi thọ cao; nào GDP liên tục tăng trưởng cao 5-6%; nào nhà cao tầng san sát; nào xe hơi chật đường; nào ổn định xã hội chính trị; đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ồ ạt…


Nhưng tại sao vẫn nhiều người bỏ nước ra đi? Sau 1975 và cho đến nay, những người tị nạn cộng sản ra đi thì dễ hiểu; Những người đi du học, đi tìm cơ hội phát triển chính đáng cũng dễ hiểu; Những người đi theo diện sum họp gia đình hợp pháp cũng dễ hiểu… Những người kiếm nhiều tiền bất hợp pháp, chạy người, chạy của ra nước ngoài cũng dễ hiểu…
Khó hiểu là có những người bỏ ra 60 – 70.000 usd trốn lủi, bất hợp pháp vào Mỹ, vào châu Âu để lao động thô sơ. Họ phần lớn là những người trẻ khoẻ; với số tiền bỏ ra như vậy, họ có thể làm ăn sinh sống ở quê nhà khá no đủ, tươm tất. Nhưng cứ liều mình ra đi!?

Tôi đã gặp một số người Việt sống bất hợp pháp ở Ba Lan, Pháp. Họ cứ sống trốn lủi, cảnh sát có bắt, nhốt ít ngày lại thả ra. Họ phải bỏ ra khá nhiều tiền mới sang được bên đó; sang đó lại đi kiếm tiền. Bất chấp hiểm nguy, khổ ải, mất nhân phẩm, danh dự! …

Vụ 39 người chết ngạt trong container khi trốn vào nước Anh, năm 2019 là một thảm cảnh bi thương, kinh hoàng. Nhưng rồi vẫn tiếp tục nhiều người trốn theo cách đó một cách tinh vi hơn…


Gần đây đài RFA có bài tường thuật “Người Việt đánh cược cả cuộc đời khi vượt hàng rào biên giới vào Mỹ từ Mexico”, của tác giả Cao Nguyên. Trong bài cho thấy, có phỏng vấn mấy nhân vật, có hình ảnh, clip ghi lại cảnh từng nhóm vài chục người băng đồng, trèo rào… vào Mỹ.

Bài báo cho biết: “Gần 6.000 người Việt đã luồn lách qua những cánh rừng, những hoang mạc đầy bất trắc gần biên giới đường bộ Mexico để leo rào vào Mỹ một cách bất hợp pháp. Họ đánh cược tài sản, tuổi thanh xuân và cả tính mạng của mình với hy vọng mơ hồ rằng sẽ định cư tại xứ cờ hoa.”

…“Những di dân từ Việt Nam cho biết tổng chi phí mà họ phải trả cho đường dây đưa người đi vào khoảng từ 60 đến 75 ngàn USD tuỳ theo con đường mà mỗi người tới được Mexico.

Thông thường, người vượt biên sẽ phải ứng trước khoảng 5 – 10 ngàn USD để nhận được thẻ thường trú nhân giả của Nhật Bản. Với thẻ này, người Việt có thể nhập cảnh Mexico mà không cần visa. Qua được hải quan Mexico, họ tiếp tục đóng thêm 30 ngàn USD, và khi đã trả hết số tiền còn lại, tầm khoảng hơn 30 ngàn USD nữa, họ sẽ được dẫn đường qua Mỹ”… Trích RFA

Tất nhiên mình không ở vào hoàn cảnh của họ thì không hiểu rõ vì cái gì? Do đâu mà họ liều mình như vậy?

Nhưng với tư cách các nhà Lãnh đạo quốc gia, các nhà nghiên cứu Văn hóa, Xã hội liệu có đặt câu hỏi: Vì cái gì? Do đâu? nhiều người Việt Nam lại có lựa chọn giá trị sống như vậy?

Có phải những người Việt này có nét đặc trưng: Liều mạng, không sợ khổ, không sợ nhục, không sợ chết, miễn là kiếm được nhiều tiền bằng bất cứ cách nào?


Mạc Văn Trang 

Đặt Tên Con - Sỏi Ngọc


Chúng tôi lấy nhau vào tháng năm 2023, dự tính sẽ có con đầu lòng vào 2024 vì chúng tôi sấp sỉ ngưỡng 30 tuổi, sợ ngoài tuổi đẹp và mạnh khỏe nhất để sanh con khoảng 24-25; tôi và vợ lên kế hoạch đi chơi xa “lấy hứng” và cũng để sau khi có con sẽ giành nhiều thời gian trông nom dậy dỗ con cái.

Trong chuyến đi chơi ba tuần ở Nhật với những phong cảnh lãng mạn hữu tình, vợ tôi đã thụ thai.

Tin nóng sốt vui mừng này được nhanh chóng truyền khắp trong họ hàng nội ngoại hai bên, tôi là đứa con trai đầu tiên lấy vợ trong họ hàng của hai bên gia đình, giờ đây vợ tôi mang bầu cũng là đứa cháu nội đầu tiên của cả hai gia tộc. 

Vợ tôi mang bầu là cả một việc làm tôi vừa hạnh phúc lẫn mệt tâm trí, lúc thì mẹ vợ dặn dò không được ăn đồ sushi vì là đồ sống dễ gây đau bụng ảnh hưởng đến thai nhi, lúc thì mẹ đẻ tôi nhắn không được với những đồ ở xa tầm tay, hay leo trèo lên cao lấy đồ mà phải nhờ chồng làm. Rất nhiều thứ nên và không nên được hai bà mẹ của cả hai bên bầy đặt ra làm cho vợ chồng tôi phải nhẹ nhàng vặn nhỏ cái cellphone lại giả vờ không nghe cuộc gọi chứ không thì cả ngày sẽ phải bận rộn tiếp phone thôi.

Cả một thời gian chín tháng vợ mang bầu đã làm tôi phải hy sinh không được đi đâu quá xa để nếu vợ cần gì thì phải có mặt ngay! Ngoài ra tôi vẫn phải bỏ ngủ trễ cuối tuần để đi lấy bánh cuốn hay mua thứ kem lạnh mà vợ tôi nổi cơn thèm lạ đời đòi ăn bất chợt!

Sở thích của riêng tôi là được đi chơi volleyball cuối tuần với các bạn, tôi không thể bỏ được, mà nếu đem bà bầu đi thì thấy cảnh nàng khệ nệ đi qua đi lại sốt ruột ôm cái bụng bự thì làm sao tôi còn hứng thú chơi nữa chứ! Thành ra tôi đã đem vợ lại nhà ba mẹ vợ chơi, khi nào xong sẽ đón nàng về.

Trong lúc ở nhà nàng, ba mẹ vợ đề nghị: 

- Các con đã đặt tên cho thằng cu bé là gì chưa?

- Dạ chưa…. Chúng con suy nghĩ mãi vẫn chưa đi đến quyết định được. Con nghĩ chắc còn hơi sớm quá.

- Cũng phải nghĩ tiếp đi chứ, con đã đến tháng thứ bẩy rồi… Nó ra đời là phải làm ngay giấy khai sinh đấy! ba nghĩ năm nay là con rồng thì đặt tên Long… 

- Trong lớp con có một tên Long rất bủn xỉn keo kiệt, con không đặt tên này đâu!

- Hay là… Lân đi! Phải đấy là Lân đi! … À mà nhà bên nội đã nghĩ tên gì cho cháu chưa?

- Mọi người cũng nghĩ như con là còn sớm quá nên chưa ai nói gì cả ạ.

- Phải đặt tên nào cho dễ khi đi học nữa, chứ tên Việt Nam của mình dài thòng lòng, cô giáo đọc mãi cũng không hết và còn đọc sai nữa thì chả ai hiểu gì!

Nghe vợ tôi nói những cái tên mà ông bà ngoại bên ấy muốn đặt, tôi đăm chiêu suy nghĩ, mới sực nhớ :

- Ừm nhỉ, cũng đến lúc phải quyết định đặt tên cho con là vừa. Mình cứ lo nào là trang trí căn phòng, mua quần áo tã lót, sữa… cho con mà quên mất điều quan trọng là phải cho con một cái tên thật ý nghĩa, chứ đâu phải gọi thằng cu bé là được đâu! Mà biết làm sao khi bên ngoại muốn đặt tên này, bên nội lại muốn đặt tên kia thì làm sao giải hòa được hai bên đây?! Từ chối bên ngoại hay bên nội cũng đều sợ làm buồn lòng họ, vì đây là cháu đầu lòng trong họ nên ai cũng muốn tên mình đưa ra được cha mẹ nó chọn! 

Vợ tôi bênh vực ý kiến của ba mẹ nàng :

- Ba em nói năm nay là năm con rồng, đặt tên Lân cũng ok đó!

- Nhưng gì Lân chứ? Phạm Lân?... Còn ông Nội muốn đặt nó là Nhật Lâm…

- Nhật Lâm có ý nghĩa gì?

- Tên của anh là Quang Nhật, lấy tên anh làm chữ lót cho con, còn Lâm là rừng, trong phong thủy Lâm là biểu tượng của sự thịnh vượng, phát triển, mang lại sức sống và tài lộc.

- Để em sẽ tìm hiểu thêm giữa Lân và Lâm rồi mình nói tiếp nhe! 

****

Tháng năm giao mùa giữa xuân và hạ, khí hậu thật mát mẻ, hoa lá nở rộ, con người cũng vui vẻ. Bố mẹ tôi sửa soạn đi dụ lịch Châu Âu, trước khi từ biệt tại phi trường, mẹ tôi có dặn dò: 

- Hai vợ chồng con nhớ giữ gìn sức khỏe cẩn thận nhé, con so có thể sanh sớm vài tuần như mẹ đã từng sanh con sớm đến ba tuần lễ đấy, sửa soạn va-li sẵn cho vợ con để có gì thì đi ngay vào nhà thương, bất kỳ việc gì cũng phải từ tốn, đừng quýnh lên sẽ hỏng chuyện nhe, bố mẹ đi khoảng ba tuần, có gì nhớ email cho mẹ biết.

- Dạ mẹ không lo, chúng con đã sửa soạn hết rồi, bố mẹ đi chơi về vào cuối tháng 5 thì vợ con mới sanh mà, bây giờ mới là đầu tháng 5 thôi.

- À rốt cuộc tên cháu bé thì con định là gì chưa?

- Con nghĩ sẽ chọn Nhật Lâm đó ạ!

- Gì cũng được tùy các con và bên ông bà ngoại quyết định cho vui vẻ nhé.

****

Bố mẹ tôi vừa lên máy bay rời khỏi, tôi đã nghe tiếng cellphone reo; tiếng thở hổn hển của vợ tôi:

- Anh à… em … đau bụng quá!

- Thật không? ….sao kỳ vậy?... em có chắc là đau bụng đẻ không?

-… Giờ này mà bảo em… giỡn hả? em …đau bụng lắm!

- Thở đi nhé, hít vào… thở ra… như mình đã học course đi!

- Em đã làm rồi…Anh ở đâu? …Gần về chưa?

- Anh đang đi về đây! … nhưng … em đau thế nào? Người ta bảo đến cuối tháng em mới sanh mà? Có phải lộn không? … gọi mẹ em xem bà nói thế nào?

- Em đau bụng lắm, … anh về nhanh đi nhe!

 

Nói rồi nàng cúp phone, tôi rối loạn không biết phải đi nhanh gấp về bằng cách nào nữa, đường kẹt xe như thế này! Không hiểu sao nàng lại đau sớm như vậy, có đúng đau đẻ không? nếu sanh sớm ba tuần có hại cho đứa bé không? nó có bị thiếu phần nào chưa phát triển hết không? Bao nhiêu câu hỏi lo lắng cho đứa con đầu tiên rối tung trong đầu.

Tôi quẹo phải, rồi quẹo trái, rồi quay lại con đường cũ, lòng vòng mãi vẫn đi lộn đường và không ra khỏi được chỗ kẹt này!

Rốt cuộc tôi cũng về đến nhà, nàng nằm ngay trên sofa sốt ruột như chờ đợi tôi lâu lắm rồi, thấy tôi nàng nhăn nhó :

- Sao anh về lâu thế? Em có phone cho bác sĩ rồi, bà nói em cứ từ từ chờ khi nào đau co thắt liên tiếp thì vào nhà thương là vừa, bây giờ bà cũng trên đường đến nhà thương đó. Anh lên lầu lấy giùm em giỏ quần áo nhe. 

Tôi quýnh lên :

- Em nhớ hít vào… thở ra nhe!

- Thưa anh, em đang hít đây, không hít, không thở làm sao sống!

****

Khi vợ tôi lên giường nằm chuẩn bị sanh, tôi cảm thấy rất yêu nàng và mình đang nợ nàng một mối nợ ân tình to lớn vậy!

Tôi sắp làm bố! Một trách nhiệm nặng nề nhưng mang tính thuyết phục! tôi không sao tả được cảm giác yêu thương và hạnh phúc trong tôi, tôi không trực tiếp mang nặng đẻ đau như người phụ nữ nhưng cả quá trình mang thai của nàng tôi đều hiện diện.

Đứng trước cảnh này tôi mới hiểu thế nào là tình phụ tử thiêng liêng, tình chồng nghĩa vợ. Lúc lấy vợ, tôi vẫn chưa trưởng thành, nhưng đứng ở ngưỡng cửa sắp làm bố tôi thấy mình thật quan trọng, quan trọng hơn cả làm một chức vị thật cao trong xã hội nữa! 

Hai cô y tá cùng lúc ra lệnh cho vợ tôi : 

- Push! Push! 

Vợ tôi mặt đầy mồ hôi hột, đỏ bừng cố rặn từ nãy giờ, thằng bé vẫn chả thấy xuất đầu lộ diện! không hiểu nó muốn chơi trò ú tim đến bao giờ nữa!

Nhìn nàng với những cơn đau rên xiết, chịu đựng, ráng bặm môi rặn mà tôi thấy lòng dạ quặn thắt; mặt nhễ nhại mồ hôi, đầu tóc rối xù tuy đã được cột gọn trong chiếc bao xanh của nhà thương, nàng nhăn nhó nhìn tôi :

- Em đã ráng hết sức rồi!

Ngay lúc ấy, tôi nhớ bố đã kể cho tôi nghe một câu chuyện khi tôi được sanh ra cùng nhà thương với con tôi hiện tại, tôi bất chợt phì cười mà không thể nào giữ được, hai cô y tá thấy tôi bật cười giữa lúc mặt ai cũng đang nghiêm trọng « làm việc », hai cô mới nhìn tôi và hỏi :

- Chắc ông thấy vui sắp được làm cha?

- Tôi xin phép được kể một câu chuyện vui, cũng có thể nó tiếp sức làm vợ tôi mạnh lên thêm khi đẩy cháu bé ra dễ dàng hơn: mọi người biết không? lúc mẹ tôi sanh tôi trong phòng sanh như thế này, hai cô y tá cũng bảo mẹ tôi push push, bố tôi đã tiếp sức mẹ bằng cách nắm chặt tay mẹ, cùng rặn với mẹ, cố gắng push, bỗng bố đưa tay lên ngăn tất cả mọi người lại nói « hãy khoan rặn! chờ tôi nhé! Tôi phải đi vệ sinh vì từ nãy đến giờ tôi push nhiều quá nên bây giờ phải đi đây, hãy chờ tôi ra rồi mình sẽ tiếp tục

Thế là mọi người đều ôm bụng cười, chờ bố tôi « đi tiện » xong ra mọi người mới tiếp tục push!

 

Sau khi tôi kể xong câu chuyện, cả phòng cùng cười, nhờ vậy vợ tôi lên tinh thần, có sức mạnh và tất cả chúng tôi cùng ráng một cú hết sức bình sinh, thằng bé văng ra ngoài một cách tuyệt diệu.

Tiếng khóc oe oe đầu tiên chào đời của nó vang lên làm nhói trái tim tôi, một cảm giác khó tả len vào từng thớ thịt mạch máu của trái tim, tôi được hai cô y tá hân hoan mời cắt rốn, cuộn nó lại để lên cân, vỏn vẹn có 2.65kg thôi, như con chuột con, tôi và nàng cùng chảy nước mắt hạnh phúc khi ôm cháu vào lòng. Cô y tá ịn bàn chân bé xíu của nó vào mực đen rồi in lên tờ giấy của nhà thương, cô cắt nghĩa :

- Đây là dấu in chân của đứa bé đầu tiên ra đời để không lộn với những đứa bé khác! Cũng giống như một loại lấy dấu vân tay mà thôi, nhưng vì còn quá bé không thể lấy dấu tay được nên lấy dấu chân. 

Hai cô y tá chúc mừng tôi đã lên chức CHA!

Tình thương yêu bảo bọc của cha mẹ rộn ràng trong tôi, cảm xúc lúc ấy không bút nào tả xiết. Tôi cảm thấy không gì hơn được tình phụ tử, tôi quyết tâm sẽ là người cha tốt, gương mẫu để cho con noi theo. 

Vợ tôi thì thào bên tai :

- Em sẽ đặt tên nó là Kylan!

- Ủa không phải Nhật Lâm sao?

- Không đâu! Nó sẽ tên là Kỳ Lân…Nhưng đi học thì tên là Kylan…

- Tại sao chứ? … sao em không nói gì với anh?

- Bây giờ em nói cũng không muộn mà!

- Vậy có ý nghĩa là gì? Em đã tra tự điển chưa? Tiếng Việt em không rành thì làm sao đặt cho nó chứ?

- Kỳ Lân là biểu tượng của sự may mắn và thịnh vượng, còn trong phong thủy Kỳ Lân được sử dụng để thu hút tài lộc và phúc lành, nó còn là hóa thân của lòng nhân từ và công lý, là tượng trưng cho sự cân bằng giữa sức mạnh và lòng từ bi. Tóm lại Kỳ Lân, sự kết hợp với vẻ ngoài uy nghiêm và tính cách từ bi trở thành một biểu tượng văn hóa sâu sắc, truyền tải nhiều giá trị và niềm tin tốt đẹp trong đời sống của người dân Á Đông. Em đã đọc được điều này trong tự điển nên vội vàng đặt cho con mình; ngoài ra chính con Kỳ Lân này là kỷ niệm của cả hai chúng ta khi mình cùng vào đoàn Phật Tử ở chùa Quan Âm, anh làm đầu con lân, còn em là người đánh trống cho đoàn lân múa lần đầu tiên cả đoàn mình trình diễn ở Garden Grove, Cali ở Mỹ vao dịp Tết anh có nhớ không? lúc ấy chúng mình mỗi người một công việc mà chưa thân nhau, nên em muốn con mình nhắc nhở mãi kỷ niệm của chúng ta.

Tôi xoa đầu nàng : 

- Thôi được, em đã chọn, đã thích tên này và tra cứu đến tận nơi rồi thì anh cũng chấp nhận thôi. Em đã sanh cho anh một đứa con thật đẹp, nhiều công sức quá, món quà này là phần thưởng quý báu nhất của em giành cho anh. Thực ra mà nói giá trị thực sự của một con người không nằm ở cái tên mà ở những hành động, phẩm chất và đóng góp của họ cho xã hội.

Một người có thể làm vẻ vang cho xã hội bằng cách sống một cuộc sống có ý nghĩa, có đạo đức và tạo ra những ảnh hưởng tích cực…

Tôi không hiểu sao thường ngày mẹ cứ hay nói tôi còn là đứa trẻ con, nhưng hôm nay trước một sinh linh bé nhỏ mới chào đời, tôi trở thành một « triết gia», tôi nghĩ đủ thứ cao siêu, tôi không còn chỉ nhìn những điều tầm thường nữa, mà biết nhường nhịn, biết kiên nhẫn và bao dung hơn, thật kỳ lạ! Chả lẽ sự ra đời của thằng cu con lại đổi tính cách và sự suy nghĩ của bố nó như thế sao?

Tôi chụp vội vài tấm hình của Kylan khi vừa lọt lòng mẹ, gởi cho bố mẹ tôi đang đi du lịch ở Greece:

- Mẹ thấy nó có giống con không?

Tôi tưởng tượng mẹ đã không kìm được những giọt nước mắt hạnh phúc khi nhận được những tấm hình của thằng cháu mới sanh, mẹ viết lại cho tôi thật ngắn gọn : 

- Cháu bé dễ yêu quá! có phải bị nằm lồng kiếng vì thiếu ba tuần không? quan trọng là sức khỏe thôi, vợ con cũng khỏe chứ? Chúc mừng các con nhé! 

Kylan là món quà yêu thương mà ông Trời giành cho gia đình nhỏ cũng như cho cả gia tộc hai bên nội ngoại, nó sẽ là chất keo gắn kết hai gia đình thêm chặt. Tôi chỉ mong ước một điều cho cháu nhiều sức khỏe, ăn no chóng lớn và sẽ là người hữu ích cho xã hội sau này.


Nhìn nó say ngủ trong lòng mẹ, tôi nhớ mình cũng đã từng như nó, từng được ấp ủ chở che, yêu thương và nuôi dậy thật tốt để có được ngày hôm nay.

Có con mới biết được công ơn cha mẹ cao dầy thế nào.

Cha là chiếc lá che sương,

Mẹ là bông lúa ngát hương giữa đồng,

Cha là trời rộng mênh mông,

Mẹ là đất mẹ, cho con vững vàng,

Nguyện cầu cha mẹ bình an,

Ơn sâu nghĩa nặng muôn vàn kính yêu.(khuyết danh)

 

Sỏi Ngọc,

May 25- 2024 

Gà Xào Lăn


Tôi không biết sao người ta gọi là gà xào lăn vì món này cũng tương tợ như cà ri nhưng đơn giản là chỉ cần xào qua chớ không phải nấu ninh lâu lắc như nấu cà ri mà ăn cũng được lắm. 


Vật liệu :

- 500 grs gà thigh fillet xắt miếng vừa ăn
- 1 muỗng cà phê bột nghệ
- nửa muỗng cà phê ớt khô
- 1 củ hành tây xắt múi
- 2 củ khoai tây luộc chín cắt lát dày khoảng 1cm
- 200ml nước cốt dừa





Cách làm

Ướp gà với bột nghệ, ớt khô, dầu ăn và chút muối để khoảng hai tiếng đồng hồ cho thấm gia vị. Trong lúc đó thì luộc hai củ khoai tây để nguội rồi cắt lát. (Nếu ai không thích khoai thì không cần thiết phải để).
Đợi gần ăn, bắc chảo lên bếp, chảo nóng cho gà vào xào nhanh tay, chế chút nước sôi cho thịt gà mau chín. Kế tiếp cho củ hành, khoai và nước cốt dừa vào. Nêm nếm cho vừa khẩu vị. Chờ tất cả sôi lại hết rồi tắt lò. Vậy là xong. Dễ và nhanh quá phải không các bạn.
Món này ăn với cơm hay bánh mì đều ngon.


Bon appétit!

Người Phương Nam