Tôi về Việt Nam ăn Tết, khi trở ra, gặp 
một chuyện trên máy bay, tới bây giờ vẫn còn lấy làm lạ. Tôi cũng hơi áy
 náy nữa, nên mong bà ngồi bên tôi chuyến đó, ghế số 27E, tình cờ đọc 
được bài này sẽ cho tôi biết tin bà có bình an không, mặc dầu khi chia 
tay, bà ra dấu hiệu ‘Cứ yên tâm’.
    
Đầu tiên khi lên máy bay tôi đã thấy
 bà chiếm chỗ của tôi, 27D, mà ngủ li bì. Lạ thật, mới lên máy bay đã 
ngủ. Tôi không dám đánh thức vì thấy mặt bà co giật một cách khổ não, 
chỉ sợ đụng phải lỡ bà lăn đùng ra thì mang vạ. Đấy, cái gì tôi cũng cứ 
nói thật, xin bà bỏ qua. Cuối cùng, vì bị hành khách đi sau thúc quá, 
tôi đành bước qua người bà mà vào chỗ ngồi tạm. Trước khi máy bay chuyển
 bánh ra phi đạo để cất cánh, cô tiếp viên tới kiểm soát, thấy bà chưa 
cài dây an toàn, lại bảo tôi cài cho bà. Một sự lầm tưởng tai hại. Nhưng
 tôi không đủ lanh trí để cải chính một cách tế nhị, chẳng lẽ tự dưng 
tôi nói ‘bả không phải vợ tôi’? Vả lại, cài giùm cái dây có cần gì phải 
là vợ chồng? Tôi nghiêng qua người bà tìm mối dây bên kia, nghe nồng nực
 mùi dầu cù là. Tôi nín thở cài khóa, tiếng kim loại ăn khớp kêu crắc 
xác nhận là tôi đã làm chu đáo một nhiệm vụ nhỏ, nhưng có thể trở thành 
lớn, nếu nói dại có trục trặc gì xảy ra. Nhưng máy bay cất cánh an toàn.
 Khi đèn báo hiệu cho phép cởi dây an toàn, tôi cởi cho mình, rồi tần 
ngần nghĩ đã cài cho bà, thì tôi cũng nên cởi cho bà.
    – Ê! Làm gì kỳ vậy, cha già mắc dịch!
    ‘Chát!’ Bàn tay tôi bị bắt quả tang 
đang thò sang lòng bà. Tôi vừa giận vừa xấu hổ, ức quá mà không dám gây 
sự lại. Thôi thì phải tự an ủi là bà chưa ngoác mồm tuôn ra một tràng xỉ
 vả nặng hơn nữa, và còn may là hành khách chung quanh coi bộ không ai 
chú ý tới lời ‘vu cáo’ trắng trợn kia. Tôi đành im lặng chịu trận cho 
tới khi nghe bà nói trổng:
    – Mắc đái thấy mụ nội. Bao giờ máy bay mới ghé đổ nước, cho hành khách đi đái không biết?
    Được dịp ‘đáp lễ’ sự lỗ mãng của bà bằng sự đàng hoàng và kẻ cả của mình, tôi chỉ giùm làm phước:
    – Toilette ở trước mặt kia kìa, bà.
    Bà ngơ ngác nhìn lên rồi ngơ ngác nhìn lại tôi:
    – ‘Toa với lết’. ‘Lết’ đi đâu cha nội? Tui mắc đái xón ra quần bây giờ nè. Chạy te không kịp, ở đó mà ‘lết’.
    
Tôi bỗng nhận ra bên cạnh tôi là một
 người đàn bà, mặt thuôn dài, lưỡng quyền cao, khá đẹp, nhưng quê như 
một cục đất. Tôi hết giận:
    – Bà có biết đọc … xa tới đằng kia nổi không?
    – Chữ ta thì đánh vần được chớ, sao không? Mắc cái chữ Tây ôn dịch gì đâu. Mà biển gì kẻ chữ bằng con kiến!
    – Bà khỏi cần đọc chữ cũng được. Lên đó, thấy có cái cửa nào có vẽ hình ông Tây với bà Đầm, thì bà vào mà … đái.
    Bà vừa nhổm dậy đã bị sợi đai trì lại, la to:
    – Ối chu cha! Con mẹ đứa nào nó cột eo ếch tui, tế mồ tế mả nhà nó!
    Tôi im thin thít, không dám tự thú nhận ‘tội ác’ của mình, chỉ giúp bà mở khóa dây. Giữa lúc không hề dám mong đợi, tôi lại được bà ban cho một nụ cười tươi rói, và một giọng ỏn ẻn:
    – Té ra hồi nãy chú tính cởi trói cho tui hả? Không biết đứa mắc dịch nào đi tầu đi xe mà còn phá.
    Rồi bà lảo đảo đi lên cầu tiêu, lâu lắm mới thấy trở lại:
    – Không thấy nhà cầu đâu hết. Chú giắt tui đi được hôn?
    Tôi tính nói ‘bảo đảm bà không kiếm 
ra cái cầu cá tra trên máy bay đâu’, nhưng lại im lặng hướng dẫn bà lên 
cầu tiêu, mở một cửa trống chỉ cho bà vào. Bà ngạc nhiên:
    – Thì hồi nẫy người ta cũng chỉ cho tui cái tủ kín bưng như vầy. Có cầu kiều mẹ gì đâu?
    
Đã trót thì trét, tôi kéo bà vào hẳn
 bên trong, chỉ cho bà cách ngồi cầu, xé giấy, cách bấm nút xối cầu, rửa
 tay bằng xà bông, và thoa nước thơm, đủ lễ bộ. Để chắc ăn, tôi bảo bà 
làm ơn thực tập thử cái thủ tục quan trọng nhất là nhấn vào cái nút xối 
cầu. Bà vừa thò tay nhấn nút, tiếng cống hút rồ lên như cọp táp gà con, 
bà ôm chầm lấy tôi la:
    – Trời đất thiên địa ơi! Con gì nó rống quá trời!
    Khi tôi để bà ở lại và đi ra, có một một cậu Việt Nam đứng chờ, nhìn một cách hóm hỉnh nói nhỏ:
    – Ông bà tình ghê!
    Câu này, chắc hôm đó bà không nghe 
đâu, nhỉ? Về chỗ, tôi vẫn ngồi vào cái ghế đã bị đổi, đầu tràn ngập 
những dấu hỏi về người đàn bà kỳ lạ. Bà đi với ai? Đi đâu? Làm gì? Khi 
bà trở lại, lò dò mãi không tìm thấy chỗ, tôi phải vẫy tay, kêu:
    – Bà ơi! Đằng này nè!
    Tôi nghe từ hàng ghế sau, phía bên trái có giọng đàn bà, tiếng Việt:
    – Ông già lấy được bà vợ đẹp, chỉ tội quê không để đâu hết.
    
Bụng tôi thon thót theo mỗi bước 
chân của bà, chỉ lo ngại cho những cái đầu người ngồi dẫy bìa bị tay bà 
quơ phải, lỡ mà bà nhằm cái đầu tóc giả của một ông Tây mà vịn thì tôi 
phải tuyên bố ‘ly dị’ ngay tại chỗ. Nhưng tôi thở phào khi cuối cùng bà 
tới được chỗ ngồi bình an, gieo bàn tọa cái rầm, thả ra mùi ‘eau de 
Cologne’ pha lẫn mùi dầu cù là lổn ngổn.
    – Bà đi máy bay lần đầu?
    – Chớ lần mấy?
    – Bà đi đâu ạ?
    – Phần-lan.
    – Bà đi thăm bà con bên đó, chắc?
    – Bà con hồi nào? Theo chồng.
    – Ông nhà sang Phần-lan lâu chưa?
    – Chả người Phần-lan …
    
Bà kể bà làm nghề chèo ghe đưa khách
 tại bến đò Vĩnh Long. Chở bạn hàng cũng có, mà sau này chở khách du 
lịch cũng có. Thường thì bà chậm chân, không tranh được mấy mối khách du
 lịch béo bở. Một hôm bà để ý có một ông khách Tây cứ ngồi uống cà phê 
đá mà nhìn bà cả buổi, ‘cái đầu xồm không nhúc nhích’ và ‘cái môi đỏ 
chót liếm lia’. Cuối cùng ông đứng lên ra bến, đưa tay gạt hết mấy thằng
 giành mối ra một bên, mà tiến thẳng lại ghe bà, chẳng nói chẳng rằng, 
bước xuống, và bà chèo ghe cho ông coi cảnh trên sông Cổ Chiên. Bà nói 
tiếp:
    – Tối về chả rút bóp ra một xấp tiền
 đô. Tui hổng dám lấy. Thằng chả xòe ra biểu lấy một ít cũng được. Nhưng
 chú tính coi – ai lấy kỳ vậy?
    
Cô tiếp viên đưa khay ăn tới. Tôi 
giúp bà hạ bàn con xuống, chọn nước uống, và chỉ bà cách dùng mấy thứ 
lỉnh kỉnh như dao nĩa, khăn ăn v.v. Và tôi ngạc nhiên tại sao một người 
chèo đò nhà quê mà có bàn tay búp măng đẹp như vậy. Bà cầm dao ăn như 
cầm búa, nhưng ăn vén khéo và rất … bạo -so với các mệnh phụ phu nhân 
khác. Vẻ tự nhiên của bà và những món ăn hấp dẫn với rượu vang khiến tôi
 phấn chấn tinh thần. Tôi thấy đã đủ thân mật để nói đùa:
    – Bà không lấy tiền, chứng tỏ bà mê ông rồi?
    Bà cười khinh khích:
    – Mê cái mốc xì họ. Bộ ghe chùa sao? Tôi lấy cái tờ có vẽ số 1.
    – Sao bà không lấy tờ vẽ số 10 hay 20?
    – Lấy đủ công mình thôi chớ.
    – Rồi sau đó?
    – Sau đó hả? Mấy bữa sau, bữa nào chả cũng trở lại thuê ghe tui đi chơi lòng vòng… Rồi chả đòi lấy tui.
    – Ý! Chết mẹ người ta chưa!
    Dầu biết trước bà đang trên đường đi
 về nhà chồng, tôi buông ra một câu sững sờ như thế vì hồi kết cuộc tới 
một cách đột ngột quá. Không ngờ tiếng reo của tôi đã đậm đà giọng của 
bà, thốt ra mà thấy sướng cổ họng.  Nhưng thấy sau đó bà im bặt, tôi lại
 lo bà giận tôi lỗ mãng.
    – Xin lỗi nhé!
    – Lỗi gì?
    – Dạ, không.
    
Tôi chờ đợi một câu truyện hấp dẫn, 
có đầu đuôi hơn. Tôi muốn biết buổi hẹn hò đầu tiên ở đâu? ông tỏ tình 
thế nào? tại sao bà biết ông thương mình thiệt? cái gì làm cho bà thích 
ông? ông làm nghề gì? có tổ chức đám cưới không? Nhưng bà không kể nữa, 
tiếp tục ăn món tráng miệng, khen ngon.
    Tôi uống sang ly Cognac thứ ba, nghe ra giọng nhừa nhựa của chính mình:
    – Dô! Dô! Mừng cho mối tình của bà! Đẹp thấy … mẹ!
    Bà nhìn tôi, cau mặt:
    – Ê! Chú hổng nên bắt chước tui ăn nói cái kiểu ẩu tả đó.
    Thế ra bà vẫn biết mình ăn nói khác thường. Tôi chữa:
    – Bà nói ngon lành hết xảy, chứ đâu có … ẩu tả.
    – Chú nói thiệt tình hay xí gạt tui?
    – Tui xí gạt bà làm mẹ gì? Bà là người tốt muốn chết.
    – Chú coi bộ cũng được, nên tui 
khuyên chú đừng bắt chước tui. Tui trót học thói xấu, không sửa được. 
Không muốn sửa. Thằng khốn nạn đó …
    Tôi ngạc nhiên, tại sao mới ‘thằng chả’ thân mật đã lên cấp ‘thằng khốn nạn’?
    – Bà nói ai … khốn nạn?
    – Thằng chồng của má tui.
    – ‘Chồng của má’, tức thị là cha ?
    – Cha ghẻ tui đó. Mà tui có kêu chả bằng cha đâu.
    – Sao vậy?
    – Nó nhậu say rồi đánh đập mẹ tui 
tối ngày. Một hôm nó định giở trò súc vật  với tui, mẹ tui bắt gặp, nó 
đánh mẹ tui bất tỉnh nhơn sự, tui quơ con dao yếm, huơ cho nó ớn mà 
giang ra, ai dè nó tự lao thây vào lãnh dao, chết ngắt. Đúng là số chả 
chết. Bị thần Lưu Linh vật. Tui .. tui không cố ý. Ông ta cũng thông cảm
 cho tui như vậy. Tui chỉ bị ba năm cải tạo. Lúc má tui đau nặng, người 
ta lại thả cho về sớm gần năm để nuôi bả.
    Bà ngưng kể, khóc. Tôi im lặng để bà khóc tự nhiên, nhưng thấy bà khóc mãi, tôi an ủi:
    – Việc đã qua rồi. Bà đừng buồn nữa.
    Bà mủi lòng, khóc mùi hơn:
    – Tui nhớ má tui với thằng Mẫn quá. Tui bỏ đi thiệt là tệ. Không ai coi chừng má tui với nó hết trơn.
    – Thằng Mẫn là ai?
    –  Nó là em cùng mẹ khác cha với tui. Nó bị tàn tật, què giò.
    – Cha em là ai?
    – Thằng chồng mắc toi của mẹ tui, chứ ai?
    
Tôi quay nhìn khuôn mặt hiền lành 
đẫm nước mắt và nghĩ có lẽ chính khuôn mặt này đã làm cho các quan tòa 
giảm khinh cho bà tội vô ý giết người. Phải tay tôi, đã cho bà trắng án.
 Rồi như bấm nút, bà nín bặt, chùi nước mắt, nói ráo hoảnh:
    – Bảy năm cãi lộn với thằng cha ghẻ 
và hai năm cải tạo, hết thảy chín năm, tui quen ăn nói ba trợn. Sửa lại 
thấy … miệng lạt nhách.
    Bà nói xong than:
    – Tui mắc ói quá. Trước khi lên máy bay đã uống ba viên thuốc, mà còn mắc ói.
    – Hèn gì bà vừa lên máy bay đã ngủ li bì.
    
Tôi vừa kịp banh cái bao ói thì bà 
ọc ra. Bà lại lấy dầu cù là ra xức. Cái nồng nàn của những chuyến đò 
đêm, cái ngất ngưởng của những chuyến xe đò trưa nắng, cái bệnh viện lưu
 động đó, dầu cù là con hổ. Hai mươi năm mới gặp lại, gặp lại vẫn nồng. 
Tôi bật ghế cho bà nằm nghỉ. Tôi cũng ngả người, nhắm mắt, suy nghĩ miên
 man về câu truyện của bà. Thỉnh thoảng tôi hé mắt, thấy bà chăm chú coi
 phim trên bàn ảnh truyền hình. Tôi chỉ cho bà đeo ống nghe. Tay chạm 
phải bộ tóc thật rậm, khỏe mạnh.
    
Không biết máy bay đã bay tới đâu và
 mấy giờ ở dưới mặt đất. Tôi có cảm tưởng thời gian và không gian như 
đọng lại ở một nơi xa lạ, không liên quan tới trái đất. Nhưng tôi vẫn 
tưởng tượng dưới đó hàng mấy tỉ người đang lao xao cười, khóc, nói thật 
và nói dối, thông cảm và ngộ nhận, bằng nhiều thứ ngôn ngữ, chân ngôn 
xen lẫn ngụy ngôn.
    Tôi thức giấc đã nghe nhiều người rục rịch. Bà đã bật ghế thẳng, ngồi đan áo, tôi hỏi:
    – Bà không ngủ?
    – Ngủ mẹ gì được. Vừa chợp mắt đã nghe tiếng gà gáy.
    Tôi ngạc nhiên:
    – Trên máy bay, làm gì có gà kìa?
    Bà không do dự:
    – Chắc nó gáy trong đầu tui. Bị ở nhà quê, nghe gà gáy riết, quen đi, cứ gần hừng sáng là nghe gà gáy trong tai.
    Hình như bà giao tiếp với thế giới 
bên ngoài bằng trực giác. Thuần trực giác. Tôi chắc người đàn ông gặp bà
 trên bến đò Vĩnh Long cũng có trực giác rất mạnh. Tôi thích nghe tiếp 
câu truyện về họ.
    – Tại sao ông không về Việt Nam … rước dâu?
    – Chú đừng kiêu ngạo tui… Chả đòi 
sang đó chớ. Nhưng tui không cho. Tui nói dìa chi tốn tiền. Tui xin món 
tiền đó cho thằng Mẫn ăn học, chả bằng lòng, gởi tiền dìa rồi.
    Khi bà dẹp len và kim đan để chuẩn bị ăn điểm tâm, tôi hỏi:
    – Bà đan áo cho ông?
    – Bển nghe nói lạnh lắm.
    
Chúng tôi ăn xong, máy bay qua một 
vùng ‘ổ gà trời’, hổng lên hổng xuống. Đèn báo nhắc cài dây an toàn. Lần
 này tôi chỉ cho bà cái khóa. Hành khách đi máy bay gặp những báo hiệu 
cài dây thế nào cũng ít nhiều lo lắng. Rủi ro, ai biết? Loa phóng thanh 
loan báo có bão, nhưng hành khách có thể yên tâm. Tôi lòn tay dưới gầm 
ghế, lấy cái phao cấp cứu. Bà hỏi:
    – Cái gì vậy?
    – Cái phao cấp cứu. Tôi chỉ kiểm soát xem nó có đó không, để mình yên tâm.
    – Tui đi sông đi nước hai chục năm 
trời, chẳng phao phiếc gì, cũng chẳng chết. Hôm đầu thằng chả xuống ghe 
cũng bày đặt hỏi phao, tui nói không cần, chả cũng chịu. Riết rồi chả 
nói đi ghe với tui mà không mang phao mới thích.
    
Bà không lộ một thoáng lo âu nào. 
Tôi có cảm tưởng người đàn bà này bay trên 10 ngàn bộ cao mà tưởng mình 
đang bơi xuồng trên sông Cổ Chiên, xuồng lật, chỉ việc nhào xuống nước 
bơi. Tôi cất phao trở lại chỗ cũ, hỏi:
    – Bà có chắc ông sẽ ra đón không?
    – Tui chắc mà. Tui biết ai là người tin được. Tui biết thằng cha này không bao giờ nói xạo.
    
Tôi nhớ một sự tích trong Tân ước: 
Một hôm thuyền của các môn đệ gặp sóng gió, Chúa Giêsu đi trên mặt nước 
ra với họ, nhưng họ càng sợ hơn vì tưởng là ma. Chúa nói ‘Thày đây, đừng
 sợ’. Đại môn đệ Phêrô mừng quá nói ‘Nếu là Thày thì xin cho con đi trên
 mặt nước đến với Thày’. Chúa phán ‘Con lại đây!’ Phêrô bước xuống, đi 
trên mặt nước, được mấy bước, thấy sóng to quá, ông đâm hoảng, và chìm 
xuống, Chúa phải đưa tay ra đỡ lên thuyền. Ngài trách yêu ‘Cái đồ yếu 
lòng tin!’
    
Tôi cảm phục lòng tin của bà lắm, bà
 ạ: Bà bước thẳng lên mây đến với chồng. Tôi nghĩ mọi người trên chuyến 
bay này đều biết trước về cuộc hành trình, và biết điểm tới. Chỉ có bà 
nhắm mắt mà bước lên mây, không biết điểm tới nằm chỗ nào trên mặt đất. 
Bà đi tới với chồng, chứ không đi tới một nơi nào cả. Không một giây hồ 
nghi. Câu hỏi ‘Liệu ông chồng có tới đón không?’ chỉ bám vào đầu tôi, 
một con người thường thấy quá nhiều sóng lớn trên biển đời, lòng tin 
thường bị nhận chìm, đến nỗi mỗi bước đi về sau trở thành một dấu hỏi.
    
Tôi phải chờ bảy tiếng đồng hồ tại 
Copenhagen để được chuyển máy bay đi Oslo. Lịch trình bay đã ghi như vậy
 từ đầu. Còn bà, theo lịch trình lẽ ra chỉ phải chờ ba tiếng để chuyển 
máy bay, nhưng vì trục trặc đình công sao đó, phải thêm hai tiếng trễ 
nải. Chính hai tiếng trễ nải này khiến cho tôi lo ngại giùm bà. Tôi đề 
nghị:
    – Bà nên báo cho chồng bà biết máy bay trễ.
    – Chả biết mà … Cái gì chả cũng biết hết đó.
    ‘Cái gì chả cũng biết’, đã tin ắng 
đi như vậy, thì thôi, kệ bà. Tôi hướng dẫn bà  đi coi các gian hàng 
trong sân bay. Bà bị kích thích mạnh vì vẻ choáng lệ và đồ vật bày trong
 các cửa hiệu. Bà trầm trồ, reo vui. Tôi hỏi bà có định mua cái gì làm 
quà cho chồng không, vì đồ ở đây miễn thuế, rẻ hơn ở ngoài, bà nói:
    – Tui mang theo nhiều đồ lắm, khỏi 
cần mua. Chú đừng cười nghe, tôi may ba bộ birama, kho một nồi tôm, và 
mua năm ký bánh phòng tôm, hai ký kẹo dừa. Nghe nói mấy thứ này ở bên 
tây không có. Mèn ơi! Tây u gì mà nó thích ăn tôm kho tầu gì đâu …
    
Đi với bà, tôi có cái vui thích như 
đi bên cạnh một đứa trẻ tò mò. Trẻ ngoan nữa, vì bà từ chối khi tôi đề 
nghị mua tặng một cái máy sấy tóc mà bà rất thích.
    – Ai lại để chú mua, kỳ chết. Để chả mua cho tui, nếu tui còn thích.
    Theo tôi, bà có một bộ tóc mây quá đẹp. Tôi hy vọng ông chồng sẽ thuyết phục được bà đừng uốn tóc. Tôi thăm dò:
    – Tóc bà để tự nhiên như thế đẹp hơn.
    – Biết đâu thằng chả.
    ‘Biết đâu thằng chả’, thế là cả nhan sắc bà cũng giao cho ông luôn.
    – Hèn gì.
    – Chú lẩm bẩm cái gì?
    – Dạ, không. À, tôi định nói con gấu bông kia nhỏ bé quá, hèn gì ai cũng muốn bồng.
    
Tuy nhiên, bà càng tin tưởng, phó 
thác một cách ngây thơ, đầu óc đầy sạn của tôi càng nghi ngại. Rủi chồng
 bà không tới, bà sẽ xoay xở ra sao ở nơi xa lạ? Khi đi qua một trạm 
điện thoại, tôi đề nghị:
    – Bà nên điện thoại cho ông báo tin báy bay trễ, để ông khỏi lo.
    Bà ngẫm nghĩ, rồi trả lời:
    – Chú nói có lý. Nhưng làm sao ra nhà dây thép gió bây giờ?
    
Tôi lấy cái thẻ nhựa của tôi tra vào
 máy điện thoại, và quay số bà ghi trong một tờ giấy nhét cẩn thận trong
 bóp. Chuông điện thoại reo. Bỗng tôi ngại ngùng, có thể nào người đàn 
ông nghe tiếng tôi ở đầu dây bên này, biết tôi đứng bên cạnh vợ ông và 
đâm ghen không. Tôi vội trao máy cho bà trước khi đầu dây bên kia trả 
lời. Tôi nghe bà la oang oang bằng tiếng Việt :
    – Ê! Ông Ron đó hả! Ê ông có nghe không, Ron, Ron, Ron?!
    
Bà nói liên hồi, xăng xái. Bà bụm 
bàn tay trước ống nói mà hét lên, cũng không có tiếng trả lời. Tôi nhớ 
chúng ta thử lại nhiều lần, bà nhỉ. Nhưng không ai trả lời. Tôi an ủi:
    – Có lẽ ông đã đi đón bà, và đang chờ ngoài phi trường.
    
Sắp tới giờ bà phải lên máy bay, tôi
 cần được giải đáp vấn nạn lớn nhất rằng tại sao một con người ăn nói 
mộc mạc như bà lại có thể làm cho một người đàn ông lạ say mê cưới làm 
vợ. Và, mặc dầu bà thường kể ‘chả biểu, chả nói’, nhưng nói bằng ngôn 
ngữ gì? Suốt cuộc hành trình, tôi biết bà không hiểu một chữ tiếng Tây 
tiếng Mỹ, làm cách nào ông bà hiểu nhau, hiểu một cách thâm sâu như thế?
 Cụ thể nhất là có thiệt ông hẹn bà sang Phần-lan chuyến này? Và có chắc
 tất cả mọi truyện không bắt đầu từ một sự … hiểu lầm nào đó do bất đồng
 ngôn ngữ? Tôi hắng giặng hỏi:
    – Tôi hỏi không phải, ông bà nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt hay tiếng Phần-lan?
    Bà xăng xái:
    – Tiếng Việt mình, thằng chả có hiểu con mẹ gì.  Còn cái tiếng quỉ tiếng ma gì của chả, tui cũng đách hiểu.
    
Cũng hay. Nhờ không biết tiếng Việt,
 ông khỏi cần hiểu ‘con mẹ’ với ‘cái đách’ là gì. Có lẽ chỉ cần hiểu gật
 đầu là ‘có’ và lắc đầu là ‘không’ , hai tín hiệu mà nếu thông suốt, 
minh bạch, con người đỡ được bao nhiêu phiền trược trong cái biên giới u
 minh nửa không, nửa có, của ngôn ngữ. Tôi nghe nói bộ óc điện toán cũng
 chỉ biết ‘gật đầu’ và ‘lắc đầu’. Phương chi, con người, không phải chỉ 
có bộ óc, mà còn trái tim kỳ diệu. Điều này làm cho tôi, khi tiếng loa 
mời hành khách đi Helsinki vang lên, cảm thấy bớt áy náy. Cái gì làm cho
 một người đàn ông từ Helsinki sang tận bến đò Vĩnh Long gặp bà, thì 
cũng đang hướng dẫn bà từ Vĩnh Long sang Helsinki bình an.
    
Bà le te ra cổng số 39, tươm tất 
trong cái áo vét xanh đậm và quần tây thẳng nếp. Tôi đứng ngoài, bịn rịn
 nhìn theo, bà quay lại vẫy tay. Cái vẫy tay cũng không giống ai, bàn 
tay đưa ngang vai, lòng úp xuống, ngón tay phẩy phẩy ra phía ngoài, như 
giục tôi cứ đi đi. Cứ yên tâm.
Tâm Thanh
https://quocgiahanhchanhmd.com/