Friday, November 28, 2025

Đêm Hỏa Châu - Lê Phùng Xuân


Xã Phước Lợi, thuộc quận Đất Đỏ, là một giồng đất gò cát nằm thoi loi. Chung quanh là đồng ruộng. Chỉ có một chút xíu về hướng Đông là giáp với khu rừng chồi có nhiều thú nhỏ như nhím, sóc, thỏ… và trái cây rừng như trái gùi, trái mây…

Tháng năm năm 1966.Nắng nổ đom đóm. Đại đội về đây khoảng một tuần. Đây là xã xôi đậu. Ban ngày, dọc theo đường lộ, lính của Xuân rong cùng khắp đầu trên ngõ dưới. Ban đêm,  VC mò về xóm trong. Thằng Đực và con Sa là hai đứa học trò ngoài chợ, hay lân la đến chơi, cho Xuân những trái gùi chín, ăn chua lè; những trái mây rừng nhỏ bằng ngón tay út, ăn chát ngắc.Tụi nó cũng cho Xuân những trái gùi muối chua. Món nầy chấm mắm ruốc của bà giáo Thảo thì ngon. Rồi từ đó, Xuân lâu lâu cũng dò biết được một vài gia đình trong xóm. Ai thân VC và ai thân Quốc Gia…

Trời nắng chang chang. Chàng sĩ quan Úc và Xuân cùng ngồi tựa lưng vào bờ đất, uống từng ngụm nước đá lạnh. Chàng thanh niên người Úc nầy có giọng nói khó nghe, âm hưởng của tiếng Anh xa dần mẫu quốc.

- Viết cho tôi đi.Tôi hông nghe được giọng Úc của ông.

À!  .Cấp Chà, cũng là dân nhà binh chuyên nghiệp như mình đây. Có vậy mà Xuân chỉ thoáng nghe left-tenant. Rồi hai ba bữa sau, họ cũng bắt đầu thân thiện nhau, đía nhau tía lia.( đía :dire tiếng Pháp)

Trung đội Peter có khoảng 30, 40 người, ngày ngày cùng Trung đội Xuân đóng cọc sắt từ phía cuối Quận Đất Đỏ băng qua đồng ruộng đến tận xã Phước Lợi.

- Trung đội của anh ít, chỉ có 14 người thôi. Vậy hôm nay, anh lấy phần đất gần đây. Còn đằng xa kia để cho tôi.

- Sao vậy?Cứ làm như cũ.Tôi đi xa có sao đâu?

- Vì anh ít người. Mang cọc sắt và kẽm gai đi xa nặng lắm. Công việc sẽ chậm lại.Chúng ta cần làm xong phần việc nội trong tuần nầy.

- Cám ơn anh.

 Xuân ra lịnh cho người mình dừng lại và chỉ cho họ phần hôm nay mình phải làm.

- Hông phải đi xa nữa. Ráng cùng họ làm rút đọan cuối cho đến xã Phước Lợi.

Nhưng một tiếng bùm vang lên cùng một cụm khói ở phần đất trung đội Xuân làm ngày hôm qua. Khỏi nói, tất cả mọi người cùng thốt lên: Có mìn !

- Đứng yên tại chỗ. Đừng chạy nhốn nháo. Ông Hom. Cho anh em lần bước ra theo đường cũ.

Khổ thay cho trung đội của Peter. Một trái mìn nh ảy.Ít nhứt phải có hai, ba người chết và bị thương khoảng mươi người. Nếu người của Xuân làm đúng chỗ ngày hôm qua là trung đội bị xóa sổ.

Chỉ hông đầy năm phút. Hai chiếc trực thăng cứu thương đã đáp xuống. Xuân đứng nhìn bạn và đồng đội đang chật vật, hối hả đưa người bị thương lên. Họ hông tỏ vẻ hoảng loạn, tuần tự làm việc. Xuân im lặng đứng nhìn bạn, thương bạn mà hông làm gì được. Bạn từ đất nước xa xôi ở miền Nam Bán cầu đến nơi nầy để đổ xương máu cho lý tưởng mà bạn yêu mến. Vợ của đồng đội bạn mất chồng, gia đình mất người thân. Những giọt nước mắt làm sao cho vơi hết nỗi buồn. Xin chia buồn cùng bạn, người bạn trẻ xa xôi. 

Cuối cùng, rồi tất cả lên trực thăng. Peter quay lại.Hai cánh tay cùng đưa lên. Vĩnh biệt.Chúng ta chắc chắn sẽ hông bao giờ gặp lại. Có thể bạn với tôi, bọn mình sẽ thua cuộc trong trận chiến nầy. Và rồi, Phùng Xuân đứng nhìn dòng chữ CBS mờ nhạt trên thân một trực thăng bay về Vũng Tàu…

Lại một sự may mắn đến với Xuân. Nó đến từ đâu? Hông hiểu được. May mắn của người nầy là xui xẻo cho người kia. Các người lính Úc chết thay cho binh sĩ của Xuân. Sao đến thời điểm đó Peter lại đổi ý. Có một nguyên nhân nào, một động lực nào tác động vào ý định của Peter ?

Ai mà biết Thượng Đế?Ai mà hiểu được Thượng Đế? Thượng Đế là đấng Tối Thượng, Toàn Năng… Hông hiểu được Ngài, nên con người giải thích mỗi người mỗi khác. Có người tin vào quyền lực của thiên nhiên, của đạo Chúa, của đạo Phật, của đạo Hồi, của mệnh trời. Có đúng là Chúa Jésus, Thái Tử Shidarta, Thiên sứ Mohammed, Khổng Tử… cũng hông hiểu gì về Thượng Đế nên lý giải mỗi người mỗi khác?Và thế hệ sau bám vào đó, đặt ra nhiều qui luật, vẽ ra những con đường tìm lấy thanh bình ở cõi đời sau?Chỉ có Cọng Sản là hông cần hiểu Thượng Đế và hông cần giải thích. Họ muốn biến đổi thế giới nầy bằng bạo lực để tìm lấy Thiên Đàng Cọng Sản. Và, rốt cuộc, cũng hông chắc tìm ra được, chỉ thấy máu đổ thịt rơi, thù hận chồng chất.

Nhưng có một điều chắc chắn là VC đã dò la biết được nơi Xuân và Peter đóng cọc sắt. Chỉ cần một vài ly rượu đế ở độ nhậu là các chú lính bật mí hết…

 

                                       ***

Đồn Mỹ Hội, quận Đất Đỏ, do một Trung Đội của Đại Đội 612 Điạ Phương Quân trấn giữ. Đây là ngõ thông từ Mật Khu Mây Tào, Xuyên Mộc đi về Mật Khu Minh Đạm.Từ đó, VC có thể dễ dàng qua Long Hải, cù lao Long Sơn, Rừng Sát và xâm nhập vào SàiGòn.

Xuân vừa chợp giấc được một chút. Lúc đầu có nhiều tiếng nổ lớn, sau đó là súng AK 47 nổ dòn.Rồi liền đó vang rền đều đủ các loại. Don Porter, Xuân và ông Hom đứng dưới rặng dừa nhìn về phía đồn Mỹ Hội.

- Chết rồi. Nó đánh đồn Mỹ Hội. Súng của VC nổ nhiều hơn. Chắc một Tiểu Đoàn?Trong đồn bắn trả ra ít quá.

- Sao Thiếu Úy biết?

- D 445 VC hoạt đông thường xuyên ở Mật Khu Minh Đạm mà.Thì chắc thằng Tiểu Đoàn nầy đánh chớ ai. Nó nhổ cái gai chận họng nó qua lại Xuyên Mộc về Sài gòn.Tui nghĩ chắc có thêm hai đại đội C 25 và C41(Châu Đức) ở cù lao Long Sơn. Trong đồn chỉ có một trung đội à, ông Hom.Còn Đại Đội trừ đóng gần mình đây, ở Bờ Đập.

- À, mà nầy, còn mấy bà vợ lính nữa. Đụng trận mấy bả cũng cầm súng bắn như ai. Còn mấy thằng nhóc, con lính trong đồn. Tụi nó tiếp đạn. Đường cùn thì phải liều chết để mà sống chớ, Thiếu Úy !

- Chắc ông nói đúng đó.Tui nghe bây giờ súng trong đồn bắn ra nhiều hơn lúc nảy.

Chàng Trung Úy Don Porter cao lớn, đẹp trai, có bộ ria cá chốt giống như Clark Gable. Don ít nói, chỉ lặng lẽ đi theo Xuân hơn tuần nay. Thỉnh thoảng, Xuân có hỏi gì thì Don mới trả lời? Ban đêm, Xuân ngủ chỗ nào là Don và người Trung sĩ mang máy C-25 nằm ngủ kế cận. Vì Don ít nói, nên thường ngày câu chuyện qua lại chỉ là gia đình, con cái và quê hương của Don ở tận nước Mỹ xa xôi. Hông hiểu sao, cách đây mấy hôm, Don đem tặng Xuân nhiều cuốn sách của Clausewitz và Ludendorff. Don biết Xuân là lính nhà nghề hay là muốn Xuân biết về chiến thuật của Tây Phương? Phùng Xuân đã chán ngấy khi nghe Nguyễn Thanh Liêm nói về vấn đề nầy rồi mà? Don có hiểu gì về chiến tranh du kích ở Việt Nam chưa ?

Pháo binh của Tiểu Khu rót xuống thưa thớt, hông đủ sức chận sự tấn công dồn dập của VC. Đồn có lẽ sắp bứt. Trái sáng soi rọi chập chờn. Trong đồn bắn ra càng quyết liệt hơn. Toàn là Garant, Carbine, Trung liên Bar, chắc hông cự lại được với AK 47, B40…

- Rồi! rồi! Hoả Long lên kia rồi!

Những hỏa châu từ chiếc C- 47 bung ra, bay lững lơ như những lồng đèn giấy to trong các ngày Vía của đạo Cao Đài ở Tây Ninh. Bầu trời rực sáng như ban ngày.

- Thiếu Úy, nó khạc đạn như vậy còn gì người và cây cỏ ở dưới.

- Chà ! Nó gầm như bò rống. Ục... Ục... Ông Hom có nghe hôn?

- Tia lửa đạn khạc có vồng giống như mình nhậu say mữa ụa ụa, té ra có vòi.

- Đâu có. Giống như rồng phun lửa.

Chiếc C-47 bay rề rề vòng vòng  quanh đồn, bắn xuống liên tục. Từng vòi rồng lửa hiện ra. Hỏa lực quá mạnh. Chắc cây cỏ dưới đất hông còn gì ?

Don Porter ngồi bệt dưới gốc dừa. Tiếng máy truyền tin C-25 chạy rè rè, lâu lâu vang lên một tiếng Roger. Xuân và ông Hom đứng trên đường làng. Bóng họ đung đưa ngã dài theo những trái sáng trên bầu trời. Những người dân làng tuôn ra đứng trước sân nhà xem chiến trận xảy ra như màn kịch. Tâm trạng mỗi người mỗi khác. Phe thân VC tỏ ra bồi hồi lo lắng. Làm gì họ hông có người thân trong đó. Phe Quốc Gia thì mong cho người trong đồn bình yên, hông bị VC tràn ngập.

Ôi! Cuộc chiến ngộ nghĩnh, giống như tuồng cải lương. Don Porter dửng dưng nhìn đám con nít chạy lăng quăng trên những đồng ruộng khô, la lối om sòm, tranh nhau lượm dù trái sáng. Chắc nó mơ màng nghĩ đến pháo bông ở nơi quê hương thanh bình của nó. Ôi! Cuộc chiến lạ lùng. Hai bên bắn nhau, người người xúm coi!

Khoảng nửa giờ sau, tiếng súng của VC giảm thấy rõ. Súng trong đồn bắn ra cũng thưa dần.

- Hòa! Tiểu Đoàn có gọi gì hôn ?

- Dạ hông. Họ cũng im lặng như mình.

Đúng rồi! Tất cả mọi người đều nín thinh xem hai bên đánh nhau! Súng đạn cổ lỗ sĩ đệ nhị thế chiến của phe tư bản chọi lại với vũ khí tối tân phe cộng sản. Than ôi! Đau khổ cho dân tộc tôi, đem những cái bị thịt làm trò thí nghiệm, giống như những giác đấu thời La Mã, giống như những con thú động đực điên cuồng cấu xé nhau. Xuân biết mình sẽ bị cuốn trôi theo mệnh nước. Mình có thể cố gắng lội ngược dòng để bảo vệ tổ quốc yêu dấu nầy hôn ?

Những chiếc C- 47 thay phiên nhau bao vùng cho đến khi tiếng súng hai bên ngưng hẳn. Dân làng biết trận chiến đã chấm dứt nên đã vào nhà từ lúc nào. Xuân dựa lưng vào gốc dừa, thiu thiu ngủ.


Sáng hôm sau, Tiểu Đoàn 3/43 của Đại Úy Lã Huy Bật chỉ huy lục soát và giữ an ninh cho hồi kết cuộc. Lễ gắn lon và huy chương các binh sỹ trong đồn. Các bà vợ lính, các chú nhóc con họ, được tưởng thưởng.

Khoảng trăm người nằm chết la liệt quanh đồn. Một bị thương còn sống sót, tính quăng lựu đạn vào các ông Sỹ Quan Tiểu Khu, đi quan sát trận địa, nhưng hông còn sức. Ai nấy chết điếng người. Hú hồn…. Nó mà liệng thì…              

                                            ***

- Thiếu Úy. Ông Ba Tia, ở gần cuối bờ ruộng rià làng, mời Thiếu Úy ngày mai tới nhà ổng.

- Chuyện gì vậy ông Hom? Mà ông tủm tỉm cười.

- Ông mời Thiếu Úy đến làm chủ hôn để ổng gả con gái ổng cho thằng Ơ.

- Ủa! Sao lạ vậy. Tui đâu biết gì ?

- Thì ổng nói. Thiếu Úy là cấp chỉ huy trực tiếp nó, lớn nhứt ở đây. Coi như Ba Má nó thì Thiếu Úy làm chủ hôn được rồi.

- Trời đất! Tui đâu biết gì ?

Mà Phùng Xuân hông biết thiệt. Nhưng đám lính trong đại đội biết. Đêm đánh đồn Mỹ Hội, binh nhì Ơ, cái thằng lù khù ôm cái lu mà chạy, rù rù được cô thôn nữ Tím ra cánh đồng. Nhờ ánh hỏa châu soi sáng, hạ sĩ Độ nhìn thấy hai đứa xà nẹo, nhảy từng tưng ở bờ đê cho đến gần sáng. Mấy hôm nay, đám lính đồn rùm lên. Ông Ba Tía nghe được. Ổng biết là hủ mắm của ông đã bị khui- hay là nói như thằng Mừng, chậu cá lia thia của ổng bị thằn lằn đút đuôi vô quậy rồi- nên ổng mau mau làm đám cưới cho xong. Mà thằng Ơ cũng giỏi lắm. Đóng quân ở nhà ông Ba Tia nó làm đủ việc: quay giếng lấy nước, quét sân mỗi buổi sáng… Lính Sư Đoàn có vậy mà ổng hổng gả sao được!

- Ông Hom. Ông dò hỏi coi nó có vợ con gì chưa? Để đến khi làm đám cưới xong rồi, cô vợ lớn hay được đến đánh ghen là hư đường hư bột hết. Tui với ông cũng có lỗi. Mà sao hổng nhắn hai ông bà già nó lên. Tui còn non chẹt mà đúng ra sui gia với ai.

- Nó nói ông bà già nó ở xa lắm. Dân miệt vườn, quê mùa dốt nát, hông biết đường đi.

Xuân biết nhiều ông lính cũng trời ơi đất hỡi lắm. Đi tới đâu cũng hô chưa vợ. Rút cuộc tùm lum, hai ba bà xúm đánh ghen. Chàng thầm nghĩ, mĩm cười trong bụng: chắc thằng nầy nó cũng giống mình lúc ở cánh đồng Mỹ Nhiên? Đụng trận là bốc hốt liền!

    Bảng vu qui treo sơ sài ngoài ngõ, chung quanh những chùm bông vạn thọ đỏ, vàng. Căn nhà cũng đâu có gì, trống hoác từ trước ra sau. Đám cưới chắc tổ chức vội vàng nên chỉ kiếm đâu được hai cái bàn tròn, hơn chục cái ghế đẩu. Bàn thờ ông bà có một cái lư hương. Hai cây đèn cầy lớn màu đỏ để hai bên. Khi Xuân và ba người trung đội trưởng đến đã có hơn bốn năm ông lớn tuổi đang ngồi quanh những tách nước trà nói chuyện huyên thiên. Họ cùng đứng lên chào bọn chàng, kéo ghế mời ngồi. Được hơn nửa chén trà, một ông già trọng tuổi đứng lên nói vài lời về buổi lễ cưới hôm nay và nhờ Phùng Xuân đứng đại diện đàng trai. Chàng sĩ quan mới ra trường, mặt còn búng ra sữa, cảm thấy mình quan trọng cũng làm gan đứng lên nói vài lời. Sau đó, chàng tiến về bàn thờ cùng ông Ba Tia lên đèn cầy bàn thờ ông bà. Cô dâu còn trẻ, chắc chừng16, 17 tuổi cùng binh nhì Ơ chào mọi người…

- Cái kiểu nầy đóng quân ở đây lâu, nếu rút quân, chắc cả làng sẽ đưa đám lính của mình đi quá! Có bao nhiêu thằng sẽ là rể của làng nầy hả?

Ly rượu nhứt của nhà chú Mười Đỏ kháp gạo lứt ở đầu làng, cay thắt họng, tuôn tới đâu là muốn xé đứt ruột gan tới đó.Mỗi người mời một ly làm Xuân choáng váng. Một vài điếu thuốc rê nữa sắp sửa đốn ngã chàng. Xuân có bao giờ biết uống rượu và hút thuốc đâu. Xuân xoay mòng mòng.Lần đầu tiên chàng tiếp xúc với dân làng trong vai một sĩ quan quân đội…

Và cứ thế, sau đám cưới đó, nếu có đám giỗ, đám quảy nhà nhà trong làng cứ tiếp tục mời.Từ một ly, hai ly, đến bây giờ Xuân thành hủ hèm. Nhứt là từ khi có Thọ- Trưởng ban Xây Dựng Nông Thôn- về đóng ở làng, họ bày đặt ra rượu mật nhím. Uống vào đăng đắng, ngòn ngọt, cọng thêm gỏi cá biển, làm ngất ngư con tàu đi luôn.Từ đó, chàng sĩ quan trẻ trở nên hư đốn. Chàng biết thêm: uống rượu và hút thuốc lá.


Lê phùng Xuân

(Trích trong Trăng Suông)

 

Viết thêm:

1-Những năm đầu thế kỷ XXI, tôi có đến thăm The VietNam Traveling Memorial Vall (20Jan 1969) ở gần nhà. Sẵn dịp, tìm coi Don Porter như thế nào?Người hướng dẫn tìm một hồi lâu thì có tên Donald Porter, Panel 23W, Line 46.Nhưng tôi nhìn kỷ: chỉ có bộ râu là giống, còn gương mặt hơi khác năm xưa, hông giống như người Nam Âu, lai với người Á Rập của đoàn quân tướng Hannibal?Có phải Don Porter đã chết rồi, phải hôn? Có điều hơi khó hiểu:Hồi xưa trên cổ áo của Don Porter là một gạch trắng, bây giờ ở đây ghi là Sergent?Nhưng dù gì, cũng cúi đầu chào người bạn lính năm xưa. Bây giờ bạn ở đâu??.

Trước Những Nỗi Đau


Biển bao nhiêu nước chứa cho vừa

Sông không gồng nổi đổ thừa mưa

Con dế cơm bu ngọn dừa kêu cứu

Đất trời rộng, dễ gì tới được tai vua ?


Động long mạch hay động đến thổ thần

Sao lại cứ đổ tội lên đầu thắng dân

Ai phá rừng mà nhà kiếm lâm toàn lim, cẩm...

Chuyện lở núi, sạt đồi...ai chết cớ gì phân vân ?


Đất Phú Yên chẳng yên bình... thiệt lạ

Thủy Tinh giờ ăn vạ với sông Pa

Nước Đồng Cam đã từng pha màu máu

Xương cốt cha ông vùi đáy cát biển Tuy Hòa.


Tây Nguyên mưa trắng trời hay Tây Nguyên khóc

Dòng Sêrêpok gánh sao nổi cơn lũ tràn về

Gia súc chết và nhà tan cửa nát

Ai xót thương giùm cho làng bản người Êđê ?


Đêm nằm nghe mưa mà !o nơm nớp

Đất sụp xuống vì cơn giận của thổ thần

Thủy Tinh lại nổi trận lôi đình dâng ngập nước

Tai ách được trút lên đầu lên cổ người dân.


Mưa đã có từ ngàn năm thiên cổ

Sao nay vẫn còn làm khổ con người

Ai đã từng làm trái mệnh trời từ nhiều thập kỷ

Để bây giờ mưa như ngàn giọt lệ rót nơi nơi ?


Nếu ngày nào đất trời còn cho ta sống

Ước được là cây cỏ nếu không giống con người

Sẽ mỉm cười trước bão giông lũ lụt

Khi trở về nguyên thủy như vượn, khỉ, đười ươi.


TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM | TRƯỚC NHỮNG NỖI ĐAU | Facebook

Ký Ức Về Trường La San Taberd Sài Gòn - Nguyễn Duy Phước


Xin gửi vài hình ảnh và một bài thơ về ngôi trường thân yêu mà tôi đã theo học từ năm 1962 (lớp 6è) cho đến năm 1968 (lớp Terminale) chương trình Pháp ngữ (trước đó ở bậc tiểu học thì tôi học ở trường Saint-Exupéry, không biết bây giờ tên gì). Cần biết là sau tháng 4/1975, trường đã bị Việt Cộng đổi tên dài thòn thành “Trường Trung Học Phổ Thông Chuyên Trần Đại Nghĩa”.

Trước hết là những tấm hình rất xưa của trường thời tôi còn học hay trước đó nữa (nên phần đông có hơi mờ).


Các đia điểm nổi tiếng chung quanh trường 

Phía trước mặt là đường Nguyễn Du, bên hông là đường Hai Bà Trưng, phía sau là đường Gia Long (nay đổi tên là Lý Tự Trọng). Sát bên cạnh là Bộ Nội Vụ nằm bên hông đường Tự Do (nay V.C đổi thành Đồng Khởi). Và nơi góc đường Nguyễn Du và Tự Do là công trường John F. Kennedy (nay V.C đặt tên quái đản là Công xã Paris), và chung quanh công viên này có những danh lam như Nhà Thờ Đức Bà (hay Vương Cung Thánh Đường) và Bưu Điện Sài Gòn có từ thời Pháp thuộc.

image.jpeg

Chung quanh Bưu điện có điểm đặc biệt là 2 quán bánh mì Hương Lan và Nguyễn Văn Ngãi (rất nổi tiếng với những loại bánh ăn sáng của Pháp) và rất nhiều hàng rong khiến mỗi sáng tôi vẫn thích mua ăn điểm tâm nhưng vẫn còn nhớ vừa ăn vừa phải coi chừng vì có ông Frère người Pháp tên Romuald luôn sách roi đi rượt đuổi những học trò ăn hàng... 

image.jpeg

Hình ảnh bên trong trường

image.jpeg 

image.jpeg 

image.jpeg 

image.jpeg

 image.jpeg

image.jpeg 

 image.jpeg

 image.jpeg

 image.jpeg

 image.jpeg

 Hình của một vài Sư huynh (Frère)

Trong suốt thời gian học ở Taberd thì tôi biết rất nhiều các Frères dạy (và một số có làm Hiệu trưởng) như Désiré Nghiêm, Adrien Hòa, Bonnard, Félicien Lương, Pierre Ba, Alsème (ông ngoại chuyên dạy giáo lý kiêm cả sinh lý rất vui), Innocent Từ, Donatien Nhựt v.v... Cần biết là ngoài một số sư huynh, trường còn mướn một số thầy ở ngoài vào, phần đông tôi biết là dạy các môn như Việt văn, Địa lý/Sử ký...  Tôi còn nhớ một vài thầy như Lê Bá Sằng, Trần Trọng Sanh, nhất là thầy Sanh (ông hình như trong đảng Đại Việt) vì tôi có dịp liên lạc với ông khi ông tỵ nạn ở Mỹ và hai thầy trò thường trao đổi về thi văn (nhưng đã qua đời rồi).

Một số sư huynh đã có thể ra xứ ngoài sống vì đã ra dòng nhưng hầu hết thì ngày nay đã qua đời rồi. Sau đây xin đăng hình của các Frère Désiré (ở Mai Thôn Lasan), Thầy Từ (ở Pháp) và Thầy Nhựt (ở Mỹ) với sự có mặt của vài bạn bè.

 

image.jpeg

image.jpeg

image.jpeg

 image.jpeg

    Hình chụp vào năm 1968 khi học lớp Terminale.

Cần biết vì có rất đông học trò nên thường thì mỗi bậc phải chia ra 2 lớp, mỗi lớp có từ 30 đến 35 nguời.

Chẳng hạn ngoài lớp Terminale C (để thi Bac ban C Toán) thì còn có Terminale D (để thi Bac ban D Vật Lý). 

image.jpeg

Hình chụp khi tôi 18 tuổi, thuộc giới trẻ nhất, còn lớn nhất có thể 20 tuổi. Thật ra dân promo này chưa phải thuộc loại « già khụ », cùng lắm bây giờ là 77 tuổi, nên chưa hẳn là mất mát nhiều nhưng cũng có gần 10 bạn đã qua đời vì bệnh. 


Vài sinh hoạt khác của promo 68

image.jpeg

image.jpeg


 Và những tấm hình trên đã gợi cho tôi ý để thực hiện bài thơ sau đây: 

image.png

 

Nguyễn Duy Phước

Thursday, November 27, 2025

Tôi Và Lễ Thanksgiving - Sương Lam

 

Thứ Năm 11-27-2025 tuần này là ngày dân Mỹ mừng Lễ Thanksgiving (Lễ Tạ Ơn) năm 2025.  

Câu chuyện 102 người Pilgrim từ Anh Quốc đi tìm tự do tín ngưỡng trên con tàu Mayflower  bắt đầu từ tháng 9 năm 1620 cho đến  ngày 11 tháng 12 năm 1620 khi đến Plymouth Rock, Massachusetts, chỉ còn lại 56 người được sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người da đỏ mang đến cứu giúp, đã nói lên cái tính nhân bản về sự giúp đỡ và lòng biết ơn  của con người. 

Những người da đỏ còn chỉ dạy cho những di dân mới đến trồng trọt mùa màng.  Những người sống sót này thu hoạch được mùa gặt rất tốt đẹp năm sau đó.  Họ quyết định làm tiệc ăn mừng với sự tham gia của thổ dân đã giúp họ sống sót.  Đây có thể xem như là buổi tiệc “Tạ Ơn” đầu tiên cho những ngày Lễ Thanksgiving sau này. 

Năm 1941  Quốc Hội Mỹ  đã đồng thuận và chọn  ngày Thứ Năm của tuần lễ thứ 4 trong tháng 11 sẽ là Ngày Tạ Ơn trên toàn quốc. Ngày 26 tháng 11 năm 1941, Tổng thống Roosevelt chính thức ký thông qua đạo luật này  và ngày lễ Thanksgiving được xem là ngày lễ chính thức hằng năm của nước Mỹ. 

Đây là một ngày lễ lớn của Hoa Kỳ, học trò được nghỉ học, nhân viên công tư sở được nghỉ làm để gia đình con cháu sum họp bên nhau ăn tiệc mừng Tạ Ơn trong không khí ấm cúng gia đình. 

Món gà tây quay, món khoai lang ngọt, món bánh nướng bí rợ (pumpkin pie), hoa quả thu hoạch được trong mùa Thu là những món không thể thiếu được trên bàn tiệc Thanksgiving của dân Mỹ vì đó là những thức ăn mà người da đỏ đã mang tới cho người di dân ăn trong cơn đói lạnh. Họ ăn để tưởng nhớ và biết ơn người đã cứu sống họ. 

Tôi may mắn có được bà hàng xóm tốt bụng Maria thường bưng qua biếu chúng tôi những bữa cơm tối ngon lành. Gia đình bà gốc Romania nên rất cảm thông với người bạn tỵ nạn gốc Việt Nam chúng tôi.

Năm nào bà cũng mời chúng tôi qua dự tiệc ăn mừng Lễ Thanksgiving với gia đình bà như người thân trong gia đình. Xin mời xem 


Hình ảnh Thanksgiving Dinner 2024 at Maria’s home

https://photos.app.goo.gl/87UaCwp55EdmEumCA

Năm nay bà Maria cũng đã chuyển lời mời vợ chồng chúng tôi đến dự tiệc Thanksgiving với gia đình bà vào ngày Thứ Năm 11-27-2025 là ngày Lễ Thanksgiving năm nay. Vui thay! Thank you so much Maria!

Chúng tôi là hàng xóm láng giềng rất quý mến nhau nên tôi đã lưu lại những hình ảnh thân ái của tình hàng xóm yêu thương nhau như người trong gia đình của gia đình bà Maria và gia đình tôi qua link dưới đây.

Mỗi lần xem lại hình ảnh này là tôi luôn cảm ơn lòng tốt của Bà Maria.

Link Photos Maria and Suong  

https://photos.google.com/share/AF1QipP3y13-yBstBonKYBkAFy5cWyxpvNLumFWyRyQRZfU9-TOfcNAKMdn41ORL2y2cjA?key=SjV0amlLM3h5d0dEdWJ4emZsRHowQTcwMXBpRFlB

Ở nơi nào có sự thương  mến nhau thì nơi ấy là nơi chốn của hạnh  phúc  và thương yêu. Tôi thường nghĩ thế.  Bạn đồng ý chứ? 

Chúng ta cũng là những người di dân đến đất Mỹ trong vòng mấy thập niên gần đây. Những người bạn Mỹ đã mở rộng vòng tay và mở rộng con tim  đón nhận chúng ta đến chung sống với họ trong hoà bình, tự do, hạnh phúc.   “Nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”, đó là lời dạy bảo của ông cha ta để lại.  Chúng ta cũng cần hội nhập vào nếp sống văn hóa hay đẹp của xứ người vì hai chữ ân tình. Chúng ta cần phải biết cám ơn những cơ quan thiện nguyện, những tổ chức tôn giáo, những người bạn tốt, những ân nhân đã bảo trợ, giúp đỡ chúng ta trong những ngày tháng khó khăn lúc ban đầu nơi xứ lạ quê người.

Chúng ta sinh ra đời là đã thọ ơn rất nhiều từ nhiều người: ơn tiền nhân đã ra công dựng nước, ơn chiến sĩ, đồng bào đã ra công bảo vệ, gìn giữ nước, ơn Tam Bảo đã dạy các phương cách sống an vui thoát khổ, ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục nên người, ơn thầy cô đã truyền trao kiến thức, ơn bạn bè thân hữu đã  giúp đỡ khi chúng ta gặp lúc khó khăn, góp vui xẻ buồn khi chúng ta có chuyện quan hôn tang tế v..v…

Người viết vẫn thường tâm niệm:

“…Vẫn ghi nhớ non sông đất nước

Tiền nhân kia gian khổ biết bao

Mồ hôi, xương trắng, máu đào

Việt Nam một giải, biết bao ân tình

 

Thân tình đáp thân tình mới xứng

Nghĩa ân kia, phải trả nghĩa ân

Con người sống chết hai lần

Sống ra nghĩa sống, chết cần chết vinh…”

 ( Thơ Sương Lam- Ân tình nước Việt)

Đôi khi chúng ta cũng cần phải cám ơn nụ cười ngây thơ của em bé nhỏ, cám ơn  lời nói dịu dàng trìu mến của người bạn già vì những nụ cười, lời nói  đó đem lại cho chúng ta  niềm vui trong ngày.  

Đôi khi chúng ta cũng cần cảm ơn cho những cuộc tình dang dở vì những dở dang này giúp ta biết thêm thi vị của “thú đau thương” trong tình yêu.  Chúng ta cũng phải cám ơn những sự thất bại trong cuộc đời để từ đó ta biết giá trị của sự thành công đáng quý như thế nào.  Trong hạnh phúc hay trong đau khổ của cuộc đời, chúng ta phải cảm ơn tất cả mọi người, mọi vật, mọi sự kiện đã đến với chúng ta để cho cuộc sống tâm linh, tình cảm, vật chất của chúng ta thêm phần khởi sắc, thêm phần phong phú.  Bạn đồng ý chứ?


Cũng nhân Ngày Lễ Tạ Ơn, người viết xin chân thành cảm ơn ban điều hành  ORTB, quý độc giả,  quý thân hữu đã chia sẻ vui buồn với người viết khi vào  đọc những lời tâm tình của người viết trong mục Một Cõi Thiền Nhàn này.  Nếu không được sự ưu ái giúp đỡ, khích lệ, ủng hộ  của quý vị, thì người viết sẽ không có phúc duyên thực hiện được tâm ý đem một chút niềm vui nho nhỏ đến cho người, cho mình trong chốn bụi hồng lao xao này. 

Xin đa tạ lòng thương yêu, quý mến của quý vị đã dành cho người viết.

Xin được nói lên lòng cảm ơn chân thành này của tôi qua tâm tình trong bài thơ dưới đây


Bài Thơ Cảm Tạ

Tôi viết xuống đây bài thơ cảm tạ

Đến Phật, Trời ban hồng phúc thiện duyên

Giúp cho tôi, hiểu nghiệp quả nhân duyên

Nhận ân nghĩa, phải tri ân đền đáp


Tôi viết xuống đây bài thơ cảm tạ

Đến Cha Mẹ tôi, hai đấng sinh thành

Dưỡng nuôi tôi, bé nhỏ đến thành danh

Chưa đền đáp, Mẹ Cha đà khuất bóng!


Tôi viết xuống đây bài thơ cảm tạ

Thầy cô dạy tôi hai chữ nghĩa ân

Truyền cho tôi những kiến thức thiết cần

Cho đời sống tôi thăng hoa tốt đẹp


Tôi viết xuống đây bài thơ cảm tạ

Đến bạn bè, thiện tri thức, thiện nhân

Giúp đỡ tôi những giây phút tôi cần

Chia sẻ cùng tôi vui buồn cuộc sống


Tôi viết xuống đây bài thơ cảm tạ

Đến những người vì Tổ Quốc hy sinh

Để cho tôi có cuộc sống an bình

Nơi xứ lạ, trong Tự Do, Hạnh Phúc


Tôi viết xuống đây bài thơ cảm tạ

Đến người dân nơi tôi sống tạm dung

Mở rộng vòng tay, để tôi được sống cùng

Trong hạnh phúc, trong tự do, nhân bản


Và sau hết tôi đây xin cảm tạ

Đến người thân gia đình bé nhỏ của tôi

Sẻ chia với tôi ấm lạnh cuộc đời

Tôi vui khổ, họ cùng tôi vui khổ


Sương Lam

(Trích trong tập thơ Đời Sống Quanh Ta của SL)


Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.


Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

 Sương Lam

(Nguồn: tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi –MCTN 78-ORTB 1229-11-25-25)

 

Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam

https://www.pinterest.com/suonglamt/

Một Câu Hỏi Của Người Miền Bắc - Khuyết Danh


 Một câu hỏi.

“Để trả lời một câu hỏi?”
Có lần mình đã gặp một anh người Bắc, nói năng nho nhả cũng thuộc dạng trí thức anh đã hỏi mình một câu như vầy :
Em người miền Nam sống ở Saigon từ nhỏ, anh hỏi thật em trả lời đúng sự thật với suy nghĩ của người Saigon nhé !
Tại sao cũng là người Bắc, nhưng Bắc 54 di cư vô miền Nam, tới giải phóng là 21 năm.
Anh vô miền Nam năm 75 đến giờ là 42 năm, gấp đôi dân 54.
Thế nhưng tại sao người SàiGòn lại coi Bắc 54 là một phần của họ gặp nhau tay bắt mặt mừng như ruột thịt, anh để ý riêng bản thân anh thôi nha. Có thân lắm có vui lắm, dân SàiGòn vẫn luôn mang một khoảng cách khi tiếp xúc với anh, nếu họ biết anh đến với Sài Gòn năm 75???
Trời, một câu hỏi khó cho thí sinh à nha !
Em trả lời thật, anh đừng giận em nói :
-Tách riêng 2 phần chính trị và văn hoá nghệ thuật ra đi ha!


Phần chính trị thật ra khi giải phóng vô em mới có gần 15 tuổi thôi về quan điểm thắng, thua em chưa đủ trình độ nhận xét,
Nhưng nếu nói về cuộc sống của thời trước và thời sau 75, khác nhau nhiều lắm : sướng khổ rỏ rệt. Má em chỉ là công chức nhỏ của tổng nha kiều lộ, bây giờ mấy anh gọi là cầu đường đó, nhưng hồi nhỏ em rất sướng, đi học toàn trường dòng, em không biết ngoài Bắc anh có không, chứ thời đó mà học nội trú là mắc lắm đó, nhà em không giàu, cậu đi lính Quốc Gia, dì và ông ngoại đều dân Kiều lộ, nhưng sống rất thanh thản, mặc dầu lúc đó chiến tranh tràn lan khắp nơi.
Thời đó người Bắc di cư vô Nam, thường sống từng vùng do chánh phủ chỉ định, rồi từ từ lan ra.
Người miền Nam học được người Hà Nội nhiều điều : Cần kiệm, lễ giáo, nếp sống thanh lịch quý phái và tri thức.
Người miền Bắc vô Nam học được của người Sài Gòn nói riêng và người miền Nam nói chung : Sự giản dị, chân thật, tốt bụng, phóng khoáng ; không câu nệ bắt bẻ hay khó khăn.

Và cả hai miền học được của miền Trung cái chịu thương chịu khó, cái đùm bọc tình đồng hương.
Cả ba miền hoà nhập với nhau, ảnh hưởng nhau lúc nào không hay. Hồi đó, em đi học gặp mấy đứa bạn Bắc Kỳ rốn vẫn hay chọc tụi nó là “Bắc kỳ con bỏ vô lon kêu chít chít” mà tụi nó cũng không giận, chọc lại em : “mày Nam kỳ ga guộng, bắt con cá gô, bỏ dô gổ ,kêu gột gột”, rồi lại khoác tay nhau chơi bình thường. Trẻ con thì như vậy, người lớn gặp nhau ba miền chung bàn nhậu là dô đi anh hai mình, là tay bắt mặt mừng …

Em nói dài dòng để cho anh hiểu rõ hơn vì sao Bắc 54 trở thành người miền Nam.
Chưa kể đến cái tình nha anh! Tình đồng đội khi chiến đấu chung. Ngoài anh chắc gọi đồng chí, trong đây em nói quen tiếng dân Sài gòn xưa, lúc chiến tranh mà đi lính thì cũng phải đi chung, cả ba miền gặp nhau giữa lúc thập tử nhất sinh, thân nhau là chuyện bình thường.

Đó là lính, còn người dân giữa cái tan tác đau thương chạy loạn lạc, chết chóc hầu như từ mũi Cà Mau đến sông Bến Hải…. nơi nào không có. Từ đó, người ta thương yêu nhau và không ai nghĩ miền nào là miền nào. Người ta gọi đó là tình đồng bào, tình quân dân cá nước nói theo kiểu miền Nam của em.
Đó là nói hơi thiên về chính chị chính em đó nha !


Bây giờ, bàn hơi sâu văn hoá nghệ thuật thời đó nha !
Em nói với anh ngay từ đầu rồi nhé ! Lúc đó em chỉ mới 15 tuổi, làm sao đủ tư cách phê bình văn học. Em chỉ kể cho anh nghe theo cái hiểu biết nhỏ bé của em thôi.
Người miền Bắc 54 vô miền Nam đem theo được gì nhỉ ?
Người thì chắc cũng không có của cải gì nhiều rồi, đi giống như đi vượt biên mà có gì, sao anh cười, em nói thiệt mà !
Nhưng có một di sản khổng lồ mà người miền Bắc 54 đã đem cho miền Nam. Đó là văn hoá, nghệ thuật. Nếu xét kỹ, nhà văn thời đó của người Nam bộ vẫn ít hơn người Trung và Bắc. Những tác phẩm giá trị, từ dịch thuật đến thơ văn, hầu như tác giả người Hà Nội, người Huế, Đà Nẵng, Sài gòn, v.v… toàn những tác phẩm để đời.
Em xin lỗi, “giải phóng” hơn bốn chục năm rồi, nhưng nếu ai có hỏi em đã đọc được cuốn sách nào để lại ấn tượng trong em chưa….
Xin chào thua, giận em, em chịu, vì có đọc đâu mà nhớ !
Chả có gì cho em ấn tượng, chắc một phần do em dốt anh ạ, nên không hiểu nổi văn học thời này thôi.


Nói đến nghệ thuật cái này thì em thích ca thích hát nên hơi rành một chút. Chắc anh không ít thì nhiều cũng phải có nghe Duy Quang hay Sĩ Phú, Duy Trác, Tuấn Ngọc… những người con Hà Nội hát trước 75, nói về văn học có thể anh không biết chứ hát hò anh phải biết sơ thôi.
Vâng, Hà Nội 36 phố phường để lại cho người miền Nam nhiều ca khúc để đời của Phạm Duy, chắc anh không biết bài Viet Nam… Việt Nam, bài tình ca Con đường cái quan, của bác ấy .
Em nói nhiều về Pham Duy vi đúng là dân Hà Nội 45 đó anh !
Oh, anh biết nhiều về Phạm Duy, như vậy chắc anh cũng biết rõ những nghệ sĩ nổi tiếng trước 75, đến bây giờ vẫn ăn khách, những người ca sĩ mà anh biết không, cái thời ngăn sông cấm chợ, muốn được nghe phải thức canh đài BBC hay đài VOA, vừa nghe vừa khóc vì quá xúc động. Đó là lý do tại sao ca sĩ Hải ngoại khi về nước người ta đi đón râ`n trời, một cái vé có khi nữa tháng lương người ta vẫn cắn răng để nghe cho bằng được thần tượng của mình hát.
Đó là ca sĩ Hà Nội, còn trong Nam hay ngoài Huế cũng rất nhiều ca sĩ nổi tiếng, kiểu Chế Linh, Nhật Trường, Duy Khánh, v.v…

Em xin lỗi anh nhé, có thể ca sĩ ngày xưa người ta hát không cần phải là học trường lớp thanh nhạc như cái cô Thanh Lam gì ngoài Bắc của anh bây giờ đâu, nhưng vẫn đi vào lòng người nghe mãi không quên, còn cô ấy học cao quá diva diviec gì đó, nói thiệt anh đừng cười em lạc hậu với thời cuộc quá anh ạ, nhờ cái chuyện cổ chửi ca sĩ miền Nam thất học, dư luận ồn ào quá, em mới để ý, chứ thiệt tình bình thường em mà biết cô này .. em chết liền đó anh, chưa từng nghe giọng hát này bao giờ.
Thì đó, nhờ những tác phẩm giá trị của văn học nghệ thuật, những nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ đều có sự đóng góp của Huế, Sài gòn, Hà Nội.. đã đưa ba miền Nam-Trung-Bắc, gần nhau hơn, hoà quyện lại với nhau thành một.
Cám ơn anh chịu khó nghe em phân tích một cách dài dòng xoay quanh câu hỏi của anh.

Vì đây là lần đầu tiên em được nghe một câu hỏi rất thật của một người Bắc vào trong Nam … năm 1975 .Thế cho nên em cũng trả lời rất thật lý do vì sao Bắc 54 lại là dân miền Nam dầu chỉ mới sống với nhau có 21 năm.
Và dân Bắc 75, dầu sống trong Nam đến 42 năm, vẫn mãi mãi là …. người Bắc, chứ không thể nào là người Hà Nội của dân miền Nam xưa.


Với một ít kiến thức nhỏ nhoi, một ít kinh nghiệm sống từng trải qua những thăng trầm của đất nước.
Em xin các cô bác, anh chị đã, đang và sắp đọc những giòng tự sự này một lời xin lỗi nếu như em có viết sai một ít chi tiết nào đó, các bậc cao nhân, tiền bối làm ơn bỏ qua cho kẻ hậu bối này câu trả lời mơ hồ của em, chắc chưa đủ sức thuyết phục cho anh bạn miền Bắc của chúng ta hiểu rõ hơn… Nhưng sức người có hạn, em nói rồi – tầm hiểu biết của em hạn hẹp bao nhiêu đấy thôi.
Xin chỉ giáo thêm!

Khuyết Danh