Wednesday, August 20, 2025

Mánh Mung - Khiết Nguyên

 

Chuyện cười ra nước mắt do một chiến hữu tại Úc viết cách nay 6 năm. 

Bắc Kỳ 1954 đụng Bắc Kỳ 1975 trên xứ người.

  Năm 1984 sau 3 năm cày bừa vất vả nơi xứ người, tôi mua chiếc xe hơi mới đi cho sướng, coi cái bàn tọa nó êm tới cỡ nào. Bạn bè cứ khuyên tôi hãy lấy tiền đó trả bớt tiền nợ mua nhà mà mình vay của ngân hàng. Nó sẽ giảm tiền lời mình phải trả hàng tháng cho họ nhiều lắm. Tôi để ngoài tai, hưởng thụ trước đã!
   
Tôi đăng báo bán cái xe cũ vẫn còn rất tốt đã theo tôi cày cuốc bấy lâu nay. Người khách đầu tiên điện thoại cho tôi đến nhà coi xe là anh Bắc kỳ 75. Trông anh có vẻ đẹp trai, ăn nói lễ độ. Điều làm tôi ngạc nhiên là làm sao anh có mặt trên xứ sở Úc châu này? Tôi không dám hỏi, chỉ lẳng lặng quan sát anh.
   
Anh đi một vòng coi xe rồi nói: anh ơi! Em mới qua được dăm (vài) tháng, cần xe đi làm, em không biết coi máy, em nghĩ anh là người Bắc năm tư (54) nên em tin anh.  Em không giả (trả) giá, nếu anh "đảm bảo" máy tốt em sẽ chồng tiền mặt lấy xe ngay.
  
Tôi nói đùa cố ý chọc anh chút cho bõ ghét: nhà cụ cứ nhắm mắt vào mà mua, nhà em cưỡi nó mấy năm nay rồi, tốt lắm. Cơ khí đảm bảo, chất lượng cao, không khi nào bị đột xuất nằm đường. Mua về, nhà cụ không phải tốn tiền bảo quản thêm, cứ việc xử lý vô tư...ư ...ư... Hơn nữa nhà cụ làm sao kiếm ra cái xe hoành tráng mà giá cực kỳ rẻ như xe này của nhà em được cơ chứ???
  
Anh hiền từ nhìn tôi cười thoải mái, đồng ý mua ngay. Tôi mời anh vào nhà làm giấy tờ sang tên. Anh năn nỉ tôi đi với anh ra nha lộ vận vì anh không biết tiếng Anh. Tánh tôi hay thương người (cha mẹ "dzợ" tôi đông lắm chứ không chỉ có 2) nên tôi đồng ý.
Công việc xong xuôi, anh mời tôi đi ăn phở. Thấy anh ăn mặc đúng là người mới tới Úc, tôi không nỡ "ăn" tiền của anh bèn mời anh về nhà tôi uống cà phê.
   
Anh cho tôi biết cái xe của tôi là cái thứ 10 anh đi coi vì thấy giá rẻ. Anh mới nhìn xe của tôi là anh "kết" rồi. Đẹp, sạch sẽ từ trong ra ngoài. Cái điều làm anh mua ngay là lối nói chuyện của tôi, có vẻ không tha thiết để bán cho bằng được như những người kia. Điều đó làm anh tin tưởng xe còn tốt.
  
Nghe anh nói tôi mới biết anh cũng thuộc loại dân buôn bán thứ thiệt khiến tôi càng tò mò đời tư anh nhiều hơn. Qua cách nói chuyện của anh, tôi biết anh muốn làm thân với tôi. Tự nhiên anh khai ra cuộc sống của gia đình anh trước.
   
Anh là dân Hòn gai tỉnh Quảng Ninh ngoài Bắc. Năm 1974 tới tuổi đi lính, anh phải gia nhập bộ đội. Đầu năm sau đơn vị anh được điều động vào Nam "giải phóng" cuộc sống "lầm than đói rách" của nhân dân đang bị "Mỹ Ngụy" kềm kẹp 20 năm nay!!! Câu này đứa bé con 6 tuổi ở làng anh vào lớp 1, đã phải học thuộc lòng....
  
Trong bộ đội các chính trị viên lên lớp luôn nói rằng dân miền Nam không có cái bát ăn cơm, phải ăn bằng gáo dừa. Dép không có mà đi. Con cái sanh ra không được đi học. Lớn lên thành ăn trộm, ăn cắp, đĩ điếm. Lính "Mỹ Ngụy" đi tới đâu là hiếp dâm đàn bà con gái tới đó. Còn "thằng Diệm" "nó" lê máy chém khắp miền Nam...v...v...
 
Anh thầm nghĩ, cuộc sống ngoài Bắc này đã cực khổ lâu nay, chỉ mong cho quân đội miền Nam ra giải phóng miền Bắc. Bây giờ trong đó họ còn khổ hơn mình nữa thì còn trông mong gì... Năm trước B52 oanh tạc miền Bắc, mọi người đang mong cho Đảng đầu hàng để đổi đời. Đùng một cái Mỹ ngưng ngang, tức muốn chết. Chỉ cần oanh tạc thêm vài ngày nữa thôi là Đảng hả họng rồi!
Anh vượt đường Trường sơn với tâm trạng chán chường. Từ giã cha mẹ trong nước mắt vắn dài, khóc thương cho sự chia ly, cằm chắc cái chết trước mắt. Quê anh bao nhiêu thanh niên "hồ hởi phấn khởi" theo lời Bác vào Nam, giờ này cũng chưa thấy ai có tin tức gì!
Lội suối băng rừng ngày đêm anh sợ sệt, hồi hộp, chim teo hết, chứ không "hân hoan" như cái loa phóng thanh treo trước nhà anh, ngày đêm ra rả một luận điệu giống nhau. Sau này anh mới biết, vì cuộc chiến gần tàn, Mỹ đã rút nên trên đường vào Nam anh không được hân hạnh thưởng thức mùi bom của B52.
  
Sáng 30/4/75 đơn vị anh được lệnh sửa soạn cấp tốc tiến vào Saigon thì đơn vị mở "đài" cho mọi người nghe "cái tên" Tổng thống miền Nam Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Anh mừng đến chảy nước mắt, ôm bạn bè nhảy múa ăn mừng. Anh thầm cám ơn tổ tiên đã cho anh còn sống sót.
Chỉ cần một tháng sau anh đã thực sự "mở mắt". Những lời Bác, Đảng nói với anh khi xưa đều ngược lại. Thành phố Saigon bây giờ dù còn đang bầy hầy, ngổn ngang sau ngày dân đua nhau tìm đường chạy ra nước ngoài, trông vẫn còn sự sang trọng, "phồn vinh thật" chứ không giả tạo. Họ vội vã ra đi với hai bàn tay trắng giống như năm 54, bỏ lại tất cả nhà cửa, tài sản. Dân Saigon ăn nói hiền hòa, dễ thương. Tầm hiểu biết của họ vượt ngoài sự tưởng tượng của anh bấy lâu nay.
  
Anh không hiểu nổi tại sao bộ đội của anh làm ngơ cho cái đám nhố nhăng mặt mày bậm trợn, đeo băng đỏ vào cánh tay quậy tung đường phố. Lần đầu tiên trong đời anh mới thấy cái TV, tủ lạnh, nhất là cái đồng hồ đeo tay có cửa sổ lại không người lái (đồng hồ tự động có ngày). Cái gì cũng lạ với anh kể cả cách ăn mặc của dân miền Nam, trông hấp dẫn đẹp mắt vô cùng. Anh bắt đầu hoang mang, chán nản, hết còn tin tưởng những lời được Đảng nhồi nhét trong đầu anh, từ ngày anh có trí khôn. Chỉ toàn lừa dối, láo khoét!
Trong những lần học tập chính trị, giảng viên có lên lớp nói với anh: "Nói láo là một việc xấu, nhưng nói láo cho Bác và Đảng thì không sao..."
Anh thèm muốn, mơ ước có được những đồ đạc tiện nghi vật chất ở Saigon này mà trong túi lại không có tiền. Anh bắt đầu rình mò ăn cắp bất cứ cái gì trong trại lính của anh đem bán. Các cơ quan của "Mỹ ngụy" mà đơn vị anh vào tiếp quản đầy dãy đồ đạc, cái gì cũng lạ mắt, anh chưa từng thấy bao giờ. Để kín anh rình, để hở anh rinh. Ngày anh có tiền mua được cái "đài con" anh sung sướng ôm ấp nó suốt ngày.
Mấy năm sau anh tìm đủ mọi cách để xin "phục viên" làm dân thường, kiếm đường đi buôn lậu. Anh vào Nam mua radio đồng hồ, quạt máy đem ra Bắc bán, mua 1 bán 10, tiền vào đầy túi.
Thời gian đi buôn, anh thấy phong trào vượt biên trong Nam rầm rộ quá nên anh cũng tính đường bỏ Bác Đảng để ôm chân "đế quốc" Mỹ cho nó ấm thân. Anh không biết xã hội Tây phương nó sướng cỡ nào nhưng anh thấy cái "gương" đời sống tại Saigon, anh biết chắc nó hơn xa "Xã Hội Chủ Nghĩa".
 
Năm 1980 anh ra sức móc nối với bạn bè tổ chức ra đi bằng "thuyền buồm". Anh đem theo vợ với 2 con. Ghe căng buồm ra khơi, chạy dọc theo bờ biển từ quê anh qua Hong kong. Hễ hết nước, lương thực, anh lại ghé vào đất Trung cộng mua. Lênh đênh hơn 3 tháng mới tới nơi. Tại trại tị nạn anh lại biết thêm một điều: người dân miền Bắc từ bỏ cái "thiên đường XHCN" như anh rất nhiều. Anh ở trại tỵ nạn gần 3 năm thì được phái đoàn Úc chấp nhận cho đi định cư.
   
Tới Sydney anh ở tại khu Marrickville gần trung tâm thành phố. Đa số dân tỵ nạn gốc Bắc 75 quây quần sống trong khu này. Họ sống khép kín, không giao tiếp rộng. Vấn đề an sinh xã hội của Úc thời đó lỏng lẻo nên họ toàn lãnh tiền phụ cấp thất nghiệp, đi làm lậu. Có người còn khai 2, 3 tên khác nhau lãnh tiền, chính phủ chẳng hay biết vì Úc không có giấy tờ dán hình.
   
Tôi hỏi anh nghĩ thế nào về ông Hồ. Anh cười: em luôn cám ơn Bác. Không có Bác làm sao em được sống sung sướng ở "nước ngoài" như vầy chứ! Em đang theo chân Bác cũng tìm đường "kíu nước" đây.....!
Từ đó về sau anh kết thân với tôi. Thỉnh thoảng anh đem bánh cuốn làm bằng nồi hơi với chả mực cho tôi. Ăn rất ngon. Bố mẹ anh chỉ cho anh nghề này. Bây giờ anh làm, bán "chui" cho bạn bè quen biết nên cũng dư tiền đi chợ.
  
Gia đình anh có 1 vợ 2 con, chính phủ cho tiền trợ cấp còn nhiều hơn anh đi làm. Anh cứ tà tà ăn tiền chính phủ, hai vợ chồng lãnh quần áo về nhà may lậu, lấy tiền mặt, không khai thuế. Tôi phải công nhận những người sống ngoài Bắc họ chịu cày thật. Có lẽ cái khẩu hiệu "cày ngày không đủ tranh thủ cày đêm" nó đeo dính trước ngực họ rồi...
   
Vợ chồng anh làm nhiều, ăn tiêu rất cần kiệm, không đi chơi đâu. Sáng tinh mơ hai vợ chồng ngồi vào bàn máy may. Trưa ăn tạm tô mì gói rồi làm tiếp tới tối. Bữa cơm chiều ăn qua loa, tiếp tục làm tới hơn nửa đêm mới nghỉ. Coi như mỗi ngày anh chỉ ngủ chừng 4 tiếng thôi. Thế mà anh cũng có thì giờ "hì hục đục đẽo" ra thêm cái "hĩm" nữa, tất cả nhà anh có 3 "con cua", con cua lớn nữa là 4. Anh rất muốn vợ anh sinh cho anh thằng Cu nối dõi tông đường. Dụ ngọt mãi chị mới có bầu, anh mừng "hết lớn", hy vọng kỳ này có con Chim. Ai ngờ chị lại phọt ra cái Bướm. Anh chán quá, bèn cho chị nghỉ khỏe 3 tháng là anh hò hét chị tiếp tục ngồi bàn máy may trở lại. Anh thuộc dân "bộ đội" ít học, trước mỗi câu nói anh phải xổ nho Đ.M, anh mới ăn cơm ngon. Vợ anh nghe riết, quen tai đâm ghiền...
   
Hơn 3 năm sau anh mua nhà trả tiền mặt làm tôi ngạc nhiên, phục anh sát đất. Coi như mỗi năm anh kiếm hơn 100 ngàn, trong khi công nhân cu li một năm có 20 ngàn thôi! Anh mời tôi ăn tân gia. Tôi tưởng anh mời bạn bè đông, cốt để khoe khoang vì 10 thằng Bắc kỳ hết 9 thằng nổ, nên tôi ăn mặc chỉnh tề (sợ dân nổ họ chê mình nghèo). Tới nơi tôi mới biết chỉ có vợ chồng tôi thôi. Thì ra anh là 1 thằng Bắc kỳ còn lại không giống ai. Tôi càng mến anh hơn. Anh có trở ngại gì về giấy tờ hay đi đâu thông dịch dùm cho anh, tôi đều sốt sắng giúp đỡ.
   
Nửa năm sau anh tới nhờ tôi điền vào cái form của nhà thương đồng ý cho vợ anh mổ. Anh cho biết vợ anh có cục bướu to bằng nắm tay trong ngực. Bác sĩ nói đây là cuộc đại giải phẩu. Xẻ hết 1 bên hông, nâng nguyên cả cánh tay với mảng hông lên rồi mới lóc cục bướu đó ra. Trời còn thương chị. Chỉ 6 tháng sau, chị khỏe lại, hùng hục cày tiếp...
   
Cày cuốc thêm 1 năm nữa thì tới phiên anh bệnh. Anh cứ hay ho khan về đêm. Bác sĩ cho đi chụp hình phổi mới lòi ra anh bị ho lao. Tôi đi theo anh vô nhà thương. Khi làm giấy tờ nhập viện bác sĩ thắc mắc không biết tại sao anh bị bệnh này. Họ không nghĩ anh bị lây nhiễm. Họ cũng không nghĩ anh cày cuốc trong hãng nhiều quá sanh bệnh vì từ khi tới Úc tới giờ hơn 5 năm, anh toàn lãnh tiền thất nghiệp thôi. Họ hỏi anh có lo nghĩ gì không, có buồn bã điều gì khiến anh khó ngủ không?
  
Anh phịa rằng anh nhớ cha nhớ mẹ, lo cho con cái ăn học, nên không ăn ngủ được. Bác sĩ nghe tôi thông dịch với phần phụ họa thêm tay chân mà họ cứ lắc đầu, vỗ về an ủi anh. Tôi cứ phải nín cười khi nhìn anh đóng kịch. Mặt anh buồn vời vợi, hai mắt xa xăm chỉ muốn khóc... cái đầu cứ lắc qua lắc lại , mồm chỉ phát ra câu độc nhất:
     Vé ri bét... zu nâu...!!! (very bad , you know)
   
Họ cấp cho anh 6 tháng thuốc đem về nhà uống và hẹn ngày anh chụp hình tái khám. Mỗi ngày bác sĩ cho uống cả 15 viên thuốc đủ loại. Anh cứ uống 1 ngày nghỉ 1 ngày. Đem một nửa số thuốc được cấp, đóng thùng gởi về cho bố mẹ anh ở Hòn gai. Vậy là anh chỉ uống có một nửa dose thôi, trong khi anh vẫn thức đêm thức hôm cày cấy... tưng bừng !
   
Ngày anh đi tái khám, sau khi chụp lại hình phổi của anh , bác sĩ vò đầu bứt tóc không hiểu tại sao bệnh anh không thuyên giảm bao nhiêu. Họ hỏi anh tùm lum để tìm ra nguyên nhân. Thông dịch cho anh tôi cũng muốn khùng theo họ luôn. Cuối cùng họ nghĩ thế nào mà không cho anh đem thuốc về nhà nữa. Mỗi buổi sáng anh phải tới nhà thương uống thuốc trước mặt y tá. Bây giờ anh nhận đồ ít đi, làm sơ sơ, chờ khỏi bệnh tính sau, chỉ sợ lòi ra anh may lậu thì chết cả đám.
 
Trong lúc có thì giờ nghỉ khỏe, anh nghĩ cách giả bộ ly dị vợ anh. Vợ anh giữ 2 con, anh giữ 1 đứa vì bộ xã hội cấp tiền cho dân "single parent" nhiều lắm. Khi trước 2 vợ chồng "tò te" dưới một mái nhà được lãnh hơn $500/1 tuần. Bây giờ tách ra kèn ai nấy thổi, mỗi người được lãnh gần $450, nghĩa là thu nhập gần gấp đôi, chưa kể tiền may lậu. Vợ anh ở nhà trước, anh dọn ra ở khúc sau.
   
Anh phải uống thuốc thêm gần 9 tháng nữa mới thực sự khỏi bệnh. Anh bắt đầu xả hết ga may tiếp. Làm thêm 1 năm nữa, anh đi mua căn nhà thứ 2. Căn kia khi ly dị, anh sang tên cho vợ anh.
Tôi hỏi anh có biết ăn thất nghiệp là anh ăn tiền của người đi làm đóng thuế không? Anh nói tỉnh bơ: úi giời ơi, chúng em sống XHCN quen rồi. Cái khó nó bó cái khôn, mỡ tới mõm mèo ngu gì không đớp chứ. Cái gì đớp được cứ việc đớp, mình không đớp thì thằng khác cũng đớp thôi... Tôi hết ý kiến....
   
Bây giờ vợ anh ở 1 căn, anh ở 1 căn, vẫn tiếp tục may ngày may đêm. Qua năm sau tự nhiên anh thấy cứ ngồi may lâu là đau thốn vùng bụng, ăn no lại đau dữ dội hơn. Bác sĩ cho anh đi soi bụng mới lòi ra anh bị loét bao tử, có thể bị ung thư. Anh phải vào nhà thương giải phẩu cắt phần loét đó đi, may nhỏ lại. Anh không còn ăn nhiều được nữa, mỗi bữa chưa được 1 chén cơm. Anh kiệt sức từ từ, chán quá anh bỏ nghề may luôn.
   
Vợ anh là người "hồ hởi" nhất, ngày ngày theo bạn bè cùng quê của chị đi chơi đó đây. Chị cũng đua đòi học nhảy đầm. Chị kêu anh đi học nhảy cho vui. Anh "Đ..ị..T" cho 1 hồi, nhất quyết không chịu lại còn cấm chị đi nữa.
Chị bỏ ngoài tai vì chị đang say sưa hưởng thụ. Ly dị rồi chị đâu có care. Hơn nữa trong đám nhảy đầm có một chàng "sĩ quan Ngụy" hay mời chị nhảy, ăn nói có duyên làm lòng chị cũng thổn thức. Trong khi chồng chị mở mồm là xổ nho ăn nói dùi đục mắm tôm còn chàng này nói năng từ tốn lịch sự nhẹ nhàng như ru hồn người... Chị cảm thấy mình đẹp, hãnh diện, hạnh phúc vì có người đàn ông tôn trọng chị, tâng bốc, khen ngợi chị đủ điều.
Thực sự chị vẫn còn đẹp gái dù rằng chị đã qua 3 lần "rặn đẻ"...

Chị thỉnh thoảng gặp tôi nhờ tôi khuyên anh đừng xổ nho nữa, chịu khó theo chị đi nhảy đầm cho khỏe. Anh nhất định không nghe. Tôi hỏi mãi anh mới nói: em có biết nghe nhạc đâu mà nhảy đầm với nhảy đìa, chỉ nhảy "nái" thôi...
Anh không chịu nhảy thì chị đi nhảy mình ên. Tuy nhiên chị chỉ nhảy với chàng "sĩ quan Ngụy về chiều" nhưng rất lịch sự, hào hoa. Còn anh buồn quá, lai rai may lại kiếm tí tiền còm, sống cho qua nỗi buồn mất vợ.
   
Lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Giòng máu XHCN của chị không còn nữa. Nó chuyển sang giòng máu tư bản từ khi chị quen chàng "Ngụy". Lòng chị đã quên lời Đảng bắt phải hy sinh tình nhà, đặt tình yêu XHCN trên hết.
Tâm hồn chị đang hạnh phúc hưởng thụ mật ngọt của tình yêu lứa đôi đầy tính nhân bản của con người. Đêm đêm chị nằm trên giường một mình, nhung nhớ hình bóng người thương mà tiếc cho cả cuộc đời chị, chỉ biết cày với cuốc...
   
Hai đứa con gái đầu của chị đã trưởng thành. Anh chị không ai để mắt tới tụi nó. Anh chị thuộc dân "i...tờ " chưa hết tiểu học, trình độ đâu mà kềm cặp chuyện học hành của chúng. Anh chị chỉ cầu Trời cho chúng học hành tới nơi tới chốn mà thôi. Ông Trời lại phụ lòng anh chị, chúng hưởng thụ nhiều hơn chị nữa, lại còn dám bỏ nhà theo trai, chơi chán mới mò về nhà.
  
Anh chị la rầy mãi cũng chán, không thèm nói nữa. Anh bắt đầu chỉa mũi dùi qua la chị. Chị tức mình cắt đứt đường tơ lòng... thòng với anh, chính thức xách Bướm XHCN của chị... theo tiếng gọi con tim... về nâng Chim "Ngụy".
Chị tâm sự với tôi bây giờ chị mới thực sự biết yêu, biết thế nào là hạnh phúc của tình yêu. Khi xưa chị căm thù thằng "Ngụy" bao nhiêu thì bây giờ chị nâng niu, o bế con Chim "Ngụy... quá nửa chừng xuân" của chị bấy nhiêu. Chàng đi làm nuôi chị. Cuộc sống đạm bạc mà tràn đầy niềm yêu thương vợ chồng!
   
Mặc dù tôi thấy thương hại cho chồng chị nhưng lòng tôi cũng thấy khoái vì tôi cũng là "Ngụy". Sau ngày mất nước tôi bị những thằng bộ đội như chồng chị hành hạ nhục nhã trong trại cải tạo, đôi khi chỉ muốn chết cho xong. Bây giờ chứng kiến "tình Nam duyên Bắc" làm sao tôi không "đã" cho được...
   
Từ ngày "vợ anh cuốn chiếu theo trai" không lời giã từ, anh đâm ra "hận đời đen như mõm chó", tối ngày thơ thẩn như người mất hồn. Trong tay anh có 2 căn nhà, bán đi cũng hơn 1 triệu. Tất cả không còn ý nghĩa gì với anh hết.
Anh chẳng còn tha thiết chuyện ăn uống nữa, thân thể càng ngày càng yếu đi. Một năm sau anh kiệt lực, té xỉu khi đi shop. Xe ambulance chở anh vào nhà thương mới phát hiện ra anh bị ung thư thời kỳ cuối.
   
Tôi vào thăm anh. Nhìn anh nằm trên giường, gương mặt hốc hác mà tôi thấy tội nghiệp. Anh tâm sự với tôi rất nhiều. Anh nói vợ anh coi vậy mà sáng suốt hơn anh, biết tìm cái hạnh phúc cuối của cuộc đời. Tuy hơi muộn màng nhưng có chết chị cũng không hối tiếc như anh.
Cuộc đời anh cứ bị ám ảnh cái chân lý "lao động là vinh quang" của Bác, cứ lo cày bừa túi bụi, tới khi tàn hơi mới chực nhớ ra rằng mình chưa có hưởng thụ được gì hết. Anh nói: ở ngoài Bắc cứ "lao động" không thôi thì chỉ đủ cơm cà dưa muối, muốn có "vinh quang" thì phải mánh mung. Dân XHCN 10 người, máu "mánh mung" hết cả mười...
  
Anh nhờ tôi khuyên vợ anh vào nhà thương cho anh được gặp mặt lần cuối. Con anh đã thông báo cho mẹ nó mà vẫn chưa thấy chị tới.
Tôi điện thoại cho chị lần thứ 3 mới nghe chị trả lời. Chị cho biết cái tổ "Bướm Bắc Chim Nam" của chị mới đi oversea về. Hôm qua nghe con chị nói anh bệnh là chàng "Ngụy" chở chị cấp tốc vào nhà thương thăm anh ngay. Kể từ hôm nay chàng "Ngụy" sẽ chở chị tới, để chị một mình chơi với anh trong những ngày cuối đời. Khi nào muốn về chị cứ điện thoại cho chàng tới rước. Tuy nhiên chị ở chơi với anh tới tối, nhà thương không cho thăm nuôi nữa, chị mới về.
   
Sở dĩ chàng để chị đi một mình vì chàng không chịu được ánh mắt buồn tủi hối hận của người sắp đi vào cõi chết. Hơn nữa chàng cũng muốn gia đình con cái chị tìm lại những giây phút đầm ấm cuối cùng!!!
Anh trăn trối nhờ chàng chăm sóc cho các con anh, cố đem lại tình thương cho chúng. Anh nhìn chàng cười buồn: khi xưa chúng mình thấy nhau chắc có thằng chết rồi. Trốn Bác qua đây hai đứa mình vẫn là địch thủ của nhau. Thắng trên chiến trường chẳng có ích gì, thắng trên tình trường mới quan trọng. Nói xong mắt anh rướm lệ.
  
Chàng "Ngụy" vỗ về anh: niềm đau mất nước đã qua đi theo ngày tháng, tôi không hận thù anh gì cả. Tôi đến với vợ anh vì chị đã ly dị. Tôi mến tâm hồn mộc mạc đơn sơ của chị. Tôi xin lỗi anh...
Chị kể cho tôi nghe trong tiếng nấc nghẹn ngào. Có lẽ cuộc đời chị đều yêu thương cả hai người chăng???
   
Tôi chưa thấy mặt chàng "Ngụy" của chị ra sao. Chỉ nghe chị nói như thế tôi đã cảm phục tư cách, tính tình của chàng rồi. Nhà thương hỏi chị có muốn đưa anh về nhà chờ chết không? Chị hỏi ý kiến chàng "Ngụy". Chàng đồng ý ngay, bèn đi làm thủ tục giấy tờ, đích thân chàng chở anh về nhà. Chàng vẫn tế nhị vắng mặt để gia đình con cái chị quây quần bên anh. Tôi thỉnh thoảng tới thăm anh, nói bá láp cho anh cười. 
  
Hai tuần sau, anh xuôi tay nhắm mắt... Chấm dứt một kiếp người gương mẫu XHCN, suốt đời chỉ nghĩ tới hai chữ: Mánh Mung


Khiết Nguyên

Tuesday, August 19, 2025

Chờ Em Trọn Đời - Nguyễn Duy Phước

Tự Trọng - Mai Thị Mùi


Không có một đất nước nào mà lại lắm ngày truyền thống như nước ta. Ban bệ, ngành nghề nào cũng có ngày riêng, quân đội, công an, luật sư, nhà giáo, nhà báo, nhà may, nhà thổ..Tất tật phải cố đặt ra một ngày nào đó để tự tôn và được tôn vinh. Ngày nhà giáo VN có lẽ là ngày dễ nhớ nhất vì ai trong đời cũng là học sinh, không thì cũng là phụ huynh để PHẢI nhớ mà cúng cô hồn cho yên thân cả cha mẹ lẫn con cái.


Tôi hỏi quý vị đồng nghiệp, quý vị hãnh diện và hân hoan chào đón cái ngày này để làm gì? Một năm 365 ngày, được “tôn vinh” một ngày rồi cả xã hội phỉ nhổ 364 ngày có đáng không quý vị? Tôi nhìn quý vị xúng xính váy áo, ôm những bó hoa mua bằng máu và nước mắt của phụ huynh nghèo, quý vị nghiêng vai nghiêng cổ cho ra những pô hình để up phây, rồi sau đó ngồi vào những mâm cỗ từ quỹ “tự nguyện” đóng góp của PHHS mà tôi thấy như ăn phải miếng thịt ôi, chỉ chực nôn ra cho bằng sạch.

- Một đất nước không cần có ngày Người Cao Tuổi, chỉ cần ở đất nước ấy người già không phải đi bán vé số, nhặt ve chai, xin ăn hay bươi rác.

- Một đất nước không cần ngày Trẻ Em, miễn là đừng có trẻ em bị ấu dâm, trẻ bỏ học đi kiếm sống, trẻ bị bạo hành, trẻ bị lạm dụng.

- Một đất nước văn minh không cần có ngày Phụ Nữ, chỉ cần họ không bị bạo hành, phân biệt đối xử.

- Một đất nước không nên có các bà mẹ Anh Hùng, ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ. Chúng mày có thương mẹ thì để mẹ sống yên bình bên các con mẹ. Chứ chúng mày tạo chiến tranh rồi bắt con mẹ lao vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, phi nhân làm gì. Để rồi con mẹ mất, mẹ sống với nỗi đau thắt ruột rồi chúng mày cấp cho cho mẹ cái bằng mẹ VNAH, Phụ nữ không cần anh hùng, phụ nữ chỉ cần cuộc sống an nhiên với chồng, với con thôi. Chúng mày không tạo ra chiến tranh tức là công đức vô lượng rồi.

- Một người thầy cũng không cần đến ngày tôn vinh nhà giáo. Chỉ cần cái ngành giáo dục trả lương cho họ đủ sống để họ không phải bắt học sinh đi học thêm, chỉ cần họ không dí học sinh đóng tiền học, chỉ cần họ không hối phụ huynh đóng quỹ lớp, chỉ cần họ không “vận động” phụ huynh đưa con đi chích VAC, họ chỉ cần chuyên tâm vào công việc chuyên môn thì tự khắc cả xã hội kính trọng họ, kính trọng từ ngày này sang tháng khác, từ năm này qua năm nọ, từ đời này đến đời kia. Chứ đâu chỉ có 1 ngày hoa trái, quà cáp, phong bì, hộp nơ, rồi những tháng còn lại trong năm nhìn nhau theo mối quan hệ mua bán con chữ, kinh doanh tri thức.    


Quý vị hiểu mình cần phải làm gì rồi chứ? Muốn người khác tôn trọng trước hết mình phải có tự trọng. Lòng tự trọng từ đâu mà có? Tự trọng là không đủ tri thức không đứng trên bục giảng, tự trọng là thấy nghề giáo không đủ sống mạnh dạn bước ra khỏi ngành chứ không phải cào cấu phụ huynh cho đầy hũ gạo nhà mình, tự trọng là thấy sai trái, bất công phải lên tiếng chứ không hùa theo lũ lãnh đạo bóp cổ PH và HS, tự trọng là bị cử đi làm “nhiệm vụ chính trị” phải biết phản đối, tự trọng là thấy trường lạm thu phải đứng về phía phụ huynh, tự trọng là không câm lặng nghe và làm theo những điều dối trá, sai quấy của cấp trên cốt để yên thân, vững ghế. 

Chỉ cần quý vị làm được những điều trên, mỗi năm xã hội sẽ tôn vinh quý vị đủ 365 ngày với sự yêu kính chân thành, không phải bằng những tấm thiệp ghi những câu hoa mỹ do bố mẹ chúng nó mồi có kẹp mấy tờ bạc, những bó hoa tươi mua bằng những đoạn ruột héo, những cái hộp đựng vài mảnh vải áo dài, những coupon, những chai dầu thơm, sữa tắm... mà chỉ cần thêm nén nhang, nắm muối, nắm gạo là đủ bộ cúng mùng 2, 16 mỗi tháng.


Mai Thị Mùi

Monday, August 18, 2025

Hoa Thủy Tiên - Trầm Vân

Bần Xanh - Nguyễn Thỵ


Ông Chín Khởi đặt tách trà hột keo vừa mới uống vài ngụm xuống bàn, khoác vào người chiếc áo sơ mi dày đã sờn rách vài chỗ được bà Chín vá lại rất khéo. Thân hình lão ngư rắn rỏi, sạm đen với tiếng cười nói rổn rảng của dân miền biển làm ông có vẻ trẻ hơn nhiều so với tuổi ngoài 60. Ông kiểm lại lần nữa những vật dụng bất ly thân trong mỗi chuyến ra khơi đựng trong cái thùng thiếc có nắp đậy và có cột dây đeo. Cái thùng này vốn trước kia là thùng đựng dầu của hãng con sò đã theo ông từ hồi mới bắt đầu đi biển, nó có thể trở thành cái phao cứu sinh khi cần thiết.

Trong rất ít đồ đạc mang theo khi đi biển, cái mà ngư dân đóng đáy quan tâm bậc nhất, đó là con dao xếp bén ngót có dây để mang vào cổ. Giữa biển cả mênh mông, những miệng đáy vô tri giăng thành hàng không hề phân biệt được cá tôm hay ngư phủ, nếu lỡ sút tay trợt chân rơi xuống dưới rượng đáy, chỉ cần nước biển xiết dòng chứ chưa nói tới phong ba bão tố thì đã bị cuốn hút vào miệng đáy không có đường ra. Lúc đó trong bụng lưới dưới lòng đại dương sâu thẳm chỉ còn con dao đeo trước ngực là có thể cứu sống ngư dân bằng cách rạch lưới bơi ra, nếu không thì chỉ còn ngàn thu vĩnh biệt!

Lâu lâu vào cuối mỗi con nước khi tàu thuyền cập bến khoảng giữa đêm hay rạng sáng, lẫn trong tiếng rộn rạo, lao xao của người về kẻ đón, thi thoảng vẫn nghe tiếng khóc đàn bà bật lên nghe thắt ngực, đứng tim. Rồi một thi thể bợt bạt, cong queo nằm trên tay lưới khiêng ngang xóm đáy, vậy là con nước tới vắng một người bươn bả ra khơi để đem về cho vợ con chén cơm manh áo. Nhiều người ở vùng biển này cho rằng không có lời thề nào nghiêm trọng, linh thiêng hơn lời thề “chun đáy”, kế đó là “sập đáy”!

Ông Chín cẩn thận quấn dây chung quanh con dao xếp, ông sẽ đeo nó trước khi bước lên chòi đáy, chuẩn bị găm hoặc thu lưới, di chuyển trên những sợi dây chão lúc căng lúc chùng theo hàng cột đáy trụ giữa đầu sóng ngọn gió, nơi giao thoa giữa sông và biển. Nơi đó con người thật vô cùng nhỏ bé, lại bám víu vào một thứ cũng nhỏ bé mong manh không kém trước đại dương, đó là những rượng đáy hàng khơi xa thẳm với cái chòi canh treo trên cột đáy cheo leo.

Ông Chín uống cạn tách trà đã nguội, đi chân không rời khỏi nhà, ghe đáy đang đợi ông ngoài cảng cá để bắt đầu chuyến ra khơi cách bờ gần 20 hải lý.

Hai vợ chồng ông chín Khởi có cả thảy 5 người con, đứa đầu là thằng Hai Soài, đứa kế là thằng Ba Rạp, kế nữa là thằng Tư Láng, hai đứa con gái là Năm Lanh và Sáu Quanh. Cả gia đình sống trong một cái nhà lá ở tận Cống số 0, nơi giáp ranh với rừng đước bạt ngàn của xã Kiểng Đôi.

Sau khi lập gia đình, thằng con trai lớn đã cùng vợ đi bỏ mối tôm cá khô từ Kiểng Đôi lên Chợ Lớn rồi lập nghiệp luôn trên đó. Thằng Ba cũng vậy, bỏ nghề biển về quê vợ miền nước ngọt trồng vườn cây ăn trái, lâu lâu chúng nó đưa mấy đứa cháu nội về thăm, vợ chồng ông Chín cũng mừng khi thấy các con đều làm ăn khấm khá mà quên mất đã giận chúng nó bỏ nghề hạ bạc vì sợ hậu quả “nhất phá sơn lâm, nhị đâm hà bá”.

- Đó, ba thấy không, nhà mình theo nghề biển mấy chục năm nay mà cứ phải ở trong cái nhà lá này, tụi con thì dốt nát, ba má thì cơ cực cả đời...

Đó là lời cay tiếng đắng của thằng Soài khi vợ chồng nó quyết định rời xứ Kiểng Đôi. Không phải là ông Chín không biết điều đó, nhiều đêm nằm trằn trọc trong chòi đáy ở xa tít ngoài khơi, chung quanh chỉ có tiếng sóng vỗ và tiếng kẽo kẹt của giàn dây chão giữa biển cả mênh mông, ông đã không nén được tiếng thở dài não nuột. Phải, ba đời nhà ông đều theo nghề đáy sông Cầu, biết bao nhiêu gian nan nguy hiểm, đem sinh mạng phó thác cho thủy thần mà chưa ai dựng nổi một miệng đáy để nuôi vợ con. Nhưng nếu buông cái nghề này ra thì biết làm gì bây giờ, hơn nữa ông đã gắn bó với nó gần hết đời người, những khi nằm bờ vì mãn con nước hay vì biển động ông nhớ biển nhớ chòi đến thẫn thờ.

Thôi thì phận ai nấy giữ, cũng mong cho con cái đổi đời miễn đừng đứa nào quên quê hương xứ sở, quên biển cội sông nguồn. Nói cho cùng, chúng nó rời quê hương đi xứ khác mưu sinh thì cũng giống như con rạch Cần Lộc đổ ra sông Soài Rạp rồi băng mình ra biển Đông vậy thôi! Dòng chảy đó vơi đầy theo từng con nước đã đem về nguồn lợi dồi dào cho người dân xứ biển, tạo công ăn việc làm cho biết bao người trong cái xã Kiểng Đôi này.

Năm con Lanh 18 tuổi,ông bà Chín gả nó cho con trai của một nhà có tới mười mấy miệng đáy bên Bình Đại. Họ sang thêm hàng đáy gần bên chủ ông Chín, rồi vài xị đế với con cá nhám tươi rói làm bữa tả-pín-lù trên cái chòi canh lộng gió là coi như duyên phận của hai đứa nhỏ đã được định đoạt!

Từ đó nhà chỉ còn hai vợ chồng ông và thằng Láng với con Quanh. Ông thì vẫn bán mình cho biển, bà thì đầu tắt mặt tối làm mướn khắp nơi, hai đứa nhỏ vẫn còn đang tuổi ăn tuổi lớn.

***

Con nước này thật kỳ lạ, bà Chín lầu bầu với thằng Láng lúc ngồi đập vỏ sắn ngâm lưới cho chủ đáy, mấy lần bà đã sơ ý tự đập vào tay mình đau điếng. Con nước gì mà đổ đục toàn sứa với cá nóc, lâu lâu lộn vô vài con ốc, con đẻng, mấy trái bần sâu, còn tệ hơn những con nước mùa gió chướng khiến chủ đáy rầu thúi ruột, làm bà Chín cũng buồn lây. Biển thất, tiền công chẳng bao nhiêu, vậy là chuyến này ông Chín không thực hiện được lời hứa lợp lại cái nhà cho vợ con trước mùa mưa.

Đêm về hai cánh tay mỏi nhừ, bà Chín nhờ con Quanh xoa dầu nãy giờ vẫn không thấy bớt. Áng chừng hai anh em nó đã ngủ say, bà nhẹ nhàng mở cửa bước ra vặn sáng ngọn đèn bão treo trước cửa. Nhìn ngọn đèn bà liên tưởng đến ngọn đèn hắt hiu ngoài biển trên chòi canh của ông Chín mà thấy chạnh lòng. Đợt này về bà sẽ khuyên ông nghỉ đi chòi, già rồi mà phải thức khuya dậy sớm để canh con nước, rồi giặt lưới, phơi lưới..., đêm hôm sóng to gió lớn ngoài biển biết bao nguy hiểm chực chờ. Ở trên bờ thiếu gì việc làm vừa sức ông, còn có thằng Láng đỡ đần lo gì thiếu đói (bà nghĩ vậy nhưng chắc gì ông đã chịu nghe)!

Bà Chín cứ đi tới đi lui ngoài hàng ba, gió giờ này rồi mà vẫn còn cố mang cho hết hơi nóng của một ngày biển thổi ập vào người như rang tép, như sấy mực, bà thấy bứt rứt gì đâu!

Vô nhà nằm lăn qua lăn lại vẫn không thể nào chợp mắt, đâu chừng quá nửa đêm bà Chín hốt hoảng ngồi dậy lao ra cửa khi nghe tiếng gọi thất thanh của vợ thằng Siêm trong xóm:

- Bác Chín ơi! Bác Chín!

Tiếp đó là tiếng lao xao, rầm rì của nhóm người theo sau một cái võng lưới, trên đó bà nhận ra ngay ông Chín bởi cái ống quần nhuộm sắn quen thuộc. Bà điếng hồn lao tới, hai người khiêng võng vẻ mặt buồn bã lẳng lặng đưa ông Chín vào trong nhà, đặt ông nằm trên cái giường tre, sửa lại cái mền chỉ đắp trên người ông từ cổ xuống kín hai bàn chân, trên mặt ông ai đó đã phủ lên một tấm giấy điều đỏ thẫm.

Tiếng kêu khóc của hai anh em thằng Láng bật lên thảm thiết, bà Chín như một người đang mộng du vẫn không tin chồng mình đã chết. Bàn tay run rẩy của bà giở tấm giấy điều như giở bỏ một tấm màn đen tối mong thấy lại hình ảnh an lành của người bạn đời trở về nhà sau chuyến ra khơi, nhưng trước mắt bà chỉ là một gương mặt im lìm, xa lạ. Bà nghe tiếng của người chủ đáy như vọng về từ đáy biển:

- Đây là một việc rất đau lòng, hàng đáy bị sập, biển thất nên có mình anh Chín canh đáy, ảnh bị rơi xuống cùng với đám lưới đang phơi, không thoát ra được. Tụi tui xin thành tâm chia buồn với gia đình.

Bà Chín, người đàn bà suốt đời ngóng về phía biển khơi để chờ chồng, đã ngã vật ra nền đất bất tỉnh. Không một tiếng khóc, không một lời nói, không một giọt nước mắt nào lăn ra từ khoé mắt nhăn nheo của bà.

Chủ đáy cũng là người tình nghĩa, mặc dù đang hứng chịu những tổn thất do sự cố sập hàng đáy nhưng ngoài chi phí cho đám tang họ cũng trả đủ tiền công của con nước này, cho thêm một khoản tiền kha khá để mấy mẹ con bà Chín xoay xở trong lúc khó khăn.

Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống, chưa đầy nửa tháng tất cả tiền đã bốc thành hơi bởi những khoản nợ lặt vặt cả năm nay ngoài chợ hay ở mấy tiệm hàng xén. Nỗi đau chưa lắng xuống, bà Chín tiếp tục làm thuê khắp nơi, đi lượm (phân loại cá), xẻ cá, lột tôm, đạp mắm, đập tôm khô, vá lưới..., việc gì cũng làm kể cả công việc ngoài ruộng muối dưới cái nắng thiêu đốt thịt da.

Thằng Tư Láng đã 17, cái tuổi bẻ gãy sừng trâu của nó bây giờ là chỗ dựa cho mẹ và đứa em gái. Sau cái chết thương tâm của chồng, bà Chín cương quyết không cho thằng Láng đi biển mà xin cho nó vô làm công ở lò mắm Quê Hương, lương hơi thấp nhưng gần nhà lại không phải quá cực khổ nguy nan như nghề bạn đáy.

Còn Sáu Quanh cũng đã 14 tuổi, thỉnh thoảng cũng đòi đi làm với má nhưng bà Chín bắt ở nhà lo cơm nước. Thêm cái nó còn nhỏ nhưng biết nấu món canh mẳn rất ngon, đó là món canh chỉ có người vùng biển này nấu mới đúng hương vị mộc mạc nhưng đậm đà mà dù họ có đi đâu cũng không thể nào quên. Chính ông Chín Khởi đã dạy cho nó nấu, cái mùi vị đặc biệt của món canh xuất phát từ sự tươi ngon của con cá mới đánh bắt trên biển, từ những trái cà chua, cọng hành, trái ớt, những nhánh quế hay ngò gai đã trở thành rau khô do từ đất liền mang ra chòi canh để gần cả một con nước, thêm ít nước mắm và tiêu xay..., tất cả những nguyên liệu đơn sơ đó được cho vào nồi theo một thứ tự nhất định đã tạo nên hương vị ngàn khơi của món canh ngư phủ.

Vậy là con Quanh chỉ ở nhà để nấu cơm cho má và anh, những bữa cơm đơn sơ không chiếm nhiều thời gian của nó. Buồn buồn, nó hay đi dọc bìa rừng xanh ngắt cặp theo tuyến đê biển như đôi giao long hiền lành đang nằm lắng nghe tiếng sóng. Đó là khu rừng phòng hộ che chắn suốt chiều dài của xã Kiểng Đôi cho tới đầu chợ Vàm.

Quanh thường vào rừng nhặt những trái bần rụng, có khi leo lên cây như khỉ để hái mấy trái bần ương hoặc hơi non một chút nhưng nó thích ăn hơn. Bần non xanh đậm, vừa chua vừa chát nhưng chấm muối ớt thì ngon tuyệt, ăn kèm với mắm cá cơm nữa thì bao nhiêu cơm cũng hết. Bần chín thì dầm ra nấu canh chua với cá, tôm, cua hay mực cũng được, chưa kể má nó còn chế biến một loại mứt nhừ từ những trái bần chín rục, có thể cho thêm ít nước và nước đá vào quậy lên uống là ghiền luôn. Tóm lại nó thấy vui vì có những trái bần, thật nhiều trái bần trong túi áo, trong cái rổ cảo nhỏ xinh của nó, nhiều khi ăn không hết chẳng biết để làm gì.

Chưa kể con Quanh còn mê mẩn những nụ bần vừa hé nở lộ ra những tua nhị màu đỏ san hô còn cuốn chặt bên đài hoa xanh lục, nó đâu biết rằng vẻ đẹp tinh khôi đó là cội nguồn tồn sinh của những trái bần mà có lúc nó nâng niu như một gia tài.

Con Quanh cứ tha thẩn cả buổi trong rừng đước, leo trèo trên những cây bần, cây mắm, tay chân mặt mũi lấm lem bùn đất, nó cười khúc khích khi thấy mấy con cá thòi lòi đang cắn nhau trong vũng sình giật mình phóng tuốt vô gốc đước rồi trố mắt ra nhìn nó. Cả mấy con còng màu sắc sặc sỡ kia nữa cũng là đồ chơi của nó, chúng quá dễ thương và sạch sẽ một cách kỳ lạ giữa sình lầy. Chúng cõng những cái mai tuyệt đẹp trên lưng, nhiều nhất là màu xanh da trời và màu cam, còn lại là màu đen, trắng, cả màu nâu cũng có. Bước chân con Quanh làm chúng vội tuột ngay xuống hang, chỉ cần bẻ một nhánh đước nhỏ chặn cách cửa hang chừng một gang tay là chúng lại bò ra chỉ việc chụp là dính. Tuy nhiên nó chưa bao giờ làm đau hay làm chết một con còng nào, kể cả những con mang chiếc càng to tướng mà người ta hay bắt rồi bẻ càng đem luộc bán ngoài chợ thành một món đặc sản gọi là càng còng, thân còng thì làm mắm, cũng thành đặc sản là mắm còng! Còn nó khi bắt được mấy con còng, nó chỉ cho bò trên tay một chút thôi rồi thả chúng về hang, có khi cũng bị còng kẹp nhưng không đau mấy.

Có bữa con Quanh lang thang trong rừng đước kiếm bông ô rô để chưng bàn thờ ông Chín. Ở vùng nước mặn quanh năm cỏ cây khô đéng, cháy vàng, hoa trái phải đem từ nơi khác đến nên đắt kinh khủng. Vì vậy trên bàn thờ ông Chín thường ngày chỉ có bông ô rô, sang hơn một chút là bông giấy xin của mấy nhà ngoài chợ.

Mải ngó quanh ngó quất nó đã vượt quá giới hạn mà bà Chín đã căn dặn, đó là không được đến gần khu vực biên phòng.

Cái đồn biên phòng lúc đó chỉ cách nó chừng non chục thước, nó đang nghểnh cổ dòm coi có ai không thì thấy vắng ngắt, chắc mấy anh lính đi tuần hết rồi! Bất ngờ một con chó to gần bằng nó chồm lên sủa liên hồi muốn thủng cả lỗ tai. Nó hoảng hồn ụp cái rổ bần vào ngực co giò chạy thục mạng, cũng may là con chó bị cột vào cây đước sát đồn chứ nếu không thì…

Từ đó con Quanh không còn dám bén mảng tới gần đồn biên phòng, mặc dù... hầu như ngày nào nó cũng vô rừng tìm hái mấy trái bần, chơi với bầy cá thòi lòi và đám còng cưng của nó.

******

Hôm nay thằng Láng được nghỉ sớm, thường ngày nó vẫn về sau khi bà Chín đã đi nằm. Nhà cửa trống không, con Quanh chắc lại đi hái bần nữa rồi, tội nghiệp con nhỏ không có ai chơi cùng, cả con mèo con chó cũng không. Cái xóm đáy thưa rỉnh vài mái nhà, ai cũng đầu tắt mặt tối ngoài thớt cá hoặc đi làm mướn cả ngày, không có ai cùng trang lứa với em nó cả.

Tư Láng xuống bếp giở nắp nồi cơm, chỉ còn chút cơm cháy dưới đáy nồi, chảo tép rang bữa trưa ăn chưa hết còn bắc trên bếp. Giờ này sao con Quanh cũng chưa về lo cơm nước, một lát má về tới thế nào cũng bị la cho coi, Láng vừa thắc mắc vừa đi lấy gạo nấu cơm.

Cơm vừa sôi thì bà Chín về tới, hôm nay đến kỳ vựa cá trả tiền công còn cho một mớ khô cá lưỡi húa và tôm đuôi mang về. Bà định bụng sẽ biểu con Quanh làm món khô nướng chấm nước mắm bần, thằng anh nó chắc là khoái phải biết! Còn mớ đuôi tôm khô này cùng với một ít nếp cũ trong bếp, sáng mai bà sẽ làm món xôi mặn để mấy mẹ con ăn lót lòng.

Nhưng hai má con bà Chín chờ hoài, chờ mãi, vừa đói vừa lo, không biết con Quanh đi đâu tới giờ vẫn chưa thấy về. Lác đác xa xa vài nhà trong xóm đã đỏ đèn, thằng Láng ra ngồi bệt xuống ngạch cửa hai tay bó gối ngóng chừng về phía cánh rừng đã xuống màu xanh đen.

Bà Chín đang nằm nghỉ mệt trên tấm vạt giường kê sát đất, nghe tiếng chó sủa văng vẳng từ hướng đồn biên phòng bà bỗng ngồi bật dậy kêu lên:

- Thôi chết rồi Láng ơi! Nãy về ngang chợ má nghe nói có thằng ngáo đá bị nhốt ngoài đồn biên phòng mới trốn thoát hồi xế trưa. Con Quanh... trong rừng đước...

- Trời ơi, sao nãy giờ má không nói! Bữa nào nó cũng vô trong đó...

Hai mẹ con chỉ kịp quơ lấy cái đèn bão đang treo ngoài cửa, lập cập bật ống quẹt. Chạy ngang mấy căn nhà còn tối om trong xóm bà Chín kêu to:

- Quớ chú Ba Gà, chị Hai Nhan, thằng Siêm, thằng Gộc... làng xóm ơi! Làm ơn đi kiếm con Quanh phụ dùm tui!

Cả nhóm người lớp rọi đèn pin, lớp xách đèn bão, có người còn quấn giẻ rách vào cây củi tẩm dầu lửa đốt sáng cả bìa rừng. Tiếng mọi người gọi con Quanh vang khắp khu rừng, vô tới giữa rừng họ đụng tốp lính biên phòng đang dắt chó đi lùng sục.

- Bà con đi kiếm ai? Quanh nào? Tụi tôi quần nát hết khu này từ hồi chiều rồi có thấy ai đâu, cả con đường tắt ra thị trấn cũng vậy.

Bà Chín thất thần tựa vào người thằng Láng khóc không ra nước mắt:

- Quanh ơi! Con ơi...

Dù nghe tốp lính biên phòng nói vậy nhưng mọi người vẫn tích cực đi tìm không chừa một gốc đước, một vũng sình nào. Họ vừa tìm vừa gọi con Quanh lạc cả giọng, vừa cố an ủi bà Chín. Một nhánh dây cóc kèn vướng vào chân thằng Láng làm cả hai mẹ con ngã quỵ. Dưới ánh đèn mù mờ bà Chín nhìn thấy cái rổ nhỏ của con Quanh, chung quanh lăn lóc mấy trái bần non và một nhánh bông ô rô dập nát. Bà thét lên:

- Quanh ơi! Con đâu rồi Quanh ơi?

Mọi người hộc tốc rọi đèn tìm khắp chung quanh khu vực đó, chỉ thấy rễ đước đan xen chập chùng dưới hàng ngàn thân cây thẳng tắp như câu trả lời lạnh lùng của số mệnh.

Mẹ con bà Chín ở trong rừng đước cho tới sáng, bà nằm mẹp dưới đất không dậy nổi, mắt mở hé lờ đờ, tóc tai dã dượi. Còn thằng Láng chỉ qua một đêm mà thiếu điều nhìn nó không ra! Nó cứ đi vòng vòng chỗ con Quanh buông rơi rổ bần, cố tìm ra chút tăm hơi của em nó, ra xa hơn một chút cũng không thấy gì. Nó lại không thể bỏ mặc bà Chín để đi giáp khu rừng một lần nữa. Không nói ra nhưng nó nghĩ cả lính biên phòng cũng không thấy có dấu vết sát thương, hy vọng con Quanh chỉ bị khống chế, đưa đi đâu đó, thậm chí... Chỉ cần con bé vẫn an toàn tính mạng và trở về nhà.

Từ đó bà Chín cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, buông hết mọi việc cho thằng Láng. Bà tự trách mình đã bỏ mặc đứa con gái út mà bà hết mực thương yêu ở nhà một mình và đã không ngăn cấm nó vào rừng. Bởi bà cũng như nhiều người trong xóm Cống đã xem rừng đước kế bên nhà như khu vườn của nhà mình, bắt cua, bắt cá, hái bần, mót củi... bình yên bên rừng đã ngót một đời người, hơn nữa còn có đội biên phòng.

Nhiều ngày liên tiếp bà Chín lang thang khắp khu rừng với hy vọng mong manh sẽ có một dấu hiệu gì đó để tìm ra con gái. Có lần người ta gặp bà ngất xỉu ngoài bìa rừng với mấy trái bần nhỏ nắm chặt trong tay.

Công an địa phương vẫn đang tích cực truy tìm dấu vết kẻ ngáo đá và bé gái ở xóm Cống nhưng hình như đã không còn hy vọng.


Nguyễn Thỵ

Cảnh Hoa Đậm Chất Thơ Trong Tranh Paul Guy Gantner

Họa sĩ gốc Hàn Quốc đưa những cánh đồng hoa bất tận, những căn nhà hoa leo nở đầy vào tác phẩm của mình.

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Paul Guy Gantner sinh năm 1948 ở Hàn Quốc. Hầu hết tác phẩm của ông đều thể hiện thiên nhiên thơ mộng, đưa người xem tới không gian tĩnh lặng, thanh bình, đậm chất thơ.

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

 Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

Cảnh hoa đậm chất thơ trong tranh Paul Guy Gantner

 

Ảnh: Paul Guy Gantner

Nguồn: Internet

50 Năm Tìm Bạn - Đỗ Duy Ngọc


Ba giờ sáng, không ngủ được, ngồi dậy mở máy vào messenger mục tin nhắn đang chờ xoá bớt tin nhắn, thấy một tin của một người lạ: "Bảo đây. Tìm mày gần 50 năm. Hello Ngọc Nhà Đèn...Tao biết mày không thích cái tên này nhưng vẫn gọi vì tao chỉ nhớ đến cái tính ngông của mày." Ngọc Nhà Đèn, cái nick name này ở đâu ra ta? Tôi nghĩ hoài không ra. Bảo nào? Tôi có nhiều người bạn tên Bảo. Vào Facebook của người này. Nhìn hình lạ hoắc, không gợi khuôn mặt thân quen nào, bèn trả lời:"Xin lỗi bạn, chắc bạn nhầm tôi với ai rồi." Bên kia nhắn lại ngay:"Tôi có người bạn cùng tên, trước học ở ĐHVH phân khoa GD....tất cả giống bạn? Xin lỗi nếu đã nhầm. Cảm ơn bạn đã trả lời." Lại suy nghĩ, nếu học Giáo Dục Vạn Hạnh thì chắc là người có thể không quen nhưng phải biết. Nên viết nhắn lại:" Bạn học Vạn Hạnh khoá nào và phân khoa gì? Tôi cũng có bạn tên Bảo học khoa Sử Địa người Nha Trang". Nhắn thế thôi chứ tôi chưa nghĩ đến người bạn cũ tên Bảo, lâu nay tôi vẫn cố tìm. Trả lời:"Thêm vài chi tiết nữa, may ra bạn nhớ? Cái bức tranh vẽ vội đã nuôi bạn lúc đói mèm vào thời điểm đó. Đúng rồi, tôi đấy. Người đã cùng trọ với Vinh, người DN." Trong lòng tôi vỡ oà niềm vui, đúng là người bạn cũ đây rồi. Tôi nhanh chóng nhắn tiếp:" Trời ơi sao bây giờ khác thế. Bảo người gốc Quảng Bình và nhà ở Nha Trang". Nhắn lại:"Hình như có lần bạn ghé NT ,tụi mình ra biển ngắm sao đêm? Nhớ quá ngày ấy...bác Trần Đới, Bùi Giáng...". Thế rồi hai thằng nối điện thoại nói chuyện với nhau hơn tiếng đồng hồ đến khi trời ửng sáng, nhắc đủ thứ chuyện của hơn 50 năm trước.


Hơn năm mươi năm trước, tôi là thằng sinh viên nghèo từ Đà Nẵng vào Sài Gòn đi học. Vì nhiều lý do khó kể ra, tôi vào Sài Gòn mà không có ai trợ cấp, sống như đứa con hoang. Rất nhiều hôm đói, rất nhiều ngày đói. Lâu lâu có bài đăng báo có được chút tiền còm. Rồi vẽ biểu ngữ, bán tranh, viết thông báo cho trường, thiết kế sân khấu cho Đoàn Văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh do anh Phạm Thế Mỹ làm trưởng đoàn. Thu nhập rất bấp bênh. Túi thường rỗng và bụng rất nhiều lần đói. Không nhớ sao lại có tiền thuê nhà ở hẻm 108 Trần Quang Diệu, căn nhà trống trải chẳng bàn ghế, không giường chiếu có một căn gác lửng bằng gỗ và ngoài sân có cây mận đầy sâu. Từ đường vào nhiều con hẻm ngoằn ngoèo mới đến nhà nằm gần con kinh nước đen. Tôi ở chung với hắn, Trần Ngọc Bảo và mấy người bạn nữa. Hắn cũng vốn gốc Quảng Bình và cũng dân di cư như tôi. Gia đình hắn ở Nha Trang, bố là Trung tá quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Hắn được gia đình tiếp tế hàng tháng, dù không nhiều vì sĩ quan hồi đấy sống nhờ lương lại đông con. Tuy vậy hắn còn khá hơn tôi vì đầu tháng có tiền để ăn học. Hắn thuộc tuýp người hiền lành, không đua đòi ăn chơi nên hợp với tôi, một thằng nghèo rớt mồng tơi ăn còn kiếm không ra lấy gì mà chơi. Hắn để tóc kiểu Beatles, mốt thịnh hành của thanh niên thời ấy, hai mắt to, tròn lúc nào cũng ngơ ngác và khuôn mặt dài. Hắn học cùng phân khoa Giáo Dục, Đại học Vạn Hạnh với tôi nhưng ban Sử Địa còn tôi ban Việt Hán. Hai thằng thường đi học chung với nhau. Đi bộ qua những con hẻm hẹp loanh quanh ra đến đường Trương Minh Giảng. Những lần tôi không có tiền ăn cơm, tôi ăn ké khay cơm của hắn. Hồi đó trường Đại học có câu lạc bộ sinh viên, bán phiếu cơm với giá rẻ cho sinh viên. Mỗi phần ăn gồm một khay có mấy ngăn, ngăn cơm, ngăn canh và ngăn món mặn thường là đậu hủ với vài miếng thịt bạc nhạc hay nửa khúc cá kho. Đồ ăn theo tiêu chuẩn nhưng cơm thì không hạn chế. Hắn mua phiếu, ngồi ăn hết cơm và thức ăn, thay vì mang khay vào trả thì hắn sẽ đứng lên và tôi thay vào chỗ hắn, mang khay vào lấy thêm cơm ra ăn với trái chuối hay chút nước mắm. Nhờ chiêu đó, tôi qua được những cơn đói ngặt nghèo.


Ở chung còn có lão thi sĩ Trần Đới, người có khuôn mặt và hàm râu giống nhà văn Nga nổi tiếng Mikhaylovich Dostoyevsky. Lão cũng là kẻ lang thang, suốt ngày làm thơ và ôm cái đàn mandolin gảy những hợp âm lộn xộn.

Lâu lâu cũng có nhóm bạn âm hồn của tôi ghé vào, toàn là dân biệt kích, không quân lái máy bay chiến đấu đi bỏ bom về và cũng không thiếu vài tay du đãng. Mỗi lần đám đó tụ hội là râm ran, bày đủ trò phá phách nhưng tôi và hắn không bao giờ tham gia. Có một lần tay bạn du đãng của tôi lúc ấy đang dính với một em me Mỹ. Thằng chồng Mỹ của ả đi hành quân, ả và tay giang hồ bạn tôi dọn sạch sành sanh đồ đạc trong nhà mang qua gởi nơi tụi tôi ở trọ. Tôi sợ quá năn nỉ chúng dọn đi gấp. Lần đó MP của Mỹ tìm vào xóm, may mà không phát hiện được gì vì đã chuyển đi trước đó. Hú hồn!

Ở chung cũng có người hoạt động Việt Cộng. Tụi tôi biết nhưng việc ai nấy làm, đời ai nấy sống, hồn ai nấy giữ nên cũng chẳng quan tâm. Sau 75 người này làm việc bên Sở Văn Hoá Thành phố.

Ở chung với nhau một thời gian thì tan hàng, mỗi đứa một phương. Trải qua bao nhiêu biến cố và đổi thay của thời cuộc cùng đời sống của mỗi người nên chẳng liên lạc gì với nhau. Nhất là sau 75, tan hàng, rã đám tôi và hắn bặt tin nhau. Tôi đôi khi cũng hỏi thăm về hắn nhưng chẳng ai biết. Tôi nghĩ chắc hắn di tản hay vượt biên rồi vì gia đình hắn ở Nha Trang sát biển và bố hắn lại là sĩ quan cao cấp VNCH. Giờ gặp lại hắn cho biết là trong những ngày cuối của cuộc chiến, hắn được lùa đi với đám lính Đại Hàn nên rời Việt Nam rất sớm. Bố hắn kẹt lại đi cải tạo mấy năm.


Giờ hắn định cư ở Úc, đã có chắt rồi và hắn bảo hắn tìm tôi hơn 50 năm nay giờ mới gặp qua Facebook. Cũng cảm ơn Facebook, nhờ nó mà chúng tôi lại tìm được nhau sau bao thăng trầm, biến đổi. Thằng nào cũng đã quá tuổi bảy mươi, nằm nhắc lại những kỷ niệm, ký ức lại tràn về. Nhìn lại những năm tháng của một thời, khó khăn nhưng vui, rất vui và nhiều khát vọng ở tương lai. Bây giờ chân đã run, sức đã yếu, sự nghiệp cũng chẳng có gì, những ký ức của ngày tháng cũ tràn về, vẫn nhớ như in những bước chân trong những con hẻm nhỏ, ngôi nhà trống trải, những bữa cơm ở câu lạc bộ sinh viên. Thời gian đi mau quá, chớp mắt đã hơn nửa thế kỷ rồi. Chúc bạn ta và cũng tự chúc mình có sức khỏe và niềm vui với tuổi già. Hy vọng có ngày gặp lại nhau.


6.2.2024

DODUYNGOC 

Thương Về Quê Cũ - Thơ Người Phương Nam - Youtube Marian Tran



Sáng nay ăn bún nước lèo
Nhớ  về quê cũ nước lèo Sóc Trăng
Từ ngày cộng sản xâm lăng
Bỏ nhà xa xứ lang thang quê người

Khi đi chưa tới ba mươi
Bây giờ đầu bạc bảy mươi cuộc đời
Nhớ quê khắc khỏai bồi hồi
Bao năm lưu lạc chưa hề về thăm

Nhớ hồ nước ngọt Tịnh Tâm
Liễu dương rũ bóng bên dòng nước trong
Nhớ trường dòng Chúa quan phòng
Ma soeur áo trắng trọn lòng xin vâng

Nhớ trường nhất cấp Trần Văn
Rồi lên nhị cấp La-San thầy dòng
Nhớ con đường “Giữa” phố đông
Là đường huyết mạch lưu thông ngày ngày

Nhớ dinh tỉnh trưởng khán đài
Mỗi khi lễ lớn đọc bài diễn văn
Công trường hội họp Bạch Đằng
Vòng hoa chiến thắng mừng anh lính về

Hai ba rạp hát xi nê
Là nơi giải trí vỗ về đời nhau
Người dân chất phác cần lao
Miên, Tiều, Hoa, Việt đồng bào anh em

Với lòng tín ngưỡng thiêng liêng
Chùa Tàu, chùa Việt, chùa Miên rộn ràng
Nhứt là mùng một ngày rằm
Cầu tài cầu phước hương trầm tỏa lan

Nhớ khu nhà phố ba căn
Cùng Ty cảnh sát bạn thân xóm giềng
Căn đầu tài phú họ Dương
Ông bà Dương Tỷ hay thương giúp người


Ở giữa phán Bạc về hưu
Gia đình giáo Điểu mười người căn ba
Muốn đi ra chợ không xa
Người mua kẻ bán thật thà hiền lương

Chợ mai rôm rả chật đường
Cá đồng cải rẩy trái vườn tươi ngon
Nhanh lên kẻo trể không còn
Các bà nội trợ vuông tròn đảm đang

Rồi khi chiều xuống nắng tàn
Bên sông thơ mộng quán hàng về đêm
Dòng đời phẳng lặng êm đềm
Bỗng đâu thương hải tang điền trời Nam

Dân tình điêu đứng hoang mang
Biết tìm đâu nữa huy hòang ấm no
Người dân đang sống tự do
Bỗng dưng “giải phóng” thành tù chung thân

Như thân cá chậu chim lồng
Chực chờ cơ hội xổ lồng tung bay
Những mong xa chạy cao bay
Chân trời góc biển chẳng quay đầu về

Giờ đây dù nhớ muốn về
Cũng không còn nữa cõi quê riêng mình
Thôi đành giữ lại trong tim
Đợi mai thác xuống hồn tìm về thăm

Nước lèo hương vị Sóc Trăng
Chẳng hề phai lạt  dù sang xứ người

 Người Phương Nam
     Ký ức về Sóc Trăng vào thập niên 60-70-75


Mời xem video vài hình ảnh Sóc Trăng xưa  

Dọn Dẹp Nhà Cửa Có Thể Giúp Chữa Lành Tâm Hồn Bạn


Có những ngày, bạn thức dậy trong một căn phòng bừa bộn. Chiếc bàn ngổn ngang giấy tờ, quần áo vắt vểnh trên ghế, bụi phủ một lớp mỏng trên kệ sách. Bạn cảm thấy mệt mỏi, bức bối mà không rõ vì sao. Không phải vì một điều gì to tát, chỉ là có vẻ, mọi thứ trong và ngoài bạn đều đang chất chồng lên nhau. Lúc đó, hãy thử bắt đầu bằng một hành động đơn giản: dọn dẹp.

Dọn dẹp không chỉ thay đổi căn nhà, nó thay đổi cả cấu trúc tâm trí bạn

Nhiều người nghĩ rằng, dọn dẹp chỉ là công việc vật lý: lau, quét, gấp, bỏ. Nhưng theo neuroscience – khoa học thần kinh, mỗi lần bạn dọn dẹp, bộ não của bạn cũng đang tổ chức lại thông tin và trạng thái cảm xúc.

Một nghiên cứu của Princeton University Neuroscience Institute (2011) cho thấy: khi môi trường xung quanh lộn xộn, não bộ sẽ bị quá tải bởi những kích thích thị giác không cần thiết, khiến ta khó tập trung và dễ cảm thấy căng thẳng. Ngược lại, trong một không gian gọn gàng, vùng não xử lý chú ý và cảm xúc sẽ được “giải phóng”, giúp ta bình tĩnh hơn, minh mẫn hơn.

Nói cách khác: khi bạn dọn dẹp căn phòng, cũng là lúc bạn đang dọn dẹp chính những dòng suy nghĩ đang xáo trộn trong đầu mình.


Marie Kondo – tác giả nổi tiếng của The Life-Changing Magic of Tidying Up đã viết: “Hãy giữ lại những thứ khiến bạn rung động.” Vì dọn dẹp không phải là vứt bừa đi, mà là một hành trình phân loại cảm xúc. Bạn đang học cách nhận diện, chọn lọc, và buông bỏ, những điều không còn phù hợp, cả bên ngoài lẫn bên trong. 

Tâm trạng bạn như thế nào, nhà bạn sẽ như thế đó 

Một người đang trong giai đoạn trầm cảm thường sống trong không gian lộn xộn. Nhưng không gian lộn xộn cũng góp phần kéo dài tình trạng trầm cảm đó. Đây là một vòng luẩn quẩn tâm lý đã được ghi nhận bởi nhiều nghiên cứu tâm thần học.

Theo Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA), phụ nữ sống trong không gian nhà cửa bừa bộn có mức cortisol (hormone căng thẳng) cao hơn và có xu hướng mệt mỏi về cuối ngày nhiều hơn so với người sống trong môi trường gọn gàng.

Điều đáng nói là: ta có thể bắt đầu phá vỡ vòng luẩn quẩn đó từ bên ngoài. Dọn dẹp không cần nhiều lý do. Đơn giản, chỉ là một bước đi nhỏ để thoát khỏi sự trì trệ. Khi bạn gấp chăn màn, lau bàn ghế, gom đồ giặt bạn đang tạo lại dòng chảy cho năng lượng trong đời sống của chính mình.

Dọn dẹp là một hành vi của sự chăm sóc và tình yêu thương


Nhiều người từng trải qua mất mát, ly hôn, thất nghiệp… thường thấy mình gục xuống trong một căn phòng ngập đồ. Nhưng cũng chính từ căn phòng đó, họ có thể bắt đầu đứng dậy.

Dọn dẹp, khi ấy, là cách ta nói với chính mình: “Tôi vẫn ở đây. Tôi vẫn quan tâm.” Dù nhỏ bé, dù đơn giản, hành vi ấy là một thông điệp của sự sống, một khẳng định rằng ta vẫn xứng đáng có một không gian tử tế để sống tiếp.

Vì thế, dọn dẹp không phải là việc chỉnh chu bề ngoài. Đó là sự chăm sóc sâu sắc dành cho nội tâm.


Dọn dẹp không giải quyết được hết mọi tổn thương, nhưng nó giúp ta lắng lại, thở đều, và bắt đầu nhìn rõ hơn điều mình đang cần.

Đó là khi bạn lau một ô cửa sổ và bỗng thấy ánh nắng rọi vào đẹp hơn. 

Là khi bạn xếp lại ngăn kéo và chợt nhận ra mình không còn cần giữ những thứ đã cũ.

Là khi bạn dọn lại góc làm việc và thấy lòng mình bớt lộn xộn.

Dọn dẹp, rốt cuộc, là một cách yên lặng để bắt đầu lại. Không cần tuyên bố điều gì to tát. Chỉ cần cầm lên một chiếc khăn, nhặt một tờ giấy rơi, sắp lại một giá sách. Và cuộc sống, từ từ, cũng sẽ sắp xếp lại.

Nếu bạn đang thấy mỏi mệt, đừng cố nghĩ thông suốt tất cả. Chỉ cần đứng dậy và dọn một góc nhỏ. Một góc nhà, rồi một góc lòng sẽ dần được chữa lành.

 

Nguyên Tác An Hậu

Dọn dẹp nhà cửa có thể giúp chữa lành tâm hồn bạn