Tuesday, March 28, 2017

Âm Nhạc Miền Nam Và Những Ngày Xưa Thân Ái - Vũ Đông Hà (Danlambao)


Nếu ai hỏi tôi rằng sau ngày 30 tháng 4, 1975 cái gì mà cộng sản không thể "giải phóng" được; cái gì vẫn âm thầm nhưng vũ bão giải phóng ngược lại tâm hồn khô khốc của người dân miền Bắc lẫn nhiều cán binh cộng sản; cái gì vẫn miệt mài làm nhân chứng cho sự khác biệt giữa văn minh và man rợ, giữa nhân ái và bạo tàn, giữa yêu thương và thù hận; cái gì đã kết nối tâm hồn của những nạn nhân cộng sản ở cả hai miền Nam Bắc... Câu trả lời là Âm Nhạc Miền Nam.

Nếu ai hỏi tôi, ảnh hưởng lớn nhất để tôi trở thành người ngày hôm nay, biết rung động trước hình ảnh của Ngoại già lầm lũi quang gánh đổ bóng gầy dưới ánh đèn vàng, biết nhung nhớ một khe gió luồn qua hai tấm ván hở của vách tường ngày xưa nhà Mẹ, biết man mác buồn mỗi khi đến hè và trống vắng với một tiếng gà khan gáy ở sau đồi, biết tiếc nuối một mặt bàn lớp học khắc nhỏ chữ tắt tên người bạn có đôi mắt người Sơn Tây, biết ngậm ngùi trăn trở chỉ vì một tiếng rao hàng đơn độc đêm khuya... Câu trả lời là Âm Nhạc Miền Nam.

Âm Nhạc Miền Nam đã trở thành một chất keo gắn chặt cuộc đời tôi vào mảnh đất mang tên Việt Nam. Âm Nhạc Miền Nam đã làm tôi là người Việt Nam.

*
Tôi lớn lên theo những con đường đất đỏ bụi mù trời và cây reo buồn muôn thuở. Niềm say mê âm nhạc đơm mầm từ các anh lớn của Thiếu và Kha đoàn Hướng Đạo Việt Nam, trổ hoa theo những khúc hát vang vang của các anh giữa vùng trời Đạt Lý đang vào mùa cà phê hoa trắng nở: "Tôi muốn mọi người biết thương nhau. Không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau. Tôi muốn thấy tình yêu ban đầu..." Các bậc đàn anh như nhạc sĩ Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang của Phượng Hoàng đã lót đường nhân ái cho đàn em nhỏ chúng tôi chập chững trở thành người, để biết ngước mặt nhìn đời và "cười lên đi em ơi, dù nước mắt rớt trên vành môi, hãy ngước mặt nhìn đời, nhìn tha nhân ta buông tiếng cười..."

Những đêm tối, giữa ngọn đồi nhiều đại thụ và cỏ tranh, bên nhau trong ánh lửa cao nguyên chập chờn, chúng tôi cảm nhận được niềm hãnh diện Việt Nam với bước chân của cha ông và bước chân sẽ đi tới của chính mình: "Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng. Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm. Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng chân tươi. Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời..." Và anh Nguyễn Đức Quang, người nhạc sĩ của thị xã đèo heo hút gió đã trở thành thần tượng của chúng tôi. Có những buổi chiều buông trong Rừng Lao Xao bạt ngàn, những đứa bé chúng tôi theo anh ngậm ngùi số phận "Xương sống ta đã oằn xuống, cuộc bon chen cứ đè lên. Người vay nợ áo cơm nào, thành nợ trăm năm còn thiếu. Một ngày một kiếp là bao. Một trăm năm mấy lúc ngọt ngào. Ôi biết đến bao giờ được nói tiếng an vui thật thà." Nhưng cũng từ anh đã gieo cho chúng tôi niềm lạc quan tuổi trẻ: "Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm bao ưu phiền. Hy vọng đã vươn lên trong lo sợ mùa chinh chiến. Hy vọng đã vươn lên trong nhục nhằn tràn nước mắt. Hy vọng đã vươn dậy như làn tên..." Và từ anh, chúng tôi hát cho nhau "Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi. Mà phải cùng nhau ta làm cho tươi mới." Cô giáo Việt văn của tôi đã mắng yêu tôi - tụi em thuộc nhạc Nguyễn Đức Quang hơn thuộc thơ của Nguyễn Công Trứ!

Nguyễn Công Trứ. Đó là ngôi trường tuổi nhỏ có cây cổ thụ già, bóng mát của tuổi thơ tôi bây giờ đã chết. Tôi nhớ mãi những giờ cuối lớp tại trường, Cô Trâm cho cả lớp đồng ca những bài hát Bạch Đằng Giang, Việt Nam Việt Nam, Về Với Mẹ Cha... Đứa vỗ tay, đứa đập bàn, đứa dậm chân, chúng tôi nở buồng phổi vang vang lên: "Từ Nam Quan, Cà Mau. Từ non cao rừng sâu. Gặp nhau do non nước xây cầu. Người thanh niên Việt Nam. Quay về với xóm làng. Tiếng reo vui rộn trong lòng..." Nhìn lên lớp học lúc ấy, có những biểu ngữ thủ công nghệ mà cô dạy chúng tôi viết: Tổ quốc trên hết, Ngày nay học tập ngày sau giúp đời, Không thành công cũng thành Nhân... Nhưng đọng lại trong tôi theo năm tháng vẫn là những câu hát "Tình yêu đây là khí giới, Tình thương đem về muôn nơi, Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người..."

Cô giáo của tôi đã ươm mầm Lạc Hồng vào tâm hồn của chúng tôi và cứ thế chúng tôi lớn lên theo dòng suối mát, theo tiếng sóng vỗ bờ, theo tiếng gọi lịch sử của âm nhạc Việt Nam, để trở thành những công dân Việt Nam yêu nước thương nòi và hãnh diện về hành trình dựng nước, giữ nước của Tổ tiên.
Trong cái nôi nhiều âm thanh êm đềm nhưng hùng tráng ấy, trừ những ngày tết Mậu Thân khi tiếng đạn pháo đì đùng từ xa dội về thành phố, cho đến lúc chui xuống gầm giường nghe tiếng AK47 và M16 bắn xối xả trước nhà vào ngày 10 tháng 3, 1975, tuổi thơ tôi được ru hời bởi dòng nhạc trữ tình của miền Nam để làm nên Những Ngày Xưa Thân Ái của chúng tôi.

Những ngày xưa thân ái xin buộc vào tương lai 
Anh còn gì cho tôi tôi còn gì cho em 
Chỉ còn tay súng nhỏ giữa rừng sâu giết thù 
Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho em...

Các anh, những người anh miền Nam đã khoát áo chinh nhân lên đường đối diện với tử sinh, làm tròn lý tưởng Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm, đã hy sinh cuộc đời các anh và để lại sau lưng các anh những ngày xưa thân ái cho đàn em chúng tôi. Nhờ vào các anh mà chúng tôi có những năm tháng an lành giữa một đất nước chiến tranh, triền miên khói lửa.

Lần đầu tiên, chiến tranh tưởng như đứng cạnh bên mình là khi chúng tôi xếp hàng cúi đầu đưa tiễn Thầy của chúng tôi, là chồng của cô giáo Việt Văn, một đại úy sĩ quan Dù đã vị quốc vong thân. Cô tôi, mồ côi từ nhỏ, một mình quạnh quẻ, mặc áo dài màu đen, tang trắng, đứng trước mộ huyệt của người chồng còn trẻ. Cô khóc và hát tặng Thầy lần cuối bản nhạc mà Thầy yêu thích lúc còn sống - "Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo... Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa! Trên cõi đời này, trên cõi đời này. Từ nay mãi mãi không thấy nhau..."

Và tôi say mê Mùa Thu Chết từ dạo đó. Trong những cụm hoa thạch thảo đầy lãng mạn ấy có đau thương đẫm nước mắt của Cô tôi. Có hình ảnh lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ nắp quan tài của người Thầy Đại úy Sĩ quan Binh chủng Nhảy Dù vào mùa Hè hầm hập gió Nồm năm ấy.

*
Từ những ngày xa xăm tuổi nhỏ, những người lính VNCH là thần tượng của chúng tôi. Tôi mơ được làm một người lính Dù bởi anh là loài chim quý, là cánh chim trùng khơi vạn lý, là người ra đi từ tổ ấm để không địa danh nào thiếu dấu chân anh, và cuối cùng anh bi hùng ở lại Charlie. Giữa những đau thương chia lìa của chiến tranh, những dòng nhạc của Trần Thiện Thanh đã cho tôi biết thương yêu, kính trọng những người lính không chân dung nhưng rất gần trong lòng chúng tôi. Những"cánh dù ôm gió, một cánh dù ôm kín đời anh" cũng là những cánh dù ôm ấp lý tưởng đang thành hình trong tâm hồn tuổi nhỏ của chúng tôi.

Nhìn lại quãng thời gian binh lửa ấy, tôi nhận ra mình và các bạn cùng lứa không hề biết rõ Phạm Phú Quốc là ai, chỉ biết và say mê huyền sử của một người được "Mẹ yêu theo gương người trước chọn lời. Đặt tên cho anh, anh là Quốc. Đặt tên cho anh, anh là Nước. Đặt tên cho Người. Đặt tình yêu Nước vào nôi", chỉ ước ao một ngày chúng tôi cũng được như anh, cũng sẽ là những "Thần phong hiên ngang chẳng biết sợ gì!" Chúng tôi, nhiều đứa núi đồi, rừng rú, chưa bao giờ thấy biển nhưng thèm thuồng màu áo trắng và đại dương xanh thẳm, thuộc lòng câu hát "Tôi thức từng đêm, thơ ấu mà nghe muối pha trong lòng. Mẹ là mẹ trùng dương, gào than từ bãi trước ghềnh sau. Tuổi trời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi. Nên năm hăm mốt tuổi, tôi đi vào quân đội. Mà lòng thì chưa hề yêu ai". Chúng tôi cũng không tìm đọc tiểu sử, cuộc chiến đấu bi hùng của Đại tá Nhảy Dù Nguyễn Đình Bảo, cũng không biết địa danh Charlie nằm ở đâu, nhưng Đại tá Nguyễn Đình Bảo là biểu tượng anh hùng của chúng tôi để chúng tôi thuộc lòng khúc hát "Toumorong, Dakto, Krek, Snoul. Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu. Anh! Cũng anh vừa ở lại một mình, vừa ở lại một mình. Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành." Chúng tôi không biết "Phá" là gì, "Tam Giang" ở đâu, nhà thơ Tô Thùy Yên là ai, nhưng "Chiều trên phá Tam Giang anh chợt nhớ em, nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận. Em ơi, em ơi..." đã thân thiết chiếm ngự tâm hồn để chúng tôi biết thương những người anh chiến trận đang nhớ người yêu, nhớ những người chị, cô giáo của chúng tôi ngày ngày lo âu, ngóng tin từ mặt trận xa xăm.

Trong cái nôi của những ngày xưa thân ái ấy, từ nơi khung trời đầy mộng mơ của mình chúng tôi chỉ biết đến nỗi niềm của các anh bằng những "Rừng lá xanh xanh lối mòn chạy quanh, Đời lính quen yêu gian khổ quân hành". Giữa mùa xuân pháo đỏ rộn ràng con đường tuổi thơ thì chính âm nhạc nhắc cho những đứa bé chúng tôi biết đó cũng là "ngày đầu một năm, giữa tiền đồn heo hút xa xăm, có người lính trẻ, đón mùa xuân bằng phiên gác sớm". Giữa những sum vầy bình an bên cạnh mai vàng rực rỡ, thì ở xa xăm có những người con rưng rưng nhớ đến Mẹ già và gửi lời tha thiết "bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường, không lẽ riêng mình êm ấm, Mẹ ơi con xuân này vắng nhà..." Âm nhạc Việt Nam đã gieo vào tâm hồn chúng tôi hình ảnh rất bình thường, rất người, nhưng lòng ái quốc và sự hy sinh của thế hệ đàn anh chúng tôi - những người lính VNCH - thì ngời sáng. Và chúng tôi biết yêu thương, khâm phục, muốn noi gương các anh là cũng từ đó.

*
Sau ngày Thầy hy sinh, chúng tôi gần gũi với Cô giáo Việt Văn của mình hơn. Nhiều đêm thứ bảy, tôi và các bạn ghé nhà thăm Cô. Đó là lúc chúng tôi đến với Một thời để yêu - Một thời để chết. Chúng tôi bắt đầu chạm ngõ tình yêu với những Vũng lầy của chúng ta, Con đường tình ta đi, Bây giờ tháng mấy, Ngày xưa Hoàng Thị, Tình đầu tình cuối, Em hiền như Ma Soeur, Trên đỉnh mùa đông, Trả lại em yêu... Đó là lúc Cô đọc thơ Chiều trên Phá Tam Giang của Tô Thùy Yên cho chúng tôi nghe, giảng cho chúng tôi về tài nghệ "thần sầu" của Trần Thiện Thanh trong lời nhạc "anh chợt nhớ em, nhớ ôi niềm nhớ... ôi niềm nhớ........ đến bất tận. Em ơi... em ơi!..." khi diễn tả nỗi nhớ ngút ngàn, và sau đó chú Trần Thiện Thanh Toàn - em ruột của nhạc sĩ Nhật Trường ở Sài Gòn lên thăm Cô, vừa đàn vừa hát. Những buổi tối này, mình tôi ở lại với Cô tới khuya. Cô đọc thơ và hát nhạc phổ từ thơ của Nguyễn Tất Nhiên, chỉ cho tôi tính lãng đãng của lời nhạc Từ Công Phụng, khắc khoải của Lê Uyên Phương, mượt mà của Đoàn Chuẩn - Từ Linh, sâu lắng của Vũ Thành An... Và qua âm nhạc, Cô kể tôi nghe chuyện tình của Cô và Thầy. Hai người đến với nhau khởi đi từ bản nhạc mà Cô hát khi Cô còn là nữ sinh Đệ Nhất và Thầy là Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Bản nhạc ấy có những dòng như sau:

"Nhưng anh bây giờ anh ở đâu 
con ễnh ương vẫn còn gọi tên anh trong mưa dầm
tên anh nghe như tiếng thở dài của lòng đất mẹ 
Dạo tháng Ba tên anh lẫn trong tiếng sấm đầu mùa mưa
nghe như tiếng gầm phẫn nộ đến từ cuối trời."

Thầy và cô tôi yêu nhau từ sau khúc hát Người Tình Không Chân Dung ấy và "người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy này" cũng là định mệnh Thầy, của cuộc tình bi thương giữa một cô giáo trẻ và người lính VNCH.

Cô tôi sống một mình và qua đời vào năm 2010. Bạn cùng lớp của tôi là Phương lùn, vào một ngày cuối năm, từ Sài Gòn trở về Ban Mê Thuột, xách đàn đến trước mộ Cô và hát lại "Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch Thảo" để thay mặt những đứa học trò thơ ấu kính tặng hương hồn của Cô. Còn tôi, năm tháng trôi qua nhưng tôi biết rõ trong dòng máu luân lưu và nhịp đập của tim mình vẫn đầy tràn những thương yêu mà Cô đã gieo vào tôi bằng Âm Nhạc Miền Nam.

*
Một buổi tối chúng tôi ngồi hát với nhau. Các bạn từ Hà Nội, Nam Định, Yên Bái, Đà Nẵng, Sài Gòn... nhưng chỉ có mình tôi là sinh ra và lớn lên trước 1975. Các bạn tôi, hay đúng ra là những người em đang cùng đồng hành trên con đường đã chọn, đã thức suốt đêm hát cho nhau nghe. Rất tự nhiên, rất bình thường: toàn là những ca khúc của miền Nam thân yêu. 

Đêm hôm ấy, cả một quãng đời của những ngày xưa thân ái trong tôi sống lại. Sống lại từ giọng hát của những người em sinh ra và lớn lên trong lòng chế độ độc tài. Các em hát cho tôi nghe về những người lính miền Nam mà các em chưa bao giờ gặp mặt "Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó, đem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ, đem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ, anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về...". Tôi hát cho các em mình về những ngày tháng mộng mơ trước "giải phóng" của những "Con đường tuổi măng tre, nắng vàng tươi đẹp đẽ, bóng người dài trên hè, con đường tình ta đi..." Các em tâm sự về cảm nhận đối với người lính VNCH qua những dòng nhạc êm đềm, đầy tình người giữa tàn khốc của chiến tranh: "Tôi lại gặp anh, người trai nơi chiến tuyến, súng trên vai bước lê qua đường phố;  tôi lại gặp anh, giờ đây nơi quán nhỏ,  tuổi 30 mà ngỡ như trẻ thơ".. Tôi chia sẻ với các em về nỗi ngậm ngùi quá khứ: "Như phai nhạt mờ, đường xanh nho nhỏ, hôm nay tình cờ, đi lại đường xưa đường xưa. Cây xưa còn gầy, nằm phơi dáng đỏ, áo em ngày nọ, phai nhạt mây màu, âm vang thuở nào, bước nhỏ tìm nhau tìm nhau"... 

Đêm ấy, khi các bạn nói lên cảm nhận về những mượt mà, êm ả, nhân ái của Âm Nhạc Miền Nam, tôi đã tâm sự với các bạn rằng: Chỉ cần lắng nghe và hát lên những dòng nhạc ấy, các em sẽ hiểu thấu được những mất mát khủng khiếp của con người miền Nam. Những mất mát không chỉ là một cái nhà, một mảnh đất, mà là sự mất mát của cả một đời sống, một thế giới tâm hồn, một đổ vỡ không bao giờ hàn gắn lại được. Khi những mượt mà, nhân ái ấy đã bị thay thế bởi những "Bác cùng chúng cháu hành quân" và "Tiến về Sài Gòn" thì các em hiểu được tuổi thanh xuân và cuộc đời của những thế hệ miền Nam đã bị đánh cắp hay ăn cướp như thế nào.

*
Gần 42 năm trôi qua, Âm Nhạc Miền Nam vẫn như dòng suối mát trôi chảy trong tâm hồn của người dân Việt. Chảy từ đồng bằng Cửu Long, xuôi ngược lên Bắc, nhập dòng sông Hồng để tưới mát tâm hồn của mọi người dân Việt đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa bạo tàn cộng sản. Dòng suối trong mát ấy cũng cuốn phăng mọi tuyên truyền xảo trá của chế độ về xã hội, con người miền Nam trước 1975 cũng như về tư cách, phẩm giá, lý tưởng của những người lính VNCH và tình cảm trân quý, yêu thương của người dân miền Nam dành cho họ.

Gần 42 năm trôi qua, trong tuyệt vọng của những kẻ thật sự đã thua trận trong cuộc chiến giữa chính nghĩa và gian tà, nhà cầm quyền cộng sản đã tìm mọi cách để tiêu diệt Âm Nhạc Miền Nam. Nhưng họ không biết rằng, dòng âm nhạc đó không còn là những bản in bài hát, những CD được sao chép, bán buôn... Âm Nhạc Miền Nam đã trở thành máu huyết và hơi thở của người dân Việt, bất kể Bắc - Trung hay Nam, bất kể sinh trưởng trước hay sau 1975. Bạo tàn và ngu dốt có thể đem Âm Nhạc Miền Nam vào những danh sách cấm đoán vô tri vô giác, nhưng không bao giờ đem được Âm Nhạc Miền Nam ra khỏi con người Việt Nam.

Ai giải phóng ai? Hãy hỏi Con Đường Xưa Em Đi và đốt đuốc đi tìm xem Bác Cùng Chúng Cháu Hành Quân đang nằm trong cống rãnh nào trên những con đường Việt Nam!!!

Monday, March 27, 2017

Cõi Nhân Gian - Đỗ Công Luận

Sinh Nhật Thứ 426 Năm Cha Đẻ Chữ Quốc Ngữ: Xứ Sở Này Nợ Ông Ấy Lời Tri Ân - LS Đặng Đình Mạnh


Thái Hà (13.03.2017) - Kỷ niệm 426 năm ngày sinh Cha Alexander Rhodes, người khai sinh chữ Quốc ngữ (15/3/1591 – 2017)

Khi đọc những dòng chữ Việt ngữ này, là bạn đang chiêm ngưỡng tác phẩm của các linh mục thừa sai Dòng Tên gồm các cha Gaspar De Amaral, cha Antonio Barbosa, cha Francisco De Pina và cha Alexandre De Rhodes, tất cả họ đều là tác giả của quốc ngữ mà người Việt ta đang sử dụng hàng ngày.

Với linh mục Gaspar De Amaral, cha đã soạn cuốn từ điển Việt – Bồ. Với linh mục Antonio Barbosa, cha soạn cuốn từ điển Bồ – Việt. Với linh mục Francisco De Pina, được cho là cha đã dựa vào cách phát âm tiếng Bồ để chuyển tự ghi chép tiếng Việt khi ông vào Đàng Trong (Từ sông Gianh trở vào Nam). Nhưng các cha đều mất khá sớm, tuy vậy, cùng với một số linh mục khác trong giai đoạn tiên khởi này, các cha đã giúp đặt nền móng đầu tiên cho quốc ngữ Việt Nam.

Với linh mục Alexandre De Rhodes, thì cha đã dựa vào hai công trình từ điển nêu trên và bổ sung thêm phần La tinh để hình thành nên cuốn từ điển Việt – Bồ – La.

Thực tế, chính việc bổ sung phần La tinh của cha Alexandre De Rhodes đã trở thành đóng góp quan trọng bậc nhất giúp hình thành nên chữ viết theo lối La tinh mà sau đó nhanh chóng trở thành quốc ngữ Việt Nam.

Đánh giá về vai trò của linh mục Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh nên quốc ngữ Việt Nam, tờ Nguyệt San MISSI do các linh mục Dòng tên người Pháp quản lý đã từng viết nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, đại lược như sau: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, cha Alexandre De Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”.

Quả vậy, khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách in quyển từ điển và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại nhà in Vatican – Roma, thì cha Alexandre De Rhodes đã giải phóng cho nước Việt Nam về chữ quốc ngữ.

Bởi lẽ trước đó, tương tự như Nhật Bản và Cao Ly (Triều Tiên), thì người Việt Nam sử dụng lối chữ viết tượng hình, biểu ý của người Tàu hoặc chữ nôm do tự sáng chế và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Cao Ly mới chế biến ra chữ viết riêng của họ, nhưng vẫn không theo cách viết La tinh nên bị hạn chế nhiều. Còn người Nhật Bản thì sau nhiều lần thử nghiệm chế biến lối chữ viết khác, nhưng cuối cùng đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình, biểu ý của người Tàu.

Trong khi đó, chính người Tàu dưới chế độ cộng sản của Mao Trạch Đông cũng đã từng tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Alexandre De Rhodes, đã tiến bộ trước người Tàu đến hơn ba thế kỷ rưỡi (1651 – 1017 – tính từ năm in cuốn từ điển Việt – Bồ – La đến thời điểm hiện nay.

Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Alexandre De Rhodes khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai Dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, chính cha Alexandre De Rhodes là người hệ thống hóa, hoàn tất công trình làm ra chữ quốc ngữ thành công vào năm 1651, tức là năm mà cuốn tự điển Việt – Bồ – La chào đời tại nhà in Vatican – Roma.
Thế nên, chính tại nhà in Vatican ở Roma là nơi mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình, và chính năm 1651 cũng là năm khai sinh chính thức của chữ quốc ngữ Việt Nam.

Theo đó, chữ viết theo lối La tinh ban đầu được các nhà truyền giáo đặt nền móng cho việc sử dụng trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đến khi được người dân Việt Nam chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, thì mặc nhiên nó đã tự mình được nâng cấp thành chữ quốc ngữ.

Ghi nhận công nghiệp của cha Alexandre De Rhodes đối với xứ sở, năm 1941, một tấm bia kỷ niệm nhân ngày sinh nhật thứ 350 của cha đã được dựng ở gần bên bờ Hồ Gươm trước cửa đền bà Kiệu – Hà Nội. Đến năm 1957, khi Hà Nội thuộc sự quản lý của chính quyền Cộng Sản thì bia đã bị gỡ bỏ.

Chính quyền Sài Gòn cũ đặt tên ông cho một con đường tọa lạc trước mặt Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, đối xứng với phía bên kia là đường Hàn Thuyên, tên danh sĩ được ghi nhận có công phát triển và phổ biến lối chữ Nôm. Sau năm 1975, chính quyền cộng sản đổi tên đường thành Thái Văn Lung và bây giờ thì đã trả lại tên cũ là Alexandre De Rhodes cho con đường này.

Về tiểu sử: Nguyên, cha Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) sinh ngày 15/03/1591 (hay 1593?) tại vùng Avignon, miền nam nước Pháp. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn ở vùng Avignon là đất của Giáo Hoàng. Ông gia nhập Dòng Tên tại Roma năm 1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển mạnh mẽ.

Đầu năm 1625, cha Alexandre De Rhodes đến Việt Nam bắt đầu từ Hội An. Cha bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của cha. Nhưng cuộc đời truyền giáo của cha ở đây rất gian nan, trong vòng 20 năm, cha bị trục xuất đến sáu lần. Đến năm 1645, cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Cha mất ngày 5/11/1660 ở Iran, thọ 69 tuổi.

Hiện nay, ở Việt Nam đã từng xuất hiện ý kiến phủ nhận công lao đóng góp của cha Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh chữ quốc ngữ, một trong số họ nêu quan điểm : “Alexandre De Rhodes làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ một lợi ích nhỏ nhoi nào của người Đại Việt cả. Người Việt Nam đã tận dụng chữ quốc ngữ, mà một số cố đạo đã đặt ra, với sự góp sức của một số con chiên người Đại Việt, để làm lợi khí cho việc giảng đạo, thành lợi khí của chính mình để phát triển văn hóa dân tộc, để chuyển tải một cách đầy hiệu lực những tư tưởng yêu nước và những phương thức đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây chẳng qua là chuyện “gậy ông đập lưng ông” mà thôi. [1]

Riêng đối với công chúng, thì:
– Lối chữ viết đã trở thành quốc ngữ của xứ sở với chín mươi triệu đồng bào cả trong và ngoài nước cùng sử dụng;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện những dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ thuở hồng hoang đến nay;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện lời ru “Ầu ơ …” ân cần của mẹ từ ngày sinh ra ta làm kiếp người;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện sự yêu thương giữa những thành viên trong gia đình, giữa những đôi tình nhân, giữa những người tri kỷ …
– Lối chữ viết được dùng thể hiện ca từ những nhạc phẩm bất tử như Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng, Trưng Nữ Vương, Lòng mẹ, Tình ca …
– Lối chữ viết mà dân ta có thể tự hào là riêng biệt trong khi rất nhiều quốc gia khác, kể cả nhiều cường quốc vẫn còn phải vay mượn (Úc, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Ấn Độ, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Đại Hàn …);

Thì người khai sinh của lối chữ viết ấy chắc chắn phải là ÂN NHÂN của xứ sở mình, bất kể đến quốc tịch của họ, bất kể đến tôn giáo của họ và bất kể đến động cơ của họ khi khai sinh lối chữ ấy !
Và với chế độ :
– Lối chữ viết được Ông Hồ Chí Minh dùng để viết lời Tuyên ngôn độc lập khai sinh chế độ;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện Hiến pháp quy định sự độc tôn chính trị của Đảng Cộng Sản;
– Lối chữ viết được dùng trong tất cả mọi sinh hoạt chính trị, hành chính, xã hội, kinh tế, giáo dục, văn hóa …
– Lối chữ viết mà hơn 700 tờ báo của chế độ đang dùng;
– Lối chữ viết mà hơn 24.000 vị tiến sĩ khoa bảng quốc gia đang dùng;
– Lối chữ viết mà hơn 400 trường Đại học, cao đẳng các loại và hàng vạn trường học các cấp đang dùng;

Nhưng lại không mấy ai trong số họ nhắc đến ngày sinh nhật của cha Alexandre De Rhodes, người có công khai sinh lối chữ viết mà nghiễm nhiên đã là quốc ngữ của xứ sở, như là một trong những ân nhân của dân tộc này thì thật là đáng thất vọng !
Tôi tin rằng, xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân!

LS Đặng Đình Mạnh
12-3-2017
Nguồn @Đinh Hữu Thoại

How Is It?


*Guy* : Doctor, my girlfriend is pregnant but we always use protection..                                    

*Doctor* : Let me tell you a story..... "There was once a hunter, who always carry a gun when he goes hunting. One day, he accidentally took an umbrella instead of his gun.. While walking, a lion suddenly jump in front of him.. In order to scare the lion, the hunter uses his umbrella like a gun and shoot the lion, and the lion died..".

[Fun Funky]

Kinh Ngạc 21 Hình Ảnh Khổ Luyện Chưa Từng Biết Của Các Cao Thủ Thiếu Lâm


Thiếu Lâm Tự đã trở nên quá quen thuộc với người Việt qua các bộ phim kiếm hiệp ấn tượng trên truyền hình. Các nhà sư nơi đây cũng có các buổi biểu diễn trước công chúng với các động tác võ thuật đẹp mắt và đầy uy lực, những màn ngạnh công “mình đồng da sắt” không hề hấn gì trước gươm đao, gạch đá… Nhưng nhiều người khó mà thấy được những khổ luyện phía sau công phu ấy… 

Theo Wiki, những nhà sư Thiếu Lâm tin rằng sức mạnh đến từ ý chí, và họ đã nâng cao giới hạn về sức chịu đựng của cơ thể thông qua luyện tập. Các kĩ năng võ thuật của họ chủ yếu xoay quanh các yếu tố thăng bằng, sức mạnh, chịu đựng và phòng thủ. Họ có thể chịu được những cơn đau khó tin trong khi vẫn bất động.
Dưới đây là 21 tấm ảnh ấn tượng ghi lại những màn khổ luyện tại ngôi chùa nổi tiếng này:

Luyện “Thiết đầu công”

Biểu diễn đập gạch lên đầu, lưu ý là các bạn không nên thử làm tại nhà

Chống chân vào tường đã khó, nhà sư này lại có thể tự giữ thăng bằng như thế này!

Ngồi thiền trên mỏm đá giữa trời

 Luyện tập thăng bằng trên mái nhà

Luyện bộ tấn

Luyện Thiết đầu công bên bờ suối

Đỉnh núi mờ sương, có thể thấy nơi đây rất lạnh

Tay không đấm vỡ đại hồng chum

 Một nhà sư gõ mõ và theo dõi những người khác luyện “đầu cứng”
Bích hổ du tường?

Mỗi người một kiểu, nhưng kiểu nào cũng đòi hỏi sức chịu đựng phi thường

Tiếp tục luyện Thiết đầu công, đầu cụng đầu… 

Chồng gạch dường như quá mong manh trước sức công phá của thiết chưởng. Một bức ảnh quá sống động!

Trong một bộ phim kiếm hiệp, sau khi rèn luyện (hoặc chịu phạt) theo hình thức này, tay của vị sư có thể đau đến mức không cầm đũa ăn cơm nổi 


Luyện ngạnh công cho cổ tay

Đập nước, nhìn rất đơn giản nhưng cũng là một hình thức luyện chưởng lực

 Thăng bằng trên mai hoa thung



Nhất Chỉ Thiên là tên gọi của một loại nội công Thiếu Lâm. Các tăng nhân phải luyện cho toàn lực tụ lại nơi một ngón tay. Khi phát công, kình phát ra có năng lực cực mạnh. Vì vậy, một ngón tay trồng cây chuối là điều người bình thường tuyệt đối không nên thử tập. 

Theo klyker.com
Quá Dương biên tập

daikynguyenvn.com

Hương Xưa Lối Cũ - Phong Lan

Đảng CSVN Có Thể Tự Diễn Biến Thành Dân Chủ Hay Không? - Mai Thanh Truyết (Danlambao)

"Cộng sản không thể nào sửa chữa mà cần phải đào thải nó" - Boris Yeltsin

Ông Thein Sein, một cựu tướng lãnh, đã nhậm chức Tổng Thống Miến Điện vào tháng 3 năm 2011, sau cuộc bầu cử đầu tiên của nước này trong 20 năm vào tháng 11 năm 2010. Kể từ đó, ông đã thực hiện một tiến trình cải cách ở Myanma, sau hơn 20 năm bị “cai trị” bởi một nhà cầm quyền quân phiệt độc đoán mà ông từng là một thành viên chính. Ông đã cam kết với Đại hội đồng LHQ ở New York vào năm 2012, cho biết Myanmar (Miến Điện) đang trên con đường cải cách dân chủ và hứa sẽ không quay trở lại. Chuyến thăm của ông đến Mỹ là lần đầu tiên bởi một nhà lãnh đạo Miến Điện trong 46 năm. 

Cuối cùng dân Miến Điện đã bắt đầu nhìn thấy ánh sáng dân chủ. Diễn tiến dân chủ này không khỏi gợi lên một chút ghen tức và hy vọng cho nhiều người Việt Nam, chừng nào Việt Nam mới thấy ánh sáng dân chủ từ đó đến nay, 2017?

Câu hỏi được đặt ra là, Đảng CSVN có thể tự diễn biến từ cơ chế chuyên chính vô sản thành dân chủ như Miến Điện hay không?

Mọi người con Việt đều hiểu dân chủ là gì và ao ước dân chủ, nhưng tới thế kỷ 21 này mà con dân Việt vẫn chưa được phép có dân chủ! 

Thật đáng buồn! 

Cản ngại to lớn cho tiến trình dân chủ ở Việt Nam mà ai cũng biết (ngay cả hơn 3 triệu đảng viên đảng CSVN cũng biết) chính là chế độ CSVN. Và điều này đã trở thành sự đồng thuận toàn dân, ngay cả người đảng viên “hạng bét” cũng hiểu mà không dám hở miệng mà thôi!

Nhưng vấn đề còn khúc mắc là ở chỗ làm cách nào “giải quyết” chế độ CSVN. 

Đề tài này đã gợi hứng ra nhiều ý kiến trong giới bình luận chính trị nhằm tập trung truy tìm phương cách xóa bỏ chế độ CSVN. 

Như vậy, phương cách giải quyết là gì?

Qua các bài viết chính trị phổ biến, có thể phân loại ra hai phương cách thường được hướng tới và cổ xúy là:

(1) Khuyến khích thay đổi từ từ hay còn gọi là tự diễn biến;

(2) Xóa bỏ hoàn toàn bằng một cuộc cách mạng toàn dân.

Nhìn chung dư luận về công cuộc đấu tranh hiện tại có thể nhận ra rằng quan điểm khuyến khích thay đổi đang là mục tiêu “đàng sau” nhiều thảo luận chính trị trong mấy năm gần đây qua các buổi hội luận, họp báo, “hội nghị bàn tròn” của nhiều nhóm, đảng phái chính trị, hoặc cá nhân v.v…

I. Quan điểm khuyến khích thay đổi từ từ

Theo quan điểm trên đây, chế độ CSVN có uy lực rất lớn và bao trùm mọi ngõ ngách xã hội Việt Nam, ĐCSVN đã có một kinh nghiệm cai trị đất nước và chiến thắng hai trận chiến lớn. Ngày nay, cho dù với chính sách mở cửa kinh tế tạo kẽ hở cho tư tưởng dân chủ và kinh tế thị trường du nhập vào Việt Nam, nhưng bộ máy an ninh cũng đã được chuyển đổi để thích ứng với tình thế mới và vẫn bảo vệ được vị thế cai trị độc đoán và sắt máu của họ. Bộ máy công an sẵn sàng giết chết từ trong trứng nước bất cứ hình thức tổ chức phản kháng hay mầm mống phản kháng nào. An ninh CS đã chứng tỏ rất hiệu quả trong công tác đàn áp với kết quả là một cuộc biểu tình khoảng vài trăm người cũng khó lòng bộc phát. Vì thế áp dụng phương pháp đối đầu bằng một lực lượng đối kháng sẽ khó có thể thực hiện được vì vấn đề tổ chức rất khó khăn. 

- Thay vào đó bằng phương pháp kích thích, gây mâu thuẫn nội bộ đối phương để chính đảng viên ĐCSVBV đứng lên thực hiện thay đổi. Phương pháp này chính yếu dựa vào lý lẽ "gậy ông đập lưng ông", dùng chính CS đánh CS. 

- Một lợi điểm khác là cố gắng thực hiện khai thác tối đa lãnh vực truyền thông, tuyên truyền để trong nước và hải ngoại có đầy đủ điều kiện trao đổi trong-ngoài. Công tác này ngày càng thuận lợi với phương tiện mạng lưới toàn cầu ngày càng phổ biến do có nhiều người trong nước truy cập. Những lãnh vực tuyên truyền chánh yếu bao gồm:

1. Phô bày, chỉ trích những sai trái, hành động sắt máu của chế độ CSVN;

2. Cổ động dân chủ, nhân quyền để nhiều người Việt Nam trong nước hiểu rõ thêm và phổ biến ngược ra hải ngoại và quốc tế những tin tức “phản dân chủ” của CSVN;

3. Khuyến khích những thành phần của chế độ còn nhứt điểm lương tâm quay trở về với Tổ Quốc, Dân Tộc;

4. Khơi dậy tinh thần dân tộc chống tham nhũng, chống Tàu cộng.

Từ đó, hy vọng, với áp lực từ mọi phía, thành phần chóp bu của ĐCSVN sẽ phản tỉnh và lèo lái ĐCSVN từ bỏ chủ thuyết độc tài đảng trị và chấp nhận tự do chính trị, mở đường cho một Việt Nam dân chủ.

II. Quan điểm khuyến khích thay đổi là không tưởng

Quan điểm khuyến khích rõ ràng là một phương cách dễ dàng để tạo thay đổi cho Việt Nam, nhưng dễ dàng chưa hẳn là một chọn lựa khôn ngoan.

Vì sao? 

- ĐCSVN có thể tự thay đổi để trở thành một đảng chấp nhận dân chủ hay không? Xét về mặt lịch sử, trên thế giới, chưa hề có đảng cộng sản nào trên thế giới tự thay đổi thành một đảng dân chủ. Kinh nghiệm ở các nước Đông Âu và Liên Xô, mọi ĐCS đều bị các cuộc cách mạng lật đổ. Vì thế sự kiện ĐCS tự thay đổi là chuyện chưa từng có tiền lệ.

ĐCSVN không có khả năng thay đổi. Cơ cấu vận hành của ĐCSVN dựa theo ĐCS Liên Xô, không dung thứ cho bất cứ sự phản đối nào liên quan tới quyền thống trị tuyệt đối của đảng, hay bất cứ cá nhân nào đứng trên sự sống còn của đảng. Thỉnh thoảng có những tiếng nói đảng viên phê phán nhau nhưng tất cả đều có giới hạn, ngay cả những đảng viên về hưu hay đã rời khỏi chức vụ cũng chỉ giới hạn sự phản đối dưới quy luật xin-cho.

· Sự tự diễn biến của các đảng viên là điều ĐCS lo sợ đã bị hiểu lầm theo lối tự diễn biến thành dân chủ. Thực ra sự tự diễn biến của đảng viên mà ĐCSVN lo sợ là vấn đề tham nhũng và tha hóa của đảng viên. Đảng viên tha hóa sẽ không chú tâm vào việc bảo vệ đảng, chỉ lo tranh giành quyền lợi, gây chia rẽ nội bộ làm cho ĐCS suy yếu và mất chính nghĩa. 

Thực chất là ĐCSVN không tiềm ẩn yếu tố gây nên tự diễn biến thành dân chủ vì nếu có đảng viên nào ý thức được tội ác cũng như sự sai trái của ĐCS thì đã tự gạt mình ra ngoài đảng và sẽ phải rút lui như trường hợp ông Tô Hải, Lê Hiếu Đằng (nhằm thành lập đảng Dân chủ Đối lập trước khi chết) và một số đảng viên gọi là... “phản tỉnh” khác. 

Điển hình hơn cả, một ông trí thức miền Nam “đã từng góp công chống Mỹ cứu nước” tên Tiêu Dao Bảo Cự đến nước này mà vẫn nói chuyện...“Từ kiến nghị, tuyên cáo đến biểu tình và vai trò của trí thức Việt Nam”. Vẫn là một luận điệu xin-cho.

Một người tự trọng, có lương tâm thì không thể ở trong ĐCS và như thế, danh hiệu “đảng viên CS cảnh tỉnh” hay “đảng viên CS tiến bộ” chỉ là chuyện thần thoại, hay được gán do những người còn “ngây thơ” (naïve) trong lý luận chính trị thực tế ở Việt Nam, nhất là một số người ở hải ngoại.

· Trông chờ, đặt niềm tin vào sự tự diễn biến thành dân chủ của ĐCS là bị nhiễm chiêu bài xin-cho mà ĐCSVN muốn mọi người dân Việt Nam thấm nhuần. Bất cứ điều gì cũng phải do ĐCSVN ban cho và người dân muốn có thì phải van xin, ngay cả những giá trị đứng trên hết là nhân quyền. 

Một khi mang tâm thức này là bị lọt vào cái bẫy của sự xin-cho. 

Một khi nhân quyền của người dân được ĐCS ban cho thì họ có thể lấy lại bất cứ lúc nào, không có gì bảo đảm nhân quyền được nhà cầm quyền tôn trọng. 

Duy nhất là chỉ khi nào nhân quyền do người dân tranh đấu đoạt được và đặt dưới sự giám sát của người dân thì nhân quyền lúc đó mới được bảo đảm.

- Cổ động sự thay đổi từ từ cũng là đi cùng đường và tiếp tay cho ĐCSVN lấy lại chính nghĩa. Hiện nay ĐCSVN và TC đang muốn “cải cách” để tồn tại. Một hình ảnh rõ nét nhất là chúng ta hãy xem tất cả các diễn văn của Tập Cận Bình từ khi lên nắm quyền bính cho tới nay (từ 2012 trở đi), Mác hay Mao đã không được nhắc tới mà tinh thần dân tộc, đôi khi tinh thần dân tộc cực đoan được cổ võ trong một số tình huống căng thẳng ngoài Biển Đông. 

Đây là dấu hiệu về “cải cách” và có lẽ sẽ bắt đầu bằng việc ban phát cho người dân vài cuộc bầu cử tự do ở lãnh vực làng xã như đã được thực hành ở vài nơi hay vài nhân quyền có giới hạn (một xã ở Quảng Châu năm 2015). Nhưng dĩ nhiên mọi chuyện phải nằm trong vòng kiểm soát của đảng cộng sản. Đây chính là chiêu bài ‘tự diễn biến’ để tồn tại. Hình thức “cải cách” này tựa như con chó và sợi dây thắt cổ. Sợi dây có thể được nới dần để con chó có khoảng di động rộng hơn nhưng dây thòng lọng quấn cổ vẫn còn đó, và dĩ nhiên, người chủ CS có thể siết chặt sợi dây bất cứ lúc nào. 

Đó là nhân quyền xin-cho!

Thay Lời kết

Qua các lý luận trên đây, ắt hẳn chúng ta cũng thấy rõ là: Xóa bỏ cơ chế chuyên chính vô sản và Đảng CSVN bằng một cuộc cách mạng toàn dân là giải pháp duy nhất mà thôi.

Công cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài toàn trị CSVN còn có rất nhiều cạm bẫy vì ĐCSVN sẽ không bao giờ ngồi chờ bị lật đổ mà sẽ tìm mọi cách mỵ dân để nắm chặt chiếc ghế thống trị, ngay cả việc áp dụng những biện pháp tàn độc từ thời Trung cổ vẫn không từ. 

Vì vậy căn bản tư tưởng đấu tranh chống độc tài CS phải dứt khoát đoạn tuyệt với bất kỳ hứa hẹn tốt đẹp nào của ĐCSVN.

Hơn 70 năm qua, đã quá đủ rồi Bà Con ơi!

Đây là cuộc đối đầu và ĐCSVN phải bị loại bỏ hoàn toàn mới có thể có được một Việt Nam dân chủ, tự do.

24.03.2017

Sunday, March 26, 2017

Nắng Nhớ Ngập Ngừng - Trầm Vân

6 Loại Người Không Thể Chữa Trị Cho Dù Có Gặp Được Thần Y


Biển Thước là một vị danh y nổi tiếng của Trung Hoa xưa, ông được người đời mệnh danh là “thần y”. Cứu người từ cõi chết trở về, nhìn thấu thân thể mà thấy được cả bệnh sẽ phát trong tương lai… không bệnh gì là ông không chữa được. Tuy nhiên, Biển Thước từng nói có 6 kiểu bệnh nhân không thể chữa trị được.

Trong “Sử ký” có nhiều ghi chép về danh y nổi tiếng Biển Thước. Khi ông đã nổi danh trong thiên hạ, đi đến đâu có bệnh nghiêm trọng, thì ông đều có thể chữa khỏi tất cả các bệnh nơi đó, ông đã chữa thì không bệnh gì là không khỏi.

Ví dụ, khi đi qua Hàm Đan, đây là vùng đất rất coi trọng nữ giới, cũng đặc biệt chú trọng các loại bệnh về phụ khoa, vậy là ông biến thành một đại phu điều trị phụ khoa tài giỏi. Khi ông qua Lạc Dương, là vùng đất tôn trọng hiếu kính người già, các loại bệnh của người già như điếc tai, mắt mờ, lão hóa… ông đều có thể điều trị khỏi và trở thành đại phu chuyên điều trị bệnh của người già. Đến Hàm Dương, là vùng đất rất yêu thương coi trọng trẻ nhỏ, ông lại trở thành đại phu chuyên trị các bệnh về nhi khoa. Ông cũng nổi tiếng với câu chuyện dùng thuật châm cứu để cứu thái tử nước Quắc sống lại sau khi đã chết nửa ngày.
Vậy nhưng có 6 kiểu người lại không thể cứu được, cho dù là gặp thần y, đó là:

1. Kiêu ngạo
Xấc xược không cần biết lý do chính là kiêu ngạo, căn bản loại người này sẽ không nói lý lẽ, kiểu bệnh nhân không nói lý lẽ này không thể chữa trị được.

2. Xem trọng tiền tài mà xem nhẹ bản thân
Đối với thân thể của chính mình cũng không quan tâm mà lại cực kỳ chú trọng đến tài sản, đồ của mình không lấy ra dùng, cũng không chịu tiêu tiền – kiểu người hà tiện này nếu có bệnh thì rất khó chữa.

3. Không nghe lời khuyên
Kiểu “bệnh” này hiện nay chúng ta rất thường gặp, chính là kiểu mà bảo họ mặc thêm quần áo họ không mặc thêm; bảo đừng ăn đồ nhiều dầu mỡ quá thì cứ ăn dầu mỡ; bảo ăn ít thịt động vật thì lại ăn nhiều thịt mỡ; bảo đừng ăn đồ lạnh thì cũng chẳng chịu nghe. Không chịu ăn những thứ nên ăn hoặc không chịu hạn chế ăn những thứ không nên ăn theo lời dặn dò của thầy thuốc. Kiểu người này cũng không trị được.

4. Âm dương hỗn loạn
Khí tạng không ổn định chính là âm dương của họ đã bị rối loạn, có dương mà lại có âm, nhưng âm dương lại loạn lung tung. Những người này khí huyết lục phủ ngũ tạng không ổn định nên cũng không chữa được bệnh của họ.

5. Thể chất hư nhược
Là những người thể chất rất yếu ớt, không uống được thuốc nên cũng không chữa được.

6. Tin vào thầy mo
Ngày nay có rất nhiều người như vậy, chính là thà tin vào những thầy mo chứ không tin vào y học, tin vào lời nói của những bà đồng trong miếu, cho rằng vẽ bùa là có thể chữa được bệnh. Kiểu người thà tin vào tà thuật chứ không muốn tin vào lý lẽ y học của thầy thuốc chân chính thì cũng không thể chữa được.

Biển Thước là danh y nổi tiếng thời cổ đại. Khi còn nhỏ, ông theo học lương y Trường Tang Quân và đã được truyền nhiều y thuật bí truyền, ông am hiểu rất nhiều loại bệnh. Vào thời nhà Triệu làm phụ khoa, thời nhà Chu làm khoa ngũ quan, đời nhà Tần làm nhi khoa, ông đều nổi danh thiên hạ.
Biển Thước đã đặt ra phương pháp chẩn đoán bệnh bằng cách bắt mạch, khởi đầu cho cách chẩn đoán này của y học Trung Hoa. Tương truyền, quyển sách y cổ nổi tiếng “Nạn kinh” (hay “Nan kinh”) là ghi chép của Biển Thước.

An Khang
daikynguyenvn.com



Mỗi Ngày Có Được Niềm Vui - Đỗ Công Luận

Đẹp Hay Đẹp Thật Sự, Bạn Thuộc Tuýp Phụ Nữ Nào?


Thân hình nóng bỏng, mái tóc bóng bẩy, gương mặt thanh tú, quyến rũ... tất cả những thứ đó chưa chắc là nét đẹp thật sự của người phụ nữ.


Đẹp thì đáng để nhìn nhưng đẹp thật sự thì lưu luyến cả đời khó quên
Những nét đẹp về ngoại hình chỉ là thứ hào nhoáng, ấn tượng ban đầu và rất dễ dàng biến mất khi đôi mắt chúng ta quen dần với nét đẹp đó. Với vẻ đẹp thật sự, chúng thường xuất phát từ nội tại, từ cái tâm tử tế, hiền lành, bao dung đến cách sống hiền lành, chân thật, hết mình... Lòng tốt luôn khiến con người trở nên xinh đẹp hơn và không ai có thể khiến vẻ đẹp ấy biến mất.

Phụ nữ đẹp thích biến hóa theo từng phong cách thời trang trong khi phụ nữ đẹp thật sự không thường xuyên chạy theo xu hướng
Các cô gái đẹp luôn cập nhật những mốt thời trang mới nhất, biến hóa không ngừng theo những xu hướng thời thượng. Những người đẹp thật sự thì hiểu rằng, cách tốt nhất để lưu giữ vẻ đẹp của bản thân là biết cách chọn lựa thứ gì tốt nhất, phù hợp nhất với mình. Họ tập trung để phấn đấu, phát triển bản thân chứ không gượng ép mình phải đua theo một hình mẫu nào cả. Họ cũng sẽ dành nhiều thời gian để nuôi dưỡng tâm hồn, rèn luyện thân thể và trí óc để phát triển sự nghiệp cá nhân.

Đẹp thì không hiếm nhưng phụ nữ đẹp thật sự sẽ là một người đặc biệt nổi bật nhất
Cái đẹp chân chính luôn mang một khả năng lan truyền tuyệt vời, một sức sống vĩnh cửu. Người phụ nữ đẹp thật sự giống như một kiệt tác nghệ thuật, có thể từ quan niệm sống và hành động của mình tạo thành nguồn cảm hứng và bài học cho rất nhiều người. Dù có trải qua nhiều thăng trầm và sóng gió, họ vẫn luôn giữ vững được cốt cách của mình và là những hình tượng mạnh mẽ, tốt đẹp nhất.

Người đẹp thường ích kỷ, người đẹp thật sự luôn mở lòng vì mọi người
Phụ nữ đẹp có thể chỉ muốn giữ riêng những thứ tốt nhất cho riêng mình với mong muốn mình là người đẹp nhất, tốt nhất. Những người đẹp thật sự sở hữu trái tim nhân hậu, vị tha, dịu dàng, biết quan tâm đến những người xung quanh, là một người đáng tin cậy.

Phụ nữ đẹp luôn đòi hỏi hoàn hảo, những người đẹp thật sự sẽ biết trân trọng những thứ không hoàn hảo
Trên đời này không có ai có thể đáp ứng được sự hoàn hảo cả. Tất cả những tiêu chuẩn gọi là hoàn hảo, âu cũng là những thứ do chính chúng ta tự đặt ra mà thôi. Việc hoàn thiện bản thân mình là tốt đấy, nhưng những phụ nữ đẹp thật sự sẽ biết trân trọng chính những thứ chưa hoàn hảo kia, bởi đó là điều tạo nên sự khác biệt của mỗi người. Từ đó, ta có thể vừa biết cách cải thiện mình, mặt khác cũng sẽ biết chấp nhận, yêu thương và quý trọng bản thân cũng như tôn trọng, thông cảm với những người xung quanh.

Cái đẹp sẽ tàn phai còn cái đẹp thật sự càng bền bĩ theo thời gian
Nét đẹp chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian hữu hạn nào đó. Bởi rốt cuộc thì chúng ta ai cũng phải già đi, nhăn nheo và xấu xí. Hiểu được điều đó thì những phụ nữ đẹp thật sự luôn có một cái nhìn phóng khoáng, nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống. Họ sẽ tập trung tu dưỡng thân thể, trí óc để vừa có sức khỏe, vừa có sự tinh khôn và biết cách chấp nhận những qui luật sinh lão bệnh tử bất biến trong mỗi đời người. Họ trân trọng những lời khen tặng, ca ngợi của người đời nhưng sẽ không mù quáng sống chỉ vì những thứ hào nhoáng, chót lưỡi đầu môi đấy.

Tình yêu của phụ nữ đẹp sẽ kèm theo điều kiện
Phụ nữ đẹp thật sự quan niệm rằng, tình yêu không phải là cuộc đổi chác, không phải cho bao nhiêu sẽ nhận được bấy nhiêu. Họ không so đo, tính toán, tư lợi cá nhân, họ sẽ luôn thật lòng yêu thương và hi sinh nếu đó là tình yêu của đời mình.

(Nguồn: Lifehack)