Khung cảnh quen thuộc bên trong một nhà hàng Tàu ở Hoa Kỳ. (Hình: Getty Images)
Năm nào, vào khoảng thời gian này, chúng ta cũng thường có dịp tham 
dự những buổi họp mặt Tất Niên hay Tân Niên của các Hội Đoàn Đồng Hương,
 Ái Hữu hay Đơn Vị, Quân Binh Chủng,…
Nhiều khi nghĩ cũng lạ, nói không ngoa, trong hơn ba chục năm ở đây, 
trong vùng Little Saigon, mỗi năm tôi thường đến tham dự ở cái nhà hàng 
này, ít lắm cũng mỗi năm ba lần, tính ra trong ba mươi năm, là 90 lần 
đến cùng một cái nhà hàng, gặp gỡ bạn bè có khi thay đổi, nhưng cũng có 
khi với chừng ấy khuôn mặt.
Ba mươi năm, mỗi lần đến đây, ngồi vào bàn tiệc, tôi đã cầm đũa lên, 
ăn những món ăn trong cái thực đơn muôn thuở, không bao giờ thay đổi ấy,
 đến nhàm chán. Trên bàn thường không có mảnh giấy in bản thực đơn, 
nhưng dù có, nhắm mắt lại, cũng biết món mở đầu là “bát… nháo khai vị,” ở
 giữa là món đầu, đuôi và vỏ tôm hùm, và món cuối cùng là cơm chiên và 
một đĩa cá filet. Cái menu này chúng ta gọi là “Menu Hội Đoàn!” Cuối 
cùng món tráng miệng là một dĩa cam Cali cắt nhỏ, ngọt hay chua tùy theo
 mùa.
Trên bàn lúc nào cũng có một chai nước ngọt Coca hay 7Up, và thêm một
 chai rượu chát rẻ tiền nhất, mà theo lời ông chủ nhà hàng, là để biếu 
bà con, nói “văn vẽ” kiểu trong nước là… khuyến mãi! Không nhiều không 
ít, không di dịch, không thay đổi. Nhiều lúc trong hai ngày Chủ Nhật và 
Thứ Bảy cuối tuần, mà bất đắc dĩ chúng ta phải tham dự cùng ở một cái 
nhà hàng ấy ba buổi tiệc, thì đúng là một tai họa làm cho bộ phận tiêu 
hóa của chúng ta phải lên tiếng.
Những nơi mà chúng ta thường lui tới để dự tiệc tùng kể trên là những
 nhà hàng Tàu, theo cách nói quen miệng. Ở Mỹ, thì những nhà hàng này có
 thể gọi là nhà hàng Hồng Kông, Đài Loan hay Trung Quốc, với những cái 
tên có kèm theo chữ Seafood, Place, Cove, Paradise… sân khấu trang trí 
hình Long Phụng, Song Hỷ, nhưng chủ nhân và bồi bếp, trong cộng đồng này
 đều phần lớn là người Việt Nam hoặc là cư dân Chợ Lớn đến đây bằng con 
đường “bán chính thức!”
Dễ chừng không có nhà hàng Tàu thì người Việt lưu vong đã “không có… văn hóa.”
Bằng chứng là ngày cử hành hôn lễ của đôi trẻ trong cộng đồng Việt 
Nam, không phải do cha mẹ đôi bên giở lịch Tam Tông Miếu để chọn cho đôi
 trẻ ngày lành tháng tốt, mà do ông chủ nhà hàng Seafood … quyết định. 
Nói rõ ra, chưa, chưa… có ngày tháng để “book” nhà hàng, đãi đằng bà con
 hai họ, thì… chưa động phòng!
Chính trị thì ai cũng đòi “thoát Trung,” “chống Tàu lạ…” nhưng lề thói thì cứ mãi dính chặt với… Tàu!
Chưa ai làm được một cuộc cách mạng. Đám cưới mà không đãi tiệc ở nhà
 hàng Tàu thì ai đi. Có lần gia chủ đãi tiệc ở nhà hàng Tây, thực đơn 
chỉ có một đĩa rau trộn và chọn cái đùi gà, miếng beefsteak hay mấy con 
tôm… thì các cụ chê nhạt nhẽo và nghĩ rằng chắc là bọn chúng… hà tiện! 
Ba mươi năm rồi, địa điểm các nhà hàng Tàu để tham dự tiệc cưới, họp hội
 đoàn, đồng hương quen thuộc như nhìn bàn tay, chẳng bao giờ cần đến một
 cái GPS hay vào Google để tìm ra địa chỉ.
Bây giờ chúng ta trở lại với những buổi sinh hoạt của ái hữu, đồng hương, đơn vị mà trong đầu bài chúng tôi đã dạo qua ở trên.
Tôi cho buổi hội họp nào cũng trở thành một cực hình cho người tham 
dự, khi một chương trình ca nhạc “phong phú” đầy ắp, tra tấn lỗ tai 
người nghe, nhất là những lúc không may, các cụ được xếp ngồi ngay cái 
bàn trước loa phóng thanh, khuếch âm tối đa! Ai bảo nhân tài như lá mùa 
thu, tôi thì cho rằng, cộng đồng chúng ta lạm phát ca sĩ. Bằng chứng là 
khi phòng hội chưa đến giờ khai mạc, mới lai rai khách khứa năm bảy chục
 người, thì sân khấu đã ầm ĩ, ồn ào, liên tục, cho đến khi khách đứng 
dậy ra về, còn nghe tiếng hát của ca sĩ đuổi theo sau.
Cũng may là dân mình có thói quen đi trễ, giấy mời ghi 6:00 giờ, 
nhưng đến 7:30 giờ hơn cũng chưa vào cuộc, nhờ vậy mà “ca sĩ” và ban 
nhạc mới có cơ hội bằng vàng với thiện chí là “warm up,” kẻo không khí 
lạnh lùng, tẻ nhạt quá! Nhiều khi thấy thương cho ông nhạc sĩ “One Man 
Band,” không hề được ăn uống hay vào nhà vệ sinh, phải liên tục đệm đàn 
từ khi buổi hội chưa khai mạc cho đến khi nhà hàng dọn dẹp đóng cửa!
Trong một buổi họp mặt hội đoàn nào cũng vậy. MC chạy lui chạy tới, 
giới thiệu hết cô này đến bà nọ, cũng là người vất vả và mất lòng thiên 
hạ nhất, vì cô, bà nào cũng muốn lên sân khấu, mà phải được xếp ưu tiên 
hát trước và phải được tái ngộ… nhiều lần. Cái câu “Xin quý vị cho một 
tràng pháo tay…” dễ thường chúng ta phải nghe MC nói đi nói lại đến trăm
 lần trong một buổi ăn tại nhà hàng… Tàu hay cả trong những cuốn băng 
nhạc… Việt! Mỗi người hát sẽ được xin vỗ tay hai lần, một khi chưa hát 
và một sau khi hát xong cúi chào khán giả!
Nói chung, không phải ca sĩ tài tử nào hát cũng tệ, nhưng giá đừng 
hát, trả lại sự yên tĩnh… cho sân khấu chúng tôi thì tốt hơn. Vì gặp 
nhau ở chỗ này, ai cũng muốn chuyện trò, hàn huyên, thăm hỏi nhau, chứ 
mục đích buổi hội ngộ này không phải là nơi chúng ta mua vé để vào nghe 
ca sĩ “nghiệp dư,” được giải nghĩa là “rỗi nghề” lên hát! Nhưng ai hát 
thì cứ hát, ai đàn thì cứ đàn, ai chuyện trò lớn tiếng, ai ăn uống là 
quyền của họ. Và ca sĩ cần được hát hơn là cần có người nghe! Họ không 
cần chú ý đến nhau và chẳng cũng cần tôn trọng nhau.
Tôi biết một ca sĩ nổi tiếng, nay đã qua đời, lúc sinh tiền, cô không
 bao giờ nhận lời lên sân khấu trong lúc người ta ăn uống sì sụp. Vì lúc
 người ta đang phải bận rộn dùng hàm răng, lưỡi và dịch vị thì chức năng
 của màng nhĩ trở nên rối loạn!
Nhưng cũng chính vì lâu ngày gặp nhau, chúng ta cứ nói chuyện ào ào, 
chẳng coi ai ra gì, nên từ bài diễn văn của ông Hội Trưởng, đến phát 
biểu của một quan khách, kể cả những nghi thức tế lễ cổ truyền, cần đến 
sự nghiêm trang và yên lặng của mọi người tham dự, cũng chẳng có ai cần 
để ý đến!
Có nhân tài thì có người hâm mộ, tạo nên một lề thói tặng hoa rất là…
 dung tục. Lề thói này phát triển từ trong nước sau năm 1975 và theo 
chân người tỵ nạn đến đây. Trong khi ca sĩ đang mơ màng theo lời hát, 
thì dưới sân khấu, có người hùng hục bước lên, ghé qua chậu hoa, nhón 
một bông hoa, lên tặng người hát, xong đứng sát ca sĩ hay ôm hẳn người 
này để nhờ một người bạn gần đó bấm cho một “bô” hình kỷ niệm. Tội 
nghiệp cho ca sĩ, có khi hai ba người lên tặng hoa cùng một lúc, một tay
 bận cầm micro, tay kia phải nhận cả mấy chùm hoa, có khi phải kẹp vào 
nách. Có người còn phải ôm luôn cả một chậu hoa cúc, mà người hâm mộ lên
 sân khấu, tiện tay bê theo luôn cho tiện việc.
Một cái xô lớn đựng nhiều hoa được ban tổ chức đặt trước sân khấu, ca
 sĩ được tặng hoa, hát xong đem hoa về bỏ vào chỗ cũ, cho người khác 
tiếp tục lấy, tặng cho người sau, nên loại hoa này không còn được gọi là
 “hoa trinh nữ” nữa!
Lề thói này chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong cộng đồng người Việt, vậy có thể cho rằng đây là một thứ văn hóa… Việt Nam chăng?
Cái mà người ta gọi là chương trình văn nghệ chỉ là một thứ tạp lục 
vô giá trị mà ban tổ chức nào cũng giẫm theo lối mòn, làm cho có, nhưng 
lại làm khổ người tham dự. Dễ thường một buổi sinh hoạt như vậy, có đến 
vài ba mươi ca sĩ tình nguyện lên sân khấu để được hát, được “cho” một 
tràng pháo tay rời rạc, được tặng hoa, được ôm và được chụp ảnh. Tiếng 
hát ở đây không những át được tiếng đàn của nhạc công, mà đôi khi còn át
 được tiếng trò chuyện cười đùa của người tham dự, trong đó ai cũng muốn
 giành phần thắng, nói lớn hơn, cười lớn hơn và ban tổ chức cũng muốn 
tiếng loa phải lớn hơn. Đi dự tiệc về nhà, phải uống thuốc… an thần.
Nhìn lên tấm lịch tháng có ghi ngày đi tham dự sinh hoạt hội đoàn, 
tính ra tháng này còn ba cái nữa. Đã là con đường cũ, cũng đành phải đi 
thôi! Vẫn là những cái nhà hàng Tàu cũ, những món ăn ba mươi năm trước 
đã ăn, chai coca trên bàn, chương trình ca nhạc không ai muốn nghe, câu 
nói “xin quý vị một tràng pháo tay!” sẽ được lặp lại.
May mắn là đến tuổi này, không còn có cơ hội đi tham dự đám cưới của 
con cháu nữa, chỉ còn đi dự đám tang. Yên trí, với đám tang, chắc chắn 
là không có câu “xin quý vị một tràng pháo tay” đâu!
Huy Phương