Đời còn vui vì có chút “tòm tem
Không biết hai tiếng “tòm tem” 
xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ nhưng cái chuyện tòm tem thì 
quả là xưa không kém gì quả đất. Tuy nhiên, dù có xưa cách mấy thì tòm 
tem vẫn không bao giờ cũ, vì loài người còn tồn tại tới ngày hôm nay 
cũng là nhờ vào ”tòm tem”. Chính vì thế mà thiên hạ vẫn cứ mãi mãi tòm 
tem và sẽ còn nói nhiều về chuyện tòm tem.
Sở dĩ tôi dùng hai 
tiếng ”tòm tem” này để nói về một chuyện mà ngôn từ dùng để diễn tả lại 
vô cùng phong phú và thường được thả nổi, ấy là tại vì hai tiếng này vừa
 có gốc có gác, vừa nôm na dễ hiểu, lại không bị coi là tục để các vị 
thích rao giảng đạo đức bắt bẻ mà cũng không khô khan như từ ngữ chuyên 
môn của nhà khoa học. Tôi học được hai chữ này trong bài ca dao sau:
Ðang khi lửa đỏ cơm sôi
Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem
Bây giờ cơm chín lửa tàn
Lợn ăn, con ngủ, tòm tem thì tòm
Phải
 nói là mặc dù mấy câu ca dao này tuy thật là đơn giản nhưng càng đọc 
tôi càng thấy thấm ý. Con người từ thủa xa xưa cho tới ngày nay, sống 
trên đời lúc nào cũng cứ tối tăm mặt mũi với hàng trăm thứ chuyện lỉnh 
kỉnh hằng ngày nhưng xét cho cùng thì chẳng qua cũng chỉ là nhằm đáp ứng
 cho hai nhu cầu cơ bản là ăn để sống và tòm tem để bảo tồn nòi giống. 
Có khác chăng là theo đà tiến hóa, con người càng văn minh thì cái ăn và
 cách ăn cũng trở thành cầu kỳ và cái tòm tem cũng được bày đặt thêm 
nhiều quy định có tính cách hình thức rắc rối hơn mà thôi.
Tuy cả 
hai nhu cầu trên đều là cơ bản nhưng nếu sắp theo thứ tự ưu tiên thì cái
 ăn vẫn là trước tiên rồi mới tới chuyện tòm tem, vì chỉ có ”no cơm ấm 
cật” thì lúc đó mới có thể ”rậm rật khắp nơi”. Cái sự ví von này tôi 
cũng học được trong kho tàng ca dao tục ngữ.
Nếu nhu cầu ăn có từ 
khi lọt lòng thì trái lại nhu cầu tòm tem phải đợi đến một cái tuổi gọi 
là biết mắc cỡ vì khám phá ra những cái khang khác nơi mình và nơi người
 mới bắt đầu có. Lại nữa, cái cường độ của nhu cầu này cũng biến thiên 
tùy theo nguời và tùy theo thời gian: sung độ nhất vào lúc tuổi còn trẻ 
nhưng càng về già thì yếu lần và có thể không còn nữa. Chính vì thế mà 
người ta mới hối nhau:
Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sồng sộc nó thì theo sau
Mặc
 dù trong văn học Việt nam cũng đã có những nhà nho xông xáo cỡ cụ 
Nguyễn Công Trứ từng vỗ ngực tự hào trong một bài hát nói ”càng già càng
 dẻo càng dai” và trong ca dao cũng có những bài như:
Bà già đã tám mươi tư
Ngồi bên cửa sổ biên thư lấy chồng
Hoặc là:
Bà già đi chợ cầu Ðông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn
Tuy
 nhiên nếu nghiệm cho kỹ thì chẳng qua các cụ cũng chỉ là tiếc nuối cho 
một thời oanh liệt đã qua đi mà nói vớt vát cho vui thế thôi chứ thực tế
 thì các cụ cũng không làm sao xoay ngược lại định luật của tạo hóa.
Ngoài
 ra, nếu nhu cầu ăn không thể thiếu thì ngược lại nhu cầu tòm tem có thể
 hy sinh mà không làm cho cá nhân ấy chết, trừ trường hợp nếu như tất cả
 giống người đều hy sinh cái nhu cầu này thì lúc đó loài người mới bị 
tuyệt chủng thôi. Về cái khoản này thì Phật có dạy đời là bể khổ và con 
người phải diệt dục thì mới dứt được nghiệp chướng để tịnh độ Niết Bàn. 
Tuy vậy, có một số người dù đã quy y cửa Phật thành sư, nhưng lòng thì 
vọng động, đôi khi còn bạo hơn cả người phàm nên người đời mới gọi các 
vị này là ”sư hổ mang”. Còn nếu chỉ nhè nhẹ thôi thì ca dao cũng đã từng
 mô tả:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu
Khác
 với Phật giáo chủ trương diệt dục, người Thiên Chúa giáo lại tin rằng 
khi Chúa dựng nên người nam và người nữ đầu tiên rồi thì có phán: ”Hãy 
sinh sản ra cho đầy mặt đất này”. Tuy nhiên khi loài người đã sinh ra 
tràn đầy trên mặt đất này rồi thì Hội Thánh mỗi khi muốn tuyển chọn 
người thay Chúa chăn dắt bầy chiên ở trần gian thì lại đòi hỏi người đó 
phải hy sinh cái niềm vui tòm tem. Ðiều này gây trở ngại cho một số 
người vừa muốn làm kẻ chăn chiên của Chúa lại vừa không muốn sống trong 
cảnh ”cám treo heo nhịn đói”, do đó mà nảy sinh ra Giáo phái Tin Lành. 
Các ngài mục sư nhờ hiểu Kinh Thánh một cách cởi mở hơn nên đã giúp cho 
một số người an tâm vừa làm tôi tớ Chúa, vừa vui thú trần gian mà không 
hề mang mặc cảm phạm tội.
Mặc dù bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
 có khẳng định: ”Mọi người sinh ra bình đẳng” nhưng thực tế thì Tạo hóa 
vốn có trước loài người nên hình như không biết có cái luật đó cho nên 
mới để lọt một số người bị mụ bà nắn thiếu cái ”gia tài của mẹ để lại 
cho con” khiến cho những kẻ này không bao giờ biết được cái niềm vui tòm
 tem ở cõi đời này. Tuy nhiên vào cái thời đất nước còn được cai trị bởi
 những ông vua thì cũng có vài anh chàng lại tự nguyện cắt bỏ cái gia 
tài này để được hầu hạ trong cung hầu kiếm miếng cơm manh áo. Thí dụ như
 mấy anh chàng muốn xin làm thái giám.
Số là trong xã hội phong 
kiến ngày xưa, một kẻ làm vua thì tự cho mình có cái quyền tha hồ tòm 
tem. Do đó mà ông vua nào cũng có trong cung hàng ngàn cung tần mỹ nữ. 
Tuy nhiều thế và nhiều khi tòm tem không xuể, nhưng vì tham lam và ích 
kỷ, nên ông vua nào cũng sợ kẻ khác tòm tem giùm mình do đó mới phải 
chọn mấy anh chàng thái giám để hầu hạ trong cung cho chắc ăn. Nhiều ông
 vua cũng vì mê tòm tem đến độ bỏ bê cả triều chính cho nên đành phải 
mất nước hay mất cả cái chỗ đội vương miện. Có ông thì bệ rạc đến nỗi 
không còn ngồi dậy nổi để thiết triều đành nằm ườn ra cho đình thần vào 
chầu như ông vua Long Ðĩnh nhà Lê. Sử gia khi nhắc đến phải đặt cho 
triều đại này cái biệt danh là “Lê ngọa triều”.
Cũng vì cái mục 
ham tòm tem này của kẻ làm vua mà nhiều khi đi tong luôn cả một dân tộc.
 Xưa Chiêm thành cũng là một vương quốc lừng lẫy. Vào thời nhà Trần ở 
nước ta thì có vua Chiêm là Chế Mân bỗng dưng nổi hứng đem dâng luôn hai
 châu Ô và châu Rí để xin với vua Trần cho được rước công chúa Huyền 
Trân về tòm tem. Không hiểu có phải vì nàng công chúa xứ Việt tài cao 
hay vua Chiêm lụ khụ sao đó mà ít lâu sau thì vua Chiêm tịch. Theo phong
 tục Chiêm thành thì khi vua chết hoàng hậu và phi tần cũng phải tịch 
theo vua để tiếp tục hầu hạ cho nhà vua cũng được tòm tem nơi chín suối.
 Nhà Trần tiếc cho tuổi xuân phơi phới của nàng công chúa của mình mà bị
 đưa lên giàn hỏa với vua Chiêm thì thật là phí hương trời, bèn sai Trần
 Khắc Chung vào kinh thành Chiêm lén đem công chúa về. Tương truyền sau 
đó hai người đưa nhau đi đâu làm gì chẳng ai rõ, nhưng dù sao thì cái 
tên Huyền Trân cũng đi vào lịch sử, còn Chiêm thành thì theo cái đà mất 
hai châu mà mất lần cho đến mất luôn cả nước và bị diệt vong.
Theo
 các nhà nghiên cứu về sinh vật học thì trong vấn đề tòm tem, giống cái 
bao giờ cũng khỏe hơn giống đực. Nguyên lý này hình như cũng đúng cả với
 con người. Chúng ta chỉ nghe kể ông này ngài nọ đang tòm tem thì bị 
”ngã ngựa” rồi ”ra đi” chứ chẳng bao giờ nghe nói có bà nào lăn quay ra 
ngáp ngáp trong lúc tòm tem cả. Nghe khoản này có lẽ các ông không đồng 
ý, vì tự hồi nào các ông vẫn tự cho mình là phái khỏe còn đàn bà mới là 
”liễu yếu đào tơ” phải ”núp bóng tùng quân”. Tuy nhiên tục ngữ cũng có 
câu: ”con gái mười bảy, bẻ gãy sừng trâu”, cho nên nam nhi cỡ mấy anh 
chàng ”trói gà không chặt” mà gặp phải mấy cô này thì cũng coi như là đi
 tong, bằng không thì cũng bị cô nàng cắm cho năm bảy cái sừng.
Các
 nhà nghiên cứu về sinh vật còn đưa thêm một nhận xét là có nhiều loài 
sinh vật sau khi tòm tem thì chị cái còn xơi tái luôn anh chàng đực cho 
đã cơn đói lòng, chẳng hạn như loài bọ ngựa. Ðiều này tưởng chừng không 
xảy ra nơi con người nhưng nếu nghiệm kỹ ra thì cũng có, nhưng vì con 
người có đời sống văn minh cho nên cái mục cô nàng ”xơi tái” anh chàng 
này cũng diễn ra dưới một hình thức mới mẻ hơn, khoa học hơn, tinh vi 
hơn, trông nhẹ nhàng và không có vẻ rùng rợn nhưng độc ác thì không 
kém.. Nàng chỉ móc cái ví tiền, nắm lấy cái ví tiền thôi chứ không cần 
moi ngực, moi tim gì cả. Có biết bao ông ”nam nhi chi chí”, chỉ vì tòm 
tem mà bị thân bại danh liệt do ăn hối lộ, thụt két để cung phụng cho cô
 nàng no bụng còn ông thì vào nằm nhà đá gỡ lịch. Ðối với những ông có 
sẵn cơ nghiệp thì cô nàng cứ việc tha hồ ăn cho tới sạt nghiệp rỗng túi.
 Ngay cả những ông được cái tiếng là hiền lành cũng lắm lúc khốn khổ vì 
đi làm lãnh lương ba cọc ba đồng thôi mà cũng bị bà vợ móc sạch. Thế là 
đủ cho anh chàng từ đó cứ lệ thuộc vào bà vợ. Còn bà vợ thì phây phây 
”chưa đi đến chợ đã lo ăn quà”, càng ngày càng phốp pháp ra trong khi 
đức lang quân thì càng ngày càng ”cà tong cà teo” như que củi.
Chuyện
 tòm tem mà đi vào văn học sử thì rất nhiều. Vào cái năm Tí Sửu Dần Mẹo 
gì đó có sứ Tàu sang nước ta. Không hiểu do đâu mà sứ lại gặp bà Ðoàn 
Thị Ðiểm, lại còn buông lời chọc ghẹo chớt nhả: ”An nam nhất thốn thổ, 
Bất tri kỷ nhân canh”, nghĩa là ”một tấc đất An nam không biết bao nhiêu
 là người cày” ý xỏ xiên gái Việt. Bà Ðiểm vốn đã từng dịch Chinh Phụ 
Ngâm, chữ nghĩa đầy mình, đâu dễ gì chịu mất mặt như vậy, bèn đối ngay: 
”Trung quốc đại trượng phu, Giai do thử đồ xuất”. Câu này có nghĩa là 
”bậc trượng phu của nước Tàu cũng từ đó mà chui ra cả thôi”. Ðúng là 
chậu nước lạnh hắt vào mặt sứ Trung quốc.
Tuy nhiên đáng nể hơn cả
 phải nói đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Một mảng lớn trong văn thơ của bà 
hướng về nội dung: phải làm sao nói lên được cái nguyên lý tòm tem ẩn 
tàng trong mọi sự vật, và tên tuổi của bà gắn liền với sự nghiệp trên 
đến nỗi hễ một người nào đó chỉ cần nhắc đến tên bà là người khác hiểu 
ngay ý người kia định nói gì.
Trên đây tôi chỉ đơn cử vài danh 
nhân tiêu biểu thôi chứ thực ra nếu mà xét cho cùng thì bao nhiêu tác 
phẩm văn chương nghệ thuật trên thế giới này nếu không liên quan đến ăn 
thì cũng là do cái động cơ tòm tem thúc đẩy mà ra cả.
Nếu cái 
chuyện tòm tem nơi loài vật là một sự kiện tự nhiên nên hễ muốn tòm tem 
thì đi tìm đối tượng hợp tác giải quyết là xong thì nơi con người vì văn
 minh nên thường ”vẽ rắn thêm chân” do đó để thỏa mãn cái nhu cầu tòm 
tem, con người cũng đặt ra vô số quy định gọi là luật pháp, đạo đức, 
phong tục, tập quán để làm khó cho mình. Chính vì thế mà chuyện tòm tem 
của con người mới được phân biệt thành nhiều hình thức.
Thông 
thường nhất và được xã hội cho phép và nhìn nhận là tòm tem có đăng ký 
chính thức. Ðể có thể tòm tem theo kiểu này con người phải trải qua 
nhiều bước gian truân lo lắng và chờ đợi, kết quả có khi được mà cũng có
 khi chỉ là dã tràng xe cát cho nên mới có chuyện nhiều anh chàng hay cô
 nàng vì lý do này lý do nọ không hội đủ tiêu chuẩn để xin được giấy 
phép hành nghề, đành ôm hận đáp chuyến tàu suốt về miền quên lãng, hoặc 
nhẹ lắm thì cũng là cúi đầu nhìn người yêu ôm cái tòm tem sang ngang 
không hề ngoảnh lại. Ðiều này nếu có gây đau khổ cho một số người thì 
chính đó cũng là nguồn cảm hứng để cho những tâm hồn đau khổ đó có thể 
sáng tác nên những vần thơ tuyệt tác, những áng văn bất hủ và những bản 
nhạc để đời.
Ðối với những người hân hoan rước được cái tòm tem về
 rồi thì mọi chuyện bây giờ trở nên như cơm bữa nên không có gì đáng bàn
 ngoài cái chuyện đêm đêm:
Ðàn ông gì thứ đàn ông
Nửa đêm trở dậy cắm chông đàn bà
Ðàn bà gì thứ đàn bà
Nửa đêm trở dậy rút ruột già đàn ông
Thỉnh thoảng mới có vài trường hợp cá biệt như:
Lấy chồng từ thủa mười lăm
Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi
Ðến năm mười tám đôi mươi
Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gãy một còn ba …
Chẳng
 cần phải giải thích ai cũng thừa biết là thương ở trong lòng thì làm 
sao gãy được cái chân giường, chẳng qua chuyện gãy cái chân giường là do
 tòm tem sôi nổi mới ra cớ sự. Tuy nhiên cũng không thiếu gì những 
trường hợp có kẻ vì những lý do không được tiết lộ nào đó mà cứ phải bóp
 bụng thở than:
Chàng ơi bỏ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng
Nhờ
 xã hội bày ra cái chuyện tòm tem phải có đăng ký chính thức này mà có 
những ông vốn coi trời bằng vung bắt đầu biết sợ, dĩ nhiên là không phải
 sợ trời mà sợ kẻ cao hơn trời nữa kia. Riêng các bà thì có một số khỏi 
phải khổ công đèn sách, đánh giặc hay phấn đấu công tác cũng bỗng dưng 
trở thành cô Tú, bà Bác sĩ, bà Thiếu tướng, bà Tỉnh trưởng v.v… để ra 
oai tác yêu tác quái, có khi còn thêm màn phụ diễn ”gà mái đá gà cồ”. 
Ðiều này có vẻ như là một bất công đối với phái nam vì khi một anh chàng
 nghèo dốt đặc nào đó vô phúc vớ được một bà luật sư, bà bác sĩ cũng 
không bao giờ được thiên hạ gọi là ông luật sư, ông bác sĩ gì cả để mà 
hậm họe với đời hay lên lớp chị vợ.
Thời còn chế độ phong kiến thì
 tuy vua thay trời trị dân, nhưng vì có vài ông vua lại học được cái câu
 ”nhất vợ nhì trời” của dân gian nên có nhiều bà gốc dân giã, không cần 
dựng cờ khởi nghĩa để làm vua mà chỉ cần được một ông vua loại trên 
tuyển về làm Hoàng hậu rồi sau đó lại còn lên Thái hậu là cũng đủ làm 
cho đất nước điêu đứng.
Riêng đối với đa số các bà thường thường 
bậc trung không có gì để thi thố với đời thì nhờ có sẵn nhãn hiệu cầu 
chứng lận trong lưng nên rất hãnh diện phô trương cái thành quả tòm tem 
của mình, đi đâu cũng vác cái bụng phình chương ướng nghễu nghện ra cái 
điều ta đây nết na đức hạnh để cho xã hội nhìn vào mà nể nang chứ không 
giống như mấy cô nàng tòm tem lén, tòm tem chui, lỡ có kết quả là tìm 
cách giấu còn hơn ”mèo giấu cứt”.
Mặc dù các nhà đạo đức và các 
nhà luật pháp thường khuyến cáo con người chỉ nên và chỉ được tòm tem có
 đăng ký chính thức tại một hộ khẩu thường trú, nhưng nhiều khi vì tính 
ham vui mà có những cặp chưa kịp làm xong thủ tục đăng ký đã tòm tem. 
Ðây là loại tòm tem lén cha lén mẹ. Hình thức này rất phổ biến trong lứa
 tuổi rường cột của tương lai nên đây cũng là niềm lo lắng của các bậc 
làm cha mẹ. Tuy nhiên có nhiều cô cậu gặp khó khăn trong vấn đề ”đăng ký
 hành nghề” thì lại nhờ cái khoản có kinh nghiệm hành nghề trước mà sau 
đó được cấp giấy phép điều chỉnh, hoặc cũng có khi là bị bắt buộc điều 
chỉnh giấy phép tùy trường hợp.
Cũng có khi đã đăng ký có nơi có 
chốn, nhưng vì thích điều mới lạ hoặc ngán cơm nhà ăn hoài nhạt miệng 
nên ở đâu lúc nào cũng có chuyện ”ông ăn chả bà ăn nem” hoặc là ông đi 
lính ”nhảy dù” bà đi tìm nơi ”ăn vụng”. Ðây là loại tòm tem chui, trốn 
thuế cho nên thường xảy ra nhiều màn đấu gươm, nổ súng, rượt bắt rất sôi
 nổi, hoặc nhiều cảnh trừng trị rất rùng rợn. Ngày xưa khi mà ”phép vua 
thua lệ làng”, dân nông thôn ở các vùng ven sông đôi khi vẫn vớt được 
đôi trai gái bị trói thúc ké thả trôi theo giòng nước chỉ vì bị bắt quả 
tang đang ăn vụng.
Thời Ðệ nhất Cộng hoà, có một ông quan nhà binh
 súng ngắn nọ không thích bắn súng đồng ngoài chiến trường mà chỉ thích 
bắn súng cao su ở các vũ trường. Quan bắn giỏi quá nên có một em ca ve 
xin được rước quan về cận vệ cho mình. Chị cả ở nhà thấy quan lâu ngày 
không chịu cho mình khám súng mà cứ vác súng đi suốt đêm nên cho tay em 
đi điều tra. Tay em tìm ra cớ sự bèn về bẩm báo và hiến kế cho chị Cả 
nên tặng cô nàng nọ một liều a xít để biến cô nàng thành đống sắt vụn. 
Báo hại sau vụ ấy cả miền Nam mỗi khi nghe có ai nói tới hai tiếng a xít
 là các bà các cô đua nhau tìm đường chạy trối chết.
Có những bà 
vì không có phương tiện để theo dõi tìm tòi hoặc không muốn lặn lội 
thanh toán kẻ địch ở xa cho nhọc công phí sức, nên cứ nhắm ngay đối 
tượng gần là ông chồng mà trị tội cho tiện. Nghe đâu thời Tây còn cai 
trị xứ Nam kỳ có một cô Năm Huờn nào đó giận ông chồng không chịu tòm 
tem với mình mà cứ đi tìm người khác để tòm tem cho nên mới nổi tam bành
 rưới xăng đốt luôn ông chồng làm đuốc cho đời soi chơi.
Tòm tem 
chui có khi ”chùa” mà cũng có khi là ”tiền trao cháo múc”. Nếu là tòm 
tem theo kiểu tiền trao cháo múc thì thường phái nam là kẻ phải chi 
tiền, họa hoằn mới có vài anh mày dày mặt dạn được đời tặng cho cái danh
 hiệu là ”đĩ đực”. Riêng khối chị em ta là vừa được tòm tem lại có tiền 
ăn bánh nên có nhiều cô nàng bất cần miệng đời khen chê đã xin chọn con 
đường này làm ”con đường em đi”. Xã hội nào mà có nhiều cô nàng chọn con
 đường này thì mấy bà phước ở trong xã hội đó lại càng có dịp nuôi một 
bầy con không phải con mình. Tuy nhiên cũng có những trường hợp cá biệt,
 có những cô nàng lúc đầu đi con đường này, nhưng sau đó tình cờ vớ được
 một anh chàng kiểu Từ Hải mà bỗng hóa thành mệnh phụ phu nhân, trở nên 
danh giá, ban ân ban phước cho đời.
Ngoài các hình thức tòm tem có
 đăng ký, tòm tem lén, tòm tem chui, tòm tem nhảy dù còn có một hình 
thức nữa gọi là tòm tem ẩu. Ðây là một hình thức tòm tem không thông qua
 sự thỏa thuận của đôi bên mà chỉ đến từ một phía. Loại tòm tem này có 
thể là hình thức nhẹ như của mấy anh chàng thích ”thả dê” theo kiểu 
trong ca dao:
Vú em chum chúm núm cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền
Vú em chẳng đáng một tiền
Cho anh bóp cái anh đền quan năm
Có
 nhiều anh chàng nhờ trước ”thả dê” sau thành duyên nợ, nhưng cũng có 
khối anh chàng bị ăn tát tai, đòn gánh, guốc cao gót có khi lỗ máu đầu, 
hoặc phải ra hầu toà về cái tội hành nghề không có giấy phép.
Hình 
thức mạnh thì thường đi kèm với dao găm, lưỡi lê, súng đạn, hoặc ít nhất
 là cũng đôi cánh tay gân guốc. Ðây là một hình thức dã man thô bạo, 
thường gắn liền với những tội ác mà con người không thích thấy nhưng lại
 cứ hay diễn ra tại những nơi nào có chiến tranh, loạn lạc, bất công và 
áp bức. Chuyện kiểu này thì vô cùng, xin để dành phần hành này cho các 
nhà làm chính trị, các nhà làm luật pháp, các nhà rao giảng đạo đức, tôi
 không dám lạm bàn.
Mặc dù tòm tem là một nhu cầu tự nhiên nhưng 
con người lại thích khoác cho nó cái vẻ không tự nhiên cho nên mới sinh 
ra lắm cái nực cười hay những chuyện thương tâm đầy nước mắt.
Trong
 một phiên họp Quốc hội thời Ðệ nhất Cộng hòa tại Miền Nam trước đây để 
biểu quyết một dự luật về vấn đề bảo vệ tòm tem, có hai vị dân biểu nọ 
tranh luận nhau sao đó mà vị nữ dân biểu bỗng đứng dậy một tay rút guốc 
đập lên bàn, một tay xỉa xói vào mặt vị nam dân biểu và the thé: ”Không 
có đàn bà làm sao có đàn ông?” Vị nam dân biểu bị xúc phạm liền hùng hổ 
không kém đứng lên vung tay quát: ”Không có đàn ông làm sao có đàn bà?” 
Chẳng ai biết hai vị dân biểu kia rốt cuộc ai thắng ai nhưng dân chúng 
nghe qua chuyện này đều ôm bụng cười và bảo nhau là hai vị nọ rõ khéo 
thừa hơi vì nếu không có tòm tem thì làm quái gì có đàn ông hay đàn bà 
để mà cãi cọ.
Cái chuyện tòm tem không phải chỉ có người mới thích
 mà ngay cả thần tiên cũng còn đam mê. Trong dân gian vẫn truyền tụng 
những câu truyện như Sơn Tinh và Thủy Tinh chỉ vì tranh nhau nàng công 
chúa con vua Hùng mà đánh nhau hết năm này sang năm khác, gây ra cảnh 
gió mưa bão lụt làm khổ cho dân. Lại có những nàng tiên còn vương vấn 
mùi tục lụy nên mới xui khiến cho chàng Từ Thức lạc động Hoa vàng. Có 
nàng thì lại còn ham vui xuống tận trần gian xem hội của người đời để 
rồi gây ra cớ sự khiến cho phải vướng vào duyên nợ với người trần như 
truyện Giáng Kiều và Tú Uyên.
Tòm tem là nguyên lý của sự sống cho
 nên hình như dân tộc nào cũng đề cao. Văn minh Văn lang cũng có sự tích
 ”ông Ðùng bà Ðoàng”. Tương truyền là ngày xưa có nhà nọ sinh ra được 
hai con một trai một gái. Ðến tuổi trưởng thành thì cả hai chị em nhà 
này đều cao lớn dị thường do đó khi bắt đầu biết đến tòm tem thì nhìn 
quanh nhìn quẩn không thấy đâu có đối tượng có khả năng hợp tác với mình
 nên cuối cùng cả hai đành phải hợp tác với nhau. Dân làng cho rằng đây 
là một hành vi loạn luân bèn xúm lại tẩm quất cho hai chị em nhà này một
 trận, đến lúc dừng tay lại thì chỉ còn thấy hai đống thịt. Dân làng sợ 
Trời phạt cái tội cả gan hủy diệt cái nguyên lý của sự sống mà bắt phải 
tuyệt tự cho nên mới lập đền thờ.. Hằng năm đến ngày giỗ thì lại làm hai
 hình tượng khổng lồ rước đi nghễu nghện khắp làng sau đó là trai gái 
trong làng được một đêm tự do ra đình làng tòm tem bằng thích để tạ tội.
 Nghe chuyện này biết đâu chừng có nhiều người cũng đang tiếc hùi hụi 
tại sao ta lại không được sinh ra tại cái làng ấy.
Khờ khạo như 
Bờm nhưng một khi đã biết đến tòm tem thì cũng mê mẩn ra phết. Chuyện kể
 là ngày xưa có hai ông bà hiếm hoi sinh hạ được có mỗi một cậu con trai
 đặt tên là Bờm. Vì sợ mất giống nên Bờm được cha mẹ cưới vợ cho rất 
sớm. Chị vợ lớn hơn Bờm nên hàng ngày cứ phải bế chồng đi chơi, đút cơm 
và lo tắm rửa cho chồng năm này sang năm khác mà ban đêm thì chẳng xơ 
múi gì. Ðùng một cái đến cái năm con chuột rúc rích gầm giường, chị vợ 
táy máy sao đó mà Bờm bừng sáng trí khôn hiểu ra cái lẽ sống ở đời.
Từ
 hôm ấy Bờm cứ mê mẩn quanh chị vợ tối ngày làm chị vợ không còn thì giờ
 làm công việc nhà nên bị bà mẹ chồng đay nghiến nhiếc móc. Chị vợ ức 
quá bèn dấu cục đá dưới váy rồi dẫn chồng đến bờ ao lôi cục đá thảy tòm 
xuống ao và bảo chồng: ”Thôi nhé! Tôi đã quăng cái tòm tem xuống ao rồi!
 Từ nay đừng có theo tôi mà đòi nghe rõ chưa.” Bờm tiếc của trời nên 
ngày nào cũng lội xuống ao mò mẫm. Ðược vài ngày chị vợ thấy vừa thương 
hại vừa nhớ nên mới ra ao bảo chồng: ”Thôi về nhà đi rồi tôi đền cho!” 
Bờm không dám tin vào người vợ đã từng nhẫn tâm quăng mất niềm vui của 
mình nên cứ ở lì dưới ao. Chị vợ tức quá bèn vén váy vỗ phành phạch mà 
bảo: ”Nó đây rồi nè!” Bờm ngước lên thấy vợ mình vẫn còn giữ cái món của
 hồi môn tưởng chừng như đã bị quăng mất ấy y nguyên chỗ cũ bèn hớn hở 
bò lên theo vợ về nhà. Nghe nói từ đó về sau Bờm tòm tem rất tiến bộ, 
sinh ra cả bầy con, rồi con cái Bờm lại nối gót mẹ cha mà tòm tem cần cù
 để tiếp tục sinh ra cháu chắt hàng đàn hàng đống ở chật ních cả giải 
đất hình chữ S.
Chuyện tòm tem mà có nói mãi thì cũng không bao 
giờ cùng, cho nên tôi cũng không tài nào nói hoài, chỉ xin tóm lại một 
câu: dân tộc ta qua hàng ngàn năm nô lệ, hàng ngàn năm thiếu ăn, hàng 
ngàn năm chinh chiến, người chết như rơm rạ mà vẫn không bị diệt chủng 
là vì nhờ dân ta ở đâu lúc nào cũng khoái tòm tem và có thể tòm tem. Và 
cũng chính vì nhờ có chút tòm tem mà đời vẫn còn vui để cho chúng ta cứ 
mê muội ngụp lặn trong vòng khổ ải ./.
Đoàn Văn Khanh