USA Video: Xem dân tình xếp hàng dài vài cây số xin visa Mỹ - VietBF
Sài Gòn 7.6.2024
DODUYNGOC
USA Video: Xem dân tình xếp hàng dài vài cây số xin visa Mỹ - VietBF
Đó là một thời kỳ lạ
xuất hiện sau năm 1975 ở miền Nam vì chưa bao giờ diễn ra như vậy. Cuộc sống
khó khăn ập đến, hiện diện mỗi ngày trong từng gia đình. Mọi nhu cầu đều phải
co lại, chỉ còn ưu tiên ăn và mặc.
Thời đó, sợ nhất là bị
trộm quần áo. Phơi đồ trên dây sát hàng rào luôn phải trông chừng không chút
nào ngơi vì có thể bị móc trộm. Nhà nào có được cái quần jean từ nước ngoài gửi
về mà bị mất là méo cả mặt. Loại quần này bận đến bạc phếch vẫn đẹp, rách vẫn
có thể tận dụng vải để may nón, túi xách, không bỏ chút gì. Áo sơ mi bận lâu bị
sờn cổ hay bị ố vàng vì mồ hôi, sẽ có người nhận lộn cổ áo lại nhìn như mới,
hoặc đem nhúng vào dương giấy cho có màu xanh lơ thay vì màu vàng cũ do giặt
bằng xà bông đá 65 phần dầu.
Vài cô thợ may nhận vá
mông quần của khách bị rách bằng những đường chỉ tạo thành hình vuông hay tròn
đồng tâm rất khéo, rất nhuyễn. Nhà nào trong nhà còn trữ đồ lính Việt Nam Cộng
Hòa do cha anh để lại thì rất may mắn cho mấy cậu con trai. Quần đem sửa lại
cho vừa, nhuộm đen, vừa đẹp vừa bền. Chỉ có điều bất tiện, khi giặt phải để
riêng, nếu không màu nhuộm sẽ loang ra quần áo khác, và khi ủi xong phải lau
mặt bàn ủi cho sạch màu đen.
Học trò đi học, sau
khi dùng nát mấy cái cặp da, cặp giả da từ mấy năm trước của cha anh bỏ lại,
giờ đi học bằng túi vải may từ vải bố. Anh nào giữ thói quen mang khăn mùi xoa
trong túi quần thì nhờ người thân cắt miếng vải vuông từ lưng áo cũ, may viền bốn
cạnh là có cái khăn lịch sự thỉnh thoảng móc ra chậm mồ hôi trên trán lấy le.
Ai giữ được vài xấp vải xoa Pháp, tergan hay dacron là yên tâm để nếu cần đem
ra may bận đám cưới, hoặc có thể bán ra mua gạo mà ăn.
Còn ăn uống thì có gì
ăn nấy từ số lương thực phân phối, là bột mì, bo bo, khoai mì, khoai lang... ăn
không nổi thì đem đổi gạo dù phải chịu thiệt. Mọi gia đình tìm đủ cách xoay xở
cho bữa cơm gia đình. Vai trò của phụ nữ trong nhà nổi lên, khi đàn ông vắng
nhà đi học tập cải tạo, hoặc thất nghiệp.
Những người đang bước
vào tuổi 60, ai cũng có câu chuyện của mình khi đã trải qua thời gian đó. Câu
chuyện của anh Hùng, bạn tôi trong một buổi họp mặt khiến mọi người như trở lại
thời mình mới hơn 10 tuổi mà dư vị của một thời quá đậm đà không quên được.
Hùng kể căn nhà của
anh ở Bà Quẹo lúc đó có tới 13 người,ba mẹ và các con.Trong đó, chỉ có vài
người anh chị của Hùng đi làm công nhân viên với lương và nhu yếu phẩm bèo bọt.
Ba đang lái xe buýt thì sau 1975 bị thất nghiệp vì không còn xăng. Má bán ngoài
chợ nhỏ, xoay xở đủ mọi cách để có bữa ăn cho 13 miệng ăn.
Chị của Hùng kể lúc ra
phía Lăng Cha Cả có gặp một chị bạn hồi trung học lang thang ngoài đó bán khoai
lang luộc, đi cùng một cô bạn. Chị ấy trước năm 1975 đang học đại học Luật, gia
đình sống trong cư xá dành cho sĩ quan cảnh sát ở Phú Nhuận. 2 chị đó đi bán mà
không ai mua, buồn tình đi ngắm chợ trời, ở đó có bán đủ thứ món của Sài Gòn tư
bản lấy ra từ các nhà người Mỹ bỏ đi trước ngày 30 tháng 4, hoặc chính người
trong nhà đem ra bán để đổi lấy gạo hay quần áo, có từ cái đồng hồ Nhật, Thụy
Sĩ đến tủ bàn ghế, máy Akai, dĩa hát, xe đạp, dụng cụ nhà bếp... Chị ấy kể
nhiều bữa phải ôm rổ khoai lang bán ế thất thểu ra về, bụng 2 chị em đói meo mà
không dám mua món gì để ăn.
Ở nhà Hùng, má xoay đủ
mọi cách để có bữa cơm tạm được cho cả nhà. Má mua đầu cá thác lác về kho với
nước dừa, ngon và béo ngậy, rất hao cơm. Hôm nào chị Hai mua được đầu tôm càng
về kho tàu (thân tôm để xuất khẩu) là càng tốn cơm với đám con đang lớn. May là
có vườn nhà bà Năm kế bên, hôm nào thiếu thức ăn chỉ cần làm tô nước mắm kho
quẹt, ra vườn hái mớ rau để chấm là đủ bữa cơm. Ngon nhất là rau càng cua, đem
vô rửa sạch trộn với dấm và trứng luộc xắt khoanh mỏng. Đến Tết, nấu được nồi
thịt kho thì bỏ vô nhiều đợt trứng cho thấm hết chất nước giàu đạm và béo, đến
khi cạn nước mới thôi.
Kế bên nhà của Hùng có
một khoảnh vườn nhỏ của bà Năm, người trong dòng họ. Bà Năm ở xa nên nhờ ba má
Hùng trông giùm khoảnh vườn này. Ở đó, má trồng bông huệ, bông vạn thọ đợi lớn
đem ra chợ bán, xoay đủ kiểu để kiếm tiền lo 3 bữa cơm. Ba không khỏe, các anh
chị lớn đều đi làm nên không thể khai thác được miếng vườn nhiều hơn. Vườn tược
trở nên hoang sơ, tối gió thổi lồng lộng vào nhà, đầy tiếng mèo hoang hơn chục
con kêu gào từ đó vọng vào.
Một hôm, Hùng vừa bước
vào bếp bỗng thấy cả đám mèo từ bên vườn dò dẫm bước qua gian bếp. Trong tủ
bếp, má để dĩa cá cho chị Hai đi làm ca về trễ ăn bữa cơm tối muộn. Hai ba con
mèo tinh quái dùng tay khều cái chốt tủ gạc-măng-giê, mở toang cửa và lôi con
cá ra thật nhanh. Hùng chạy tới thì cá đã bị mèo ngậm mang đi. Tối đó, ba và
mấy ông anh ngồi tính toán bàn với nhau. Mấy con mèo phá quá, kêu gào, ăn vụng
đủ thứ. Đang lúc khan hiếm chất đạm, thịt mèo cũng là loại thịt ăn được, thì
phải tính. Thế là vài hôm sau ông anh lớn mang về một cái bẫy bằng lưới kim
loại, nhìn giống bẫy chuột nhưng lớn hơn. Chỉ cần chút mồi là bắt được một con.
Mấy anh em xúm lại nhổ lông làm thịt. Món ragout, xào, rô ti... nấu bằng thịt
mèo khá ngon, thịt mèo ngọt, ăn ngon khi còn nóng. Có người hàng xóm còn qua
xin gan mèo về làm phá lấu ăn với bánh mì, cho con ăn chữa bệnh suyễn.
Đợt ăn thịt mèo hoang
đó diễn ra khoảng năm 1980. Anh em nhà Hùng ăn mấy đợt, lúc đầu thấy ngon miệng
nhưng ăn riết cũng ngán. Nhưng nhờ vậy cả nhà đỡ hốc hác vì thiếu dinh dưỡng.
Năm 1980, Hùng thi đậu vào đại học cũng nhờ ăn đủ chất, có sức thức khuya.
Cuộc sống có lúc như
vậy, nhưng khó khăn vẫn hoàn khó khăn. Một hôm, chị Hai của Hùng đi làm về đến
nhà, chở phía sau poọc ba ga xe đạp của chị 1 cái bao rất lớn nhưng có vẻ nhẹ
bổng. Mấy đứa em háo hức mở ra, ỉu xìu ngay vì trong đó chỉ là những cụm bông
gòn phế phẩm xỉn màu mà chị xin ở công ty Bạch Tuyết nơi làm việc. Chị Hai mỉm
cười, bảo để yên cho chị. Tối đó, chị giở tờ báo Khoa học Phổ thông mượn của ai
đó, cắm cúi đọc trong ánh đèn điện leo lét của những năm thời bao cấp, may là
hôm ấy điện không bị cúp.
Cuối tuần, chị Hai lần
dò sang vườn bà Năm kế bên nhà. Trên sàn xi măng, chị trải một lớp bông gòn
xuống và rắc một lớp meo nấm rơm mà chị đã mua sẵn. Cứ một lớp bông gòn lại đến
một lớp meo, xong dùng vải đậy lại cho kín. Đợi một thời gian, mở ra thấy một
lớp như màng nhện màu trắng nổi lên là biết thành công, chỉ đợi nấm chui ra.
Đến ngày rằm, chị thu hoạch nấm và đem ra chợ bán. Sau, không biết có ai chỉ,
vài người thương lái từ Chợ Lớn gặp chị và đề nghị cho đến nhà chọn nấm để mua.
Năm 1983, cả nước còn
ăn độn mà chị Hai làm nấm một vốn tới 6 lời, giá 1 ký nấm mắc hơn 1 ký
thịt. Nấm được người ta đưa đi bán nhiều lần, riết mà thành thương hiệu “Nấm Bà
Quẹo” một cách tự nhiên mà ai cũng biết là của chị. Bà con gần đó thấy làm ăn
được quá, đến xin học nghề. Chị Hai không trồng trực tiếp nữa mà chuyển sang
dạy nghề, bán meo, bán gòn. Hãng bông Bạch Tuyết biết chị Hai lấy bông gòn phế
phẩm làm meo nấm, làm ăn khá nên họ chỉ bán, không cho lấy nữa. Nhờ chuyện làm
nấm của chị mà cả nhà có một khoảng thời gian cả năm sống tươm tất hơn, bữa cơm
đỡ ăn độn và có thịt có cá.
Bây giờ nhớ lại, Hùng
bảo có cho vàng cũng không dám ăn thịt mèo. Nhưng câu chuyện một thời như vậy,
cần phải được nhớ và kể lại cho những thế hệ sau về cách cha anh họ đã tận dụng
mọi cách để tồn tại, đã vượt qua khốn khó thế nào...
Phạm Công Luận
(2) THỜI TẬN DỤNG… Phạm Công Luận Đó là... - Việt Luận - Viet's Herald | Facebook
Có một ngày nào đó, bạn
bỗng nhận ra mình đã già!
Đó là khi bạn không còn hứng thú với những thứ lòe loẹt, những
cảnh sắc rực rỡ, những nơi náo nhiệt và ồn ào thanh âm.
Già, là khi bạn thức dậy lúc 4 giờ sáng, chỉ để nghe tiếng gà gáy
ban mai và nằm đợi ánh bình minh lóe sáng sau rèm cửa…
Già, là tối tối pha một ấm trà vừa đủ đặc, bật đài nghe những bài
hát xưa cũ, đọc những cuốn sách cũ, chiêm nghiệm về cuộc đời, nửa gần nửa xa.
Già, là khi bạn thích lang thang trên đường phố một mình, thích
nhìn những bức tường loang lổ, những gốc cây rêu phong, những mái nhà cũ kỹ,
thích những quán cổ, bàn ghế phủ bụi, không gian mốc thếch và mặt người trầm tư
sau lớp sương thời gian.
Già, là khi bạn thích cảm giác được yên tĩnh một mình, chỉ một
mình chìm trong những hoài niệm. Dạo này, thường nhắc đến những chuyện cũ. Có
lẽ bởi thời gian đã gấp quá rồi!
Già, là khi bạn thấy mình ngày càng kiệm lời. Kiệm lời với chính
bản thân, nhiều khi nghe tiếng nói của mình vang lên cũng giật mình.
Già, là khi bạn bắt đầu tìm kiếm một nơi thật sự để đến, để sống
và cất giữ tuổi già. Không phải để an dưỡng mà là để tách khỏi những ồn ào, thị
phi.
Già, là khi bạn thôi không bận tâm những yêu thương, ghét bỏ, để
lòng mình tha thứ cho qua hết giận hờn, buông bỏ bớt những nhạt nhòa, nghi kị.
Chỉ giữ lại cho mình những niềm tin và đích đến, sống lặng lẽ và nhẹ nhàng, tự
do trong khoảng trời riêng của chính mình.
Già, là sống chỉ đủ cho mình, cho những người mình yêu, thế thôi…
Còn lại thì cứ như mây trời, lang bạt qua đời nhau, đã từng vui,
đã từng buồn rồi mỗi người đôi ngả. Năm tháng đã qua ấy, tôi gọi tên là thanh
xuân.
ĐẸP và HAY - Có một ngày nào đó, bạn bỗng chợt nhận ra mình...đã... | Facebook
Năm 1985, tại một ngôi làng yên tĩnh ở Đông Phi, một người đàn ông tên Daniel đứng chân đất với 3 cô con gái của mình. Vợ anh ta đã qua đời.
Nhà họ không có điện.
Có những đêm, bữa tối chỉ là rễ cây luộc và nước. Nhưng thứ họ có - thứ Daniel
luôn đảm bảo họ có - là lòng tự trọng.
Mỗi sáng trước khi mặt trời mọc, anh đánh thức các con gái và đưa chúng đi bộ hai dặm đến trường. Anh không thể tự đọc hoặc viết, nhưng anh ngồi bên ngoài lớp học mỗi ngày, chờ đợi trong bóng râm, chỉ để chúng không phải đi bộ về nhà một mình.
Đôi khi anh nhịn đói để chúng có thể mua bút chì.
Anh bán nhẫn cưới của mình để có tiền đóng lệ phí thi.
Anh làm 3 công việc trong mùa thu hoạch chỉ để mua sách giáo khoa cũ - nhiều trang bị mất.
Mọi người cười.
"Chúng là con gái
mà," họ nói.
"Chúng có tương lai gì chứ?"
Daniel không trả lời.
Anh chỉ tiếp tục đi bên cạnh chúng.
Nhiều năm trôi qua. Từng người một, họ tốt nghiệp.
Từng người một, họ
giành được học bổng.
Và từng người một...
họ vượt đại dương.
Năm 2025, 40 năm sau
bức ảnh đó, thế giới đã chứng kiến một điều không ai ngờ tới:
Một hình ảnh mới của cùng một người đàn ông, đứng hiên ngang—lần này là trước một bệnh viện—cùng 3 cô con gái, tất cả đều mặc áo blouse trắng.
Bác sĩ.
Tất cả bọn họ.
Khi được hỏi cảm thấy thế nào, Daniel đã khóc và thì thầm, "Tôi chưa bao giờ trao cho các con gái của tôi cả thế giới. Tôi chỉ không bao giờ để thế giới lấy đi hy vọng của chúng."
⸻
Ông trồng trọt bằng đôi tay, nhưng nuôi dưỡng những bác sĩ bằng trái tim.
Và trong cái bóng lặng
lẽ của một người đàn ông mà thế giới chưa từng biết đến, 3 cô gái đã đứng
lên... và thay đổi tất cả.
Lượm lặt
"Đời như giấc mộng, tình như ảo
Nào biết gì đâu, để đợi chờ".
"Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn"
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
"Mai về thăm lại ngôi trường cũ
Thăm bạn bè xưa tuổi học trò
Nhìn ai, chưa nói lời thương nhớ
Để lại ra đi chẳng hẹn hò."
Nguyên Nhung
Đến hôm nay là tròn đúng một tháng tui ở ẩn. Ở ẩn quanh quẩn trên chiếc giường vì bị cứng cơ lưng chứ không phải ẩn tu. Bởi tui không có căn tu, còn là phàm nhân, không đi tu nên làm gì có chuyện ẩn tu. Lý do là vì bịnh nên chẳng đi đâu được. Trong khoảng thời gian ấy, có một lần chống gậy đi họp mặt bạn bè mừng một người bạn từ xa về, ngồi gần hai tiếng về cái lưng đau nặng hơn nên sợ quá, cắm trại trăm phần trăm luôn. Nằm suốt tháng nhưng chẳng viết được chữ nào dù ngoài kia đang lắm chuyện xảy ra làm rung động cả xã hội và lòng cũng ngổn ngang trăm mối.
Thật ra cái lưng bắt đầu đau từ đầu tháng 4, âm ỉ thôi. Tui bị gout nên uống khá nhiều thuốc giảm đau nên rất sợ ảnh hưởng đến thận. Thấy đau lưng là lo nên đến bịnh viện Tâm Anh khám và xét nghiệm. Bác sĩ xem kết quả bảo thận chú còn rất tốt như tuổi năm mươi. Nghe cũng mừng, bớt một mối lo liền rủ người em thường gắn bó với tui qua nhiều chuyến đi ra Đà Nẵng chơi kết hợp gặp gỡ bạn bè thời trung học nhân ngày hội trường thường niên. Cận ngày, vé máy bay hiếm mà giá cao quá nên quyết định đi xe lửa. Đi rồi mới thấy đó là chọn lựa sai lầm. Thời gian đó chưa xuất hiện toa tàu du lịch Sài Gòn-Đà Nẵng như bây giờ nên chuyến đi có nhiều điều không vừa ý. Phòng thì cũng được nhưng phục vụ kém, căn tin bụi bặm, trang bị nghèo nàn và xập xệ, phòng vệ sinh chật hẹp và cáu bẩn, những chiếc xe bán hàng rao như thời bao cấp. Lại thêm cuộc hành trình kéo dài 18 tiếng đồng hồ lắc lư theo bánh xe nghiến trên đường tàu xình xịch chán ngắt. Đến nơi cái lưng lại đau nặng thêm nên đành trả vé tàu mua vé máy bay để trở vào dù giá quá xá đắt.
Về lại Sài Gòn được mấy tuần thì một đêm sau khi ngủ dậy tui không đứng lên được, cơ lưng đau như bị vọp bẻ, không chịu nổi. Khẩn cấp chạy vào Tâm Anh. Nhân viên bảo đau thế này không thể chờ khám được mà phải vào cấp cứu. Thế là vào cấp cứu. Trước tiên là phải đóng tiền, đương nhiên phải thế thôi. Sau đó là một loạt xét nghiệm, siêu âm, chụp hình, MRI... Riêng cái khoản MRI, tay bác sĩ trẻ báo 2 giá, nếu chờ chiều có kết quả thì hơn 3 triệu, nếu muốn có kết quả ngay thì hơn 4 triệu. Báo là thế nhưng anh ta khuyên nên chọn giá cao cho nhanh. Tui nói vừa xét nghiệm tuần trước cũng chính ở bịnh viện này nhưng người ta trả lời là chỉ cần ba ngày có thể kết quả đã thay đổi rồi nên cần xét nghiệm lại. Thì thôi, cũng đành chi tiền thôi. Tổng chi phí gần 9 triệu đồng.
Đến trưa thì tất cả đã có kết quả. Hai ba ông bác sĩ xem và bàn với nhau gọi là hội chẩn. Tay bác sĩ trẻ thông báo với tui là nghi có một loại virus nào đấy xâm nhập vào hệ thống cột sống của tui gây đau. Anh gợi ý đến bốn, năm lần là phải nằm viện khoảng ba tuần để xem con virus ấy là gì hầu có phác đồ điều trị. Anh ta ra giá luôn là ba tuần chi phí là 170 triệu chưa tính tiền phòng. Tui thấy hơi sai sai về cái vụ virus và thấy hơi khó chịu với vụ đề nghị nằm lại với giá cao như thế. Tui bực mình đề nghị xin về, anh ta lại khuyên tui nên ở lại chữa trị vài lần nữa nhưng tui cương quyết đòi về. Thế là anh ta bắt tui ký một cái giấy với nội dung BS đề nghị nội trú nhưng bịnh nhân đòi về nên bịnh viện hoàn toàn không chịu trách nhiệm. Nghĩ cũng lạ, bịnh tuy đau nhưng bảo là không nguy hiểm tính mạng sao về phải ký giấy cam đoan. Doạ người yếu bóng vía đến thế cơ à? Vào bịnh viện mới thấy người khó khăn dính bịnh là không cách gì xoay xở. Khâu nào cũng tiền, cái khẩu trang, bình diệt khuẩn, cái bao tay của y tá, bác sĩ xử dụng cũng tính thành tiền bắt người bịnh trả. Tốt nhất là đừng để phải vào chốn ấy. Nhưng cuộc đời mà, sinh lão bịnh tử, bịnh như một quy luật khó tránh nên vào viện người ta tha hồ thu tiền mà chẳng thấy cảm thông khó khăn của người bịnh và bịnh nhân cũng chẳng bao giờ dám kêu ca, trả giá.
Về nhà, lê lết trên giường, nghĩ nhiều chuyện. Từ chuyện nhân tình thế thái đến chuyện phận số. Những thước phim của những đoạn đời được nhớ lại, nghĩ về những người đã qua cuộc đời mình và giờ nằm cô độc ở đây. Chờ đợi một lời thăm hỏi, một tin nhắn để lấy đó làm an ủi. Xem lại nhiều hình ảnh để nhớ về một thuở nào đó trong cuộc đời. Quẩn quanh với nhiều ý nghĩ. Nhìn ra những điều tốt đẹp của một người đầu trần chân đất đang đi trên con đường thiên lý. Nghiệm ra những luẩn quẩn của một kiếp nhân sinh. Cố lạc quan nhưng toàn bi quan trong ý nghĩ. Cố nén những cơn đau nhưng nó vẫn hiện diện ở thân thể, cũng đành chấp nhận thôi. Vui còn chia cho người, đau làm sao để sẻ cho ai?
Hằng ngày vẫn có thầy thuốc ở Bệnh viện Y học Dân tộc đến châm cứu, chạy điện, bó thuốc, thuỷ châm. Đã qua một tháng, lưng đau đã có phần thuyên giảm, mong sẽ trở lại bình thường để gặp gỡ bạn bè, để viết vài trang tào lao cho cuộc đời thêm tươi. Rất mong.
Bài viết này như là để trả lời mọi người cứ thắc mắc sao lâu rồi không thấy tui viết gì. Cảm ơn những tin nhắn, những lời thăm hỏi của bạn bè, những người thân quen và của những người tuy chưa gặp mặt nhưng có quan tâm đến tui. Xin cảm ơn.
Sài Gòn 7.6.2024
DODUYNGOC
Trong bộ luật này bao
gồm rất nhiều các tiết mục khác nhau, nhưng ở đây chúng tôi chỉ muốn đề cập đến
tiết mục ly dị (Divorce) và trong tiết mục ly dị này, có kèm theo 2 tiểu mục:
Thứ nhất là tiền trợ cấp cho vợ (Alimony). Thứ nhì là tiền trợ cấp cho con cái
(Child Support).
Trước tiên, theo Đạo
Luật Canh Cải Gia Đình mang số 43, đoạn 101, của Tiểu Bang Oklahoma nói riêng,
có liệt kê các nguyên lý căn bản (Grounds for Divorce), là những bằng cớ pháp
lý, để đệ đơn xin Tòa cứu xét và ban bố bản án ly dị như sau:
Đối với những ông chồng
nào có tiền của và có công ăn việc làm lương cao, sẽ cảm thấy ớn lạnh xương
sống, nếu đặt trường hợp mình phải ly dị vợ hoặc bị vợ ly dị mình, đều phải
lãnh nhận nhiều những hậu quả đau thương, vừa về tinh thần lẫn vật chất, có trường
hợp gần như muốn tắt thở về vấn đề trợ cấp tài chánh cho người vợ theo phán
quyết của Tòa.
Vì có những trường hợp
người chồng phải trợ cấp tài chánh cho người vợ (Alimony) cho tới khi nào người
vợ chính thức làm hôn thú với người chồng khác, thì tiền trợ cấp hàng tháng mới
được Tòa cho phép bãi bỏ, còn nếu người vợ có tình nhân đang sống chung với
nhau trong một nhà như đôi bạn tri kỷ, không làm giấy hôn thú với nhau, thì
tiền trợ cấp cho người vợ vẫn phải tiếp tục như thường lệ.
Chính vì sự thiếu công
bằng này, không hợp tình hợp lý, đã đưa đến sự bất mãn, vượt quá sức chịu đựng
đau khổ của người chồng, gây ra biết bao nhiêu những thảm trạng đau thương, làm
người chồng tức giận, dùng súng bắn chết tình nhân của vợ, bắn chết vợ, rồi quay
mũi súng vào đầu mình tự sát, hoặc có những trường hợp khác đã xẩy ra, người
chồng nhìn thấy tận mắt, cảnh tượng chướng tai gai mắt, vợ cũ của mình đang du
hí vui vẻ bên tình nhân trong căn nhà cũ của mình mua trước khi ly dị, trong
khi chính mình phải đi làm việc vất vả mỗi ngày, để có đủ tiền trợ cấp cho
người vợ, theo đúng án lệnh của Tòa quy định trong bản án ly dị, nhưng trong
một lúc tức giận mất khôn, ngay tức khắc, người chồng bỏ luôn việc làm
lương cao của mình đang làm, để trở thành kẻ thất nghiệp, không lợi tức gì hết,
để khỏi phải tiếp tục trợ cấp tài chánh cho người vợ hàng tháng và như thế người
vợ sẽ không còn có khả năng tài chánh đầy đủ như trước, để ngồi chơi xơi nước,
vui hưởng hạnh phúc bên tình nhân.
Phải công tâm để nhận
thức ra rằng điều này rất hợp tình hợp lý, người mẹ được Tòa giao trách nhiệm
dạy dỗ nuôi nấng con cái thay cho người Cha, thì người Cha cũng phải có bổn
phận cung cấp tài chánh cho người Mẹ, để người Mẹ có đủ phương tiện vật chất,
ngõ hầu chu toàn việc nuôi nấng dạy dỗ con cái cho nên người.
Nhưng thật đáng tiếc, đã có một số trường hợp xảy ra, mặc dầu có công ăn việc làm với lương bỗng khá cao, để người Cha có thể cấp dưỡng cho con cái hàng tháng, theo đúng số tiền quy định mà Tòa đã phán quyết. Nhưng vì bản chất là người thiếu trách nhiệm đối với con cái nên đã có những người Cha không chịu thi hành nghiêm chỉnh lệnh phán của Tòa, làm cho người Mẹ không đủ khả năng tài chánh để tiếp tục nuôi dưỡng con cái, nên bắt buộc người Mẹ phải đi tố cáo sự việc xẩy ra với chính quyền, để nhờ chính quyền can thiệp và giải quyết nội vụ.
Cách đây gần 2 tuần lễ,
chúng tôi nhận được thư của 3 người yêu cầu chúng tôi vào trại tạm giam (Jail),
để thăm viếng họ đang bị giam giữ tại đây, gồm có 2 người Mỹ và 1 người Việt
Nam. Người thứ nhất cho chúng tôi biết khi Tòa tuyên án 1 năm tù ở, vì không
trợ cấp tiền nuôi dưỡng con cái trong 4 tháng liên tiếp. Người thứ nhì lãnh án
tù 6 tháng vì đã hơn 1 tháng không trợ cấp tiền nuôi dưỡng con cái. Cả hai
người này đều cho chúng tôi biết là họ bị thất nghiệp cả mấy tháng nay, nên
không gửi tiền trợ cấp cho con cái, nhưng Tòa vẫn phán quyết hai bản án tù ở
như vừa kể trên.
Người thứ ba là Việt
Nam, cho chúng tôi biết là mới chậm trễ có 5 ngày, chưa kịp gửi tiền trợ cấp,
thì bị vợ đi tố cáo với chính quyền, nên anh bị lãnh 3 tháng tù ở. Anh tỏ ra
buồn rầu và than phiền với chúng tôi rằng, vợ anh quá độc ác, không cho anh có
cơ hội để được tự do vui hưởng những ngày Tết Nguyên Đán với 3 đứa con nhỏ của
anh, đứa lớn nhất mới 9 tuổi, đứa thứ nhì 6 tuổi và đứa thứ ba 4 tuổi và với
bạn bè bà con thân thuộc của anh, vì chỉ còn hơn một tháng nữa là Năm Mới đến
và anh nhờ chúng tôi hãy thuật lại những điều anh nói cho vợ của anh nghe.
Thể theo lời yêu cầu của
anh, chúng tôi có điện thoại thuật lại cho người vợ anh nghe lại những điều gì
mà anh đã tâm sự với chúng tôi ở trong trại giam, thì được người vợ của anh cho
chúng tôi biết, cách đây 4 năm, khi chị sanh đứa con út mới được 1 năm, thì
chồng chị bỏ bê vợ con, cặp bồ với 1 cô gái Mỹ, tóc bạch kim, ăn mặc như tài tử
và trẻ hơn chị 7, 8 tuổi, ít lâu sau, chị biết được cô gái này có bầu với chồng
của chị, nên chị quyết định đành nhờ một luật sư đưa nội vụ ra Tòa ly dị anh. Chị
cho biết đây không phải là lần thứ nhất anh trễ gửi tiền trợ cấp cho con, mà đã
xẩy ra nhiều lần lắm rồi, có khi 2 hoặc 3 tháng anh không gửi cho con cái một
đồng nào hết, trong khi chị biết rõ 100% chồng chị nhận lãnh những công việc
làm được trả lương bằng tiền mặt và công việc làm gạt ra không hết. Chính
vì vậy mà lần này chị cần phải tố cáo với chính quyền, để phía công lý dạy cho
anh một bài học đích đáng nhớ đời, là phải có trách nhiệm của một người Cha đối
với con cái khi chúng còn thơ dại, đang cần sự giúp đỡ về tinh thần lẫn vật
chất của người Cha, rồi chị đọc cho chúng tôi nghe 2 câu thơ, thay vì 2 câu thơ
này làm chúng tôi nhớ lại, vẫn thường nghe thấy người ta ngâm 2 câu thơ này
theo giọng Miền Nam một cách oai oán, vọng lên từ trong những khu hẻm xóm nghèo
lao động, trước ngày mất nước như sau:
Gió Đưa Bụi Chuối Sau Hè,
Tuyết Rơi Trắng Xóa Mái Nhà,
Anh Mê Bồ Mỹ Nếm Mùi Cô Đơn.
Chị liền giải thích thêm
cho chúng tôi hiểu ý ngầm của chị, muốn nhắn nhủ anh ấy rằng: Bây giờ đang là
mùa đông giá lạnh, tuyết sắp rơi xuống bao phủ mặt đất, làm tăng nhiệt độ giá
lạnh ngoài trời cũng như làm tăng thêm sự cảm giác lạnh lẽo trong lòng những
người cô đơn, chẳng hạn như trường hợp của anh ấy đang nếm mùi cô đơn ở trong
tù, vì phải xa lìa cô bồ tóc bạch kim, mà anh ấy đã say mê cô này, đến độ
từ bỏ người vợ chỉ biết một lòng chung thủy với chồng và con, nhẫn tâm hơn thể
nữa, là bỏ rơi 3 đứa con thơ dại, không hề nói với các con một lời từ biệt
thương tiếc trước khi anh bỏ nhà ra đi, để cho chúng nó ngày nay trở thành
những đứa con mồ côi Cha, trên xứ lạ quê người.
Sau hết, chị nhờ chúng tôi gửi đến anh một thông điệp mang đầy ý nghĩa của chị là: Theo luật bù trừ của Tạo Hóa để lại cho loài người từ ngàn xưa đến nay, hễ có vay thì phải có trả; hễ gieo gió thì phải gặt bão, vì đó là hậu quả thường tình trên thế gian này. Vậy chị xin anh ấy đừng trách chị là kẻ độc ác, mà chính anh ấy mới là kẻ độc ác hơn ai hết.
Phó Tế Nguyễn Mạnh
San
27/07/2025
Năm 1971, trong một dịp vào Sài Gòn chấm thi tại
trường Gia Long, tôi có dịp quen biết với một cặp vợ chồng người Nam, quê ở Cần
Thơ. Vì biết là người Huế, lại đang dạy học ở vùng giới tuyến Đông Hà-Quảng
Trị, nên anh chị đã dành cho tôi mối cảm tình đặc biệt của người lính văn phòng
dành cho người lính đồn xa. Dù chưa ra Huế lần nào nhưng sự hiểu biết của cặp
vợ chồng nầy về Huế khá sâu sắc và tỉ mỉ như cách nhìn của một nhà khảo cổ nhìn
lại thời xa xưa qua sách vở. Một trong những mong ước của anh chị là một ngày
nào đó được ra thăm Huế.
Tôi mời anh chị mùa Hè năm sau ra Huế ở lại với gia đình tôi chơi để làm một chuyến du lịch vùng đất có nhiều vui buồn đầy huyền thoại nầy.
Lau hơn một tuần chu du hết các thắng
cảnh, lăng tẩm, chùa chiền, núi rừng, sông biển của Huế, hai ngày trước khi rời
Huế về lại Cần Thơ, anh chồng kéo riêng tôi ra quán cà phê, nhìn trước nhìn sau
để yên chí là không có tai vách mạch rừng rồi mới trầm giọng nói nhỏ vào tai
tôi:
– Mình muốn cậu cho mình biết cái “dzụ”
đó.
Tôi nhớn nhác chưa rõ chuyện gì, thì
thào hỏi lại:
– Cái “dzụ” gì vậy anh?
Anh trả lời hơi lắp bắp:
– Thì, thì… cái “dzụ”… ngủ đò ấy mà!
– Tôi vỗ đùi cười ngặt nghẽo:
– Chuyện dễ ợt nằm trong lòng bàn tay,
muốn lúc nào cũng đuợc mà anh làm tôi hết hồn.
Anh đỏ mặt nói như phân bua:
– Thì tụi mình là nhà giáo với nhau,
mình sợ mang tiếng rồi thì khó lên lớp lắm. Bởi vậy mình rất tò mò muốn biết
“ngủ đò” nó như thế nào, nhưng lại rất ngại làm phiền cậu.
Vì nể bạn, tôi trả lời hăng tiết vịt
cho có vẻ mình là dân lịch lãm ở quê hương mình, nhưng thật sự trong bụng cũng
cảm thấy hơi “ớn lạnh” khi nghĩ tới chuyện ngủ đò.
Hàng ngày tôi vẫn đi qua con đường Hàng Bè, có tên Huỳnh Thúc Kháng, nhưng ít khi dám ngó thẳng xuống những dãy đò đậu san sát dưới sông. Nhiều lần đi về khuya qua con đường Hàng Bè nầy, thường khi tôi cố giả câm giả điếc trước những lần các bà mối lái lôi kéo và mời gọi “Đò cậu !?” trên bến nước Tầm Dương canh khuya đưa khách nầy. Cái xứ Huế nhỏ bé “trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã hay” lại mang nghiệp dĩ làm nhà mô phạm mà được gắn nhãn hiệu “Thầy nớ ngủ đò” thì sự nghiệp quân sư phụ theo chân đức Khổng Tử sẽ theo đò dọc mà trôi xuôi về biển.
Sau khi nói cứng với anh bạn ở quán cà
phê, tôi bỗng thấy lo cồn cào ruột gan. Việc đầu tiên là phóng xe một mình
xuống Bao Vinh, tìm người bạn thân lớn tuổi có biệt danh nghe như hiệp khách
hành là Phó Biên Thùy để vấn kế. Anh nổi tiếng một thời ngang dọc trong giới ăn
chơi biết trọng nghĩa khinh tài ở Huế. Nghe hết nỗi lòng thao thức của tôi, lại
đến lượt anh cười dòn tan. Tôi vái thầm là nụ cười dễ dãi của Thùy không phải
là nụ cười xã giao thiếu thực tế chiến trường của tôi. Thùy hỏi một câu quá “hiện
đại” làm tôi hơi ngỡ ngàng:
– Rứa bạn cậu muốn ngủ đò mà “ngủ chay” hay “ngủ mặn”?
Tôi đang còn quờ quạng thì Thùy giải
thích:
– Ngủ đò chay là thuê đò du lịch trên
sông Hương để sinh hoạt bạn bè, văn nghệ, văn gừng với nhau cho vui. Còn ngủ đò
mặn cũng là giong đò trên sông Hương, nhưng lại sinh họat ong bướm với những
nàng Kiều sông Hương.
Tôi hỏi đùa:
– Nếu người ta thích cả “vào chay ra
mặn” có được không?
Thùy trả lời thật tình:
– Trường hợp tất cả khách đi đò đều là
đàn ông thì chẳng có chi trở ngại, ai thích mục nào làm mục đó, nhưng nếu có
phụ nữ thì bắt buộc phải ngủ chay.
Tôi liền cậy Thùy làm quân sư trong
biến cố ngủ đò tổ chức cho người bạn. Theo sự cố vấn của Thùy, tôi về nhà và
mời cả hai vợ chồng người bạn ra nói chuyện.
Khi tôi mở lời đề nghị mời cả hai vợ
chồng người bạn đi ngủ đò, anh chồng mặt tái xanh không biết vì sợ hay vì giận.
Anh nhìn tôi một cách nghiêm khắc nửa như hối hận, nửa như trách móc, hỏi bằng
một gịọng rất xa lạ và lạnh lùng:
– Xin lỗi anh, anh cho chúng tôi là
hạng người nào…?
Chị vợ mím môi, vòng tay trước ngực, mắt trống không nhìn bất động vào một cõi xa xăm nào đó để biểu lộ sự thất vọng vì bị xúc phạm.
Tôi hơi lúng túng vì sự hiểu lầm có vẻ quá nghiêm trọng thì Thùy đã xuề xòa, cái xuề xòa của một tay từng trãi với đời đã làm cho không khí bớt ngột ngạt. Thùy đã dem hình ảnh những cuộc du thuyền rồng của giới vua quan và các sứ giả ngoại quốc trên sông Hương ngày xưa làm vũ khí dẫn giải. Lịch sử ngủ đò trên sông Hương bắt nguồn từ thú chơi tao nhã của hàng mặc khách tao nhân. Đò chứa dầy trăng và chở đầy hương hoa của thơ và nhạc. Nếu có chăng những chén rượu nồng và những trao gởi đầu mày cuối mắt thì cũng chỉ là những sương khói nhẹ nhàng kiểu tài tử giai nhân. Nước sông Hương, do đó, còn được gọi là nguồn “Tiêu Kim Thủy” – ngàn vàng chuốc môt trận cười. Nhưng rồi mỗi nước non đều có một “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Chuyện ngủ đò trên sông Sông Hưong cũng thế, cũng có một thời tuổi trẻ và một thời tuổi già; một thời để yêu và một thời để chết. Sông Hương đã trút áo hào hoa để sống còn qua những cơn tai biến của lịch sử, để hòa điệu sống giữa chợ đời đầy cát bụi. Cái thanh và cái thô của Huế bao giờ cũng có sẵn. Thanh hay thô là do kẻ đi tìm…
Thùy đã mô tả hết cái thanh và cái tục
trong chuyện ngủ đò để thuyết phục cặp vợ chồng bạn tôi vui vẻ chấp nhận lời
mời đi “ngủ đò” ngay chiều hôm đó.
Chiếc đò khách có mui, lòng rộng hơn hai thước cặp bến Thừa Phủ vào buổi chiều nắng sắp tắt. Thùy đã tế nhị mời thêm hai cặp vợ chồng yêu thích văn nghệ cùng đi và anh cũng đã khéo léo cho đò cặp vào bến Thừa Phủ thay vì bến Gia Hội hay Phu Văn Lâu vốn là những điểm nóng của khách “giang hồ ngủ mặn” để khỏi bị nhòm ngó. Cặp vợ chồng bạn tôi tỏ vẻ căng thẳng và hồi hộp thấy rõ với những giòng mồ hôi chảy dài trên má. Cả hai e dè bước xuống thuyền như một sự phó mặc cho số phận an bài.
Đến khi thuyền ra giữa sông như cánh chim bằng đã cỡi mây vùng vẫy ra ngoài bốn bể thì cái cảm giác “ngủ đò” mới bắt đầu lắng xuống. Giữa lòng sông chiều nghe sóng vỗ mạn thuyền róc rách với sức đẩy của gió Nồm từ Thuận An lên tự nhiên cái cảm giác trần tục từ từ nhường lại cho sự thanh khiết và lắng đọng trong mỗi con người. Thuyền hướng về phía cầu Bạch Hổ. Nhìn phía lái, o lái đò tóc lộng gió chiều che nghiêng khuôn mặt trông như một người mẩu làm phông cho cầu Trường Tiền. Một phần nhỏ cầu Trường Tiền còn hoe nắng giống chiếc lược ngà cài trên mái tóc sông Hương. Cầu Bạch Hổ thô và đen sậm có vẻ như hiện thân của sự thách đố với nắng gió và thời gian. Bên nầy là Thương Bạc, Phu Văn Lâu với cột cờ Thành Nội sừng sững không biết uốn cong mình trước những cuồng phong của lịch sử nên đã mang đầy mình những vết tích tang thương. Bên kia là bia Quốc Học-Đồng Khánh và con đường áo trắng ngây ngất biết bao nhiêu kỷ niệm học trò đầy tiếng cười và tiếng thút thít dấu giữa khăn mù soa thêu hoa tím của gặp gỡ và chia xa thời tuổi dại.
Cặp vợ chồng miền Nam ngồi sát vai nhau
cho khỏi lạnh. Ngồi cạnh mũi thuyền, cả hai lặng im, mở to mắt, căng buồng phổi
để tận hưởng buổi chiều trên sông Hương. Tôi thấy Thùy nhìn họ, không nói, nháy
mắt mỉm cười. Cặp vợ chồng nhìn lại với ánh mắt trẻ thơ mà trang trọng, tôi
nghe cả hai cùng mấp máy: “Cám ơn anh!”.
Chiếc đò bềnh bồng nương gió chiều lướt
êm trên giòng sông Hương đang đổi từ màu xanh lam buổi chiều sang màu tím nhạt
hoàng hôn và màu vàng lụa dưới ánh trăng con gái e ấp bên kia sông. Hai bên bờ,
nhà cửa chìm khuất sau những bức tường cây giờ đã đổi sang màu đen thăm thẳm
huyền bí. Đọt dừa, đọt cau và tàng cây cao vút vẽ hoa văn cho nền trời bàng bạc
khói sương. Trăng dát vàng trên sóng nước và kết ngọc cả giòng sông. Khi thuyền
đến nhánh sông chia ba gần chùa Thiên Mụ thì sông nước và làng mạc, ruộng đồng
đã tắm ngập cả trăng. Khói sương, cây lá, lưng sóng và tóc mây đều choáng ngợp
ánh trăng vàng lung linh huyền ảo.
Giữa thanh vắng vô cùng con người bỗng cảm thấy cái tôi của mình tan loãng để hòa vào cái “đại ngã” của thiên nhiên. Mọi người trong đò hình như đang quên chiếc đò và giòng sông để nói với nhau thật nhiều trong thinh lặng cho đến khi người chủ đò từ đằng lái bước tới, nói với khách bằng ngôn ngữ hiện thực của con người:
-Xin quý khách cho biết là muốn neo đò
ở đây hay chèo lên ngã điện Hòn Chén.
Thùy hỏi ý kiến chung và quyết định
hướng đò lên ngã thượng nguồn sông Hương. Đò chèo quanh như lưu luyến vùng sông
nước xanh đen mượt trước chùa Thiên Mụ như có một chút gì tiếc nuối hương xưa
rồi quay mũi hướng về phía núi Bãng Lãng. Anh bạn người Nam hỏi Thùy:
– Tôi đọc sử nghe nói Chùa Thiên Mụ là do Nguyễn Hoàng – mà người đương thời gọi là chúa Tiên, cho khởi công xây dựng từ năm 1601 phải không anh? Được đứng trước một di tích lịch sử gần 4 thế kỷ mà vẫn còn nguyên vẹn như thế kia, tôi cảm thấy xúc động và ngưỡng phục người xưa vô cùng.
Thùy giải thích thêm:
– Theo tương truyền thì khi xưa, ban đêm có người trông thấy một bà lão mặc áo đỏ quần xanh ngồi trên gò Hà Khê, tức là vùng đất cao của chùa Thiên Mụ ngay trước mặt chúng ta đây, nói rằng:”Rồi đây sẽ có một vị chúa dân tới nơi này để dựng chùa, đặng tụ linh khí và củng cố long mạch”. Nói xong bà lão biến mất nên dân chúng bèn gọi gò Hà Khê là núi Thiên Mụ. Khi chúa Tiên đặt chân tới gò Hà Khê thấy cảnh trí hùng vĩ, trước có sông, sau có hồ, xa xa có núi. Cảm kích trước cảnh non sông cẩm tú, trước khi quyết định dời đô về đất Thuận Hóa, chúa cho xây một ngôi chùa trên gò Hà Khê lấy tên là Thiên Mụ Tự, đó là chùa Thiên Mụ ngày nay.
Người chủ đò cho biết nếu chỉ chèo tay
mà không dùng động cơ gắn sẵn trên đò thì ít nhất cũng mất hai giờ nữa mới đến
nhánh sông điện Hòn Chén. Thùy đề nghị là lúc về sẽ dùng đến máy, nhưng vòng
lên chỉ nên chèo tay. Rốt cuộc dư vang của sóng nước sông đêm vẫn nghe vỗ vào
mạn thuyền xao xác và tiếng chèo khua nước vẫn nhè nhẹ chẻ nước để thuyền đi
trong đêm trăng. Một người bạn của Thùy bắt đầu thổi sáo. Tiếng sáo dìu dặt
nương theo hòa âm của đất trời đủ sức lay động lòng người. Những người trong đò
bắt đầu ngâm thơ và hát những bài tình ca hay nhất của mình. Cặp vợ chồng miền
Nam cùng hát dân ca điệu lý con sáo, rồi lý cây bông như thơ của Kim Tuấn:
Em nhớ chàng em hát lý cây bông
Như
con sông con nước ròng con nước nổi
Em thương anh và nhớ anh quá
đỗi…
Như cây lục bình quấn quít
giòng sông…
Anh thương em sao anh
“hổng”tới
Để em buồn em hát lý cây
bông…
Cô lái đò chừng như cũng
hòa vui với điệu hát câu hò ngồ ngộ nhưng đầy cảm xúc của khách bỗng cất tiếng
hò dìu dặt theo nhịp với mái chèo. Tiêng hát cất lên từ sau lái mang âm vang
thanh thoát của người lĩnh xướng:
Ơ hơ…ơ ơ cầu Trường Tiền sáu
vài mười hai nhịp
(Chớ) em qua không kịp (mà)
tội lắm anh ơi à…ớ… ơ…ờ
Ơ hơ…ơ ơ… (Chơ) thà rằng
không biết thì thôi
(Chớ) biết rồi mỗi đứa
(ư…à…) ơ hờ…hớ mà… mỗi nơi ớ hơ a à… cũng
(ứ… a…) buồn…!
Tiếng hò vút cao, lững lờ rơi dần xuống thấp, rồi im bặt… Cũng buồn! Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn. Có lẽ nguồn tình cảm miên man rất lãng mạn kiểu Huế nằm trong tiếng “cũng”. Cái “cũng… buồn” rất e dè nhưng cũng rất nũng nịu thâm cung của cô gái Huế có nghĩa là níu kéo, là sẽ tương tư, là hào phóng một cách “tình cho đi ai lấy lại bao giờ”. Tất cả những người khách có mặt trong đò đều khẩn khoản yêu cầu cô lái đò hò thêm bài nữa nhưng vẫn hoàn toàn im lặng, cái im lặng bất thường của một tâm hồn sôi nổi thường có vẻ ghê ghê như cây cối mới theo gió vật vờ bỗng đứng yên giữa vùng tâm bão. Cô lái chỉ tay về mé sông bên kia với một vùng cây cối thâm u, đen kịt trong đêm. Giọng cô nói như rì rào với gió :
“Điện Hòn Chèn thờ Bà Chúa đó. Ngài thiêng lắm. Ai hò hay hát giỏi, Ngài ưng ý, ‘bắt lính’ âm binh rồi thì hết đường chạy chữa, chỉ có nước đem chôn thôi”. Nghe giọng nói nghiêm trang như con chiên ngoan đạo của cô lái, khách trên đò cũng cảm thấy phảng phất một chút sương mờ “ớn lạnh” nên chưa ai tiếp tục cuộc chơi “để em buồn em hát lý cây bông”. Cặp vợ chồng Nam Bộ xích lại gần nhau thêm chút nữa chừng như để che chở cho nhau mà trốn lính âm binh… Bỗng Phó Biên Thùy cất tiếng cười dòn tan như cốm bắp An Thuận, tiếng cười không chờ đợi và đúng lúc có mãnh lực an ủi chúng sinh trên đò như nhà pháp sư trừ ma ếm quỷ. Thùy chỉ tay về phía bờ sông bên kia, nơi có lùm cây cao nhô lên, nổi bật giữa lằn chân trời cây đen thẩm, giải thích:
– Đó là Điện Hòn Chén, tên chữ là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc). Đây là đền thờ Nữ thần Thiên Y A Na, vốn là một nữ thần Chàm. Theo Đào Thái Hanh trong Bulletin des amis du vieux Hué; xuất bản năm 1914 mà thời đi học, tôi đọc lóm được của Ba tôi thì Thiên Y giáng trần qua bóng dáng của một thiếu nữ đẹp huyền diệu và vào đời qua một câu chuyện tình thần tiên vương giả. Rồi cũng như những câu chuyện tình buồn của Huế, nữ thần cũng ra đi trong nước mắt. Nhưng cái mê hoặc của trần gian đau khổ nầy nó lạ lắm. Nó vẫn còn mãi níu kéo nữ thần vương vân với cuộc đời để ban bố bao nhiêu là phép lạ cho con người. Vì vậy, trong niên hiệu đầu, vua Gia Long ban cho nữ thần chức tước “Thần tối cao và ơn đức vô biên, ban phước lành khắp mọi nơi đầy linh hiển” .
Thế nhưng, khoảng hai năm trước, tôi có dịp tham gia vào đoàn rước lễ của Thiên Tiên Thánh Giáo Huế, hành hương bằng thuyền trên sông Hương từ Điện Hòn Chén về Bãi Dâu với đoàn thuyền có đủ cờ quạt, lọng tàn, lễ nghi rực rỡ đầy màu sắc thì lại được nghe một vị chức sắc cho biết đây là nơi thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh. Nguyên bà là con gái thứ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, giáng trần vào rằm tháng Tám năm 1557 đời Mạc Phúc nguyên tại Vụ Bản, tên Giáng Tiên.
Người tiên giáng phàm nhưng vẫn không thoát khỏi nợ tình với Trần Đào Lang. Và rồi cũng như Thánh nữ Thiên Y A Na, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được về lại cõi trời năm hai mươi mốt tuổi, nhưng vẫn yêu cảnh trần gian nên đành xin Ngọc Hoàng trở lại… với nhiều phép lạ giúp dân lành nên đã trở thành một trong Tứ Bất Tử của dân tộc Việt Nam: Phù Đổng, Chữ Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh và Liễu Hạnh. Bà Chúa Liễu Hạnh đã được sùng kính tôn thờ như một tín ngưỡng dân gian lan rộng khắp nơi, từ Phủ Giày Nam Định, tới chùa Thiên Minh Lạng Sơn, vào đền Sòng Thanh Hóa, ra Tây Hồ Thăng Long, vào Sóc Hương Nghệ An… trước khi giáng phàm chỉ đường cho chúa Nguyễn dựng nghiệp ở Đàng Trong và xây dựng dinh cơ ở Huế. Vua nhà Nguyễn đã sắc phong cho bà chúa là “Thượng Đẳng Tối Linh Thần”
Theo nguồn tin dân gian
truyền khẩu tại Huế thì bà chúa Điện Hòn Chén hết sức linh hiển. Đã có rất
nhiều người buôn bán xuôi ngược trên sông Hương đã bị “bắt lính” vì có tài hát
hò. Một số khác bị bà chúa “vật chết tươi” vì có thái độ bất kính khi đò chèo
ngang qua Điện Hòn Chén. Năm Tự Đức thứ 15, nhà vua cảm thương bá tánh vô tội
bị chết oan nên đã đích thân lên Điện Hòn Chén đeo chuỗi hột bồ đề vào cổ bức
tượng của bà chúa Liễu Hạnh và khuyên bà chúa hãy tu hành. Từ đó, bà chúa không
còn linh hiển như xưa nữa.
Người kể chuyện im lặng, rồi trầm giọng đọc thơ với một chút cười buồn:
Mắt nữ thánh cũng sầu xanh
soi bóng
Hương Giang ơi! Sao sóng lục
vô chừng.
Phó Biên Thùy lại cất cao
giọng nói như đọc sớ trên sông:
– Xin van vái bà Chúa, nếu
tối nay bà bắt lính, Thùy tôi xin tình nguyện đi ngay, đừng bắt ai khác tội
ngiệp. Thùy nầy vốn ca xướng không hay nhưng được cái độc thân, vui tính.
“Dương binh” được xếp loại hai, nếu vô “âm binh” xin bà xếp cho loại ba, lọai
bốn chi cũng được…!
Hình như lên tinh thần vì vui lây cái tinh thần hài hước của Thùy hay vì đã có người tình nguyện “chết” thay cho mình nên từ chủ đến khách trên đò đều lấy lại được cái vui hồn nhiên “giã gạo dưới trăng” tưởng như đã bị thần linh ném giữa giòng sông.
Cái
đẹp của vùng thượng nguồn sông Hương trong đêm là vẻ đẹp huyền bí của Nghìn Lẻ
Một Đêm vì nó mênh mông và êm ả quá, nhưng trong từng giọt sương, từng mảnh
trăng tan trên mặt sóng, từng tiếng vỗ cánh của bầy vạc ăn đêm và tiếng xao xác
của lau lách đều mang ít nhiều huyền thoại của Cố Đô với dư vang của những dấu
oai linh hiển hách một thời vang bóng.
Chị
bạn người Nam bỗng thở mạnh, hít thật sâu và reo lên như vừa khám pha ra một
điều gì mới lạ:
– Thấy không kìa! Tôi nghe
như vừa có một mùi thơm thoang thoảng trầm hương đâu đây. Tôi đọc sách nghe kể
là sông Hương có tên như vậy vì thường có mùi thơm trên sông…
Có
tiếng của anh bạn thổi sáo nói vọng ra từ phía trong mui đò:
– Tôi đang thưởng thức mùi thơm đó chị ơi, nhưng rất tiếc là mùi thơm của Seventy Nine và Half and Half trộn lại từ trong chiếc “píp” của tôi.
Chị bạn tiếc rẻ:
-Vậy thì lời đồn sông Hương có mùi thơm
là bịa đặt sao?
Thùy lên tiếng:
– Tôi cũng được nghe mấy cụ xưa kể
rằng, xưa kia hai bên bờ sông Hương có mọc một giống cỏ gọi là “Thạch Xương
Bồ”, còn có tên gọi khác là “Ngoại Xương Bồ” (Acorus Gramineus). Các nhà đông y
coi Thạch Xương Bồ có tác dụng chữa bệnh như vị thuốc trường sinh. Hoa và củ có
mùi thơm đặc biệt, về mùa xuân phấn hoa bay thơm lừng khắp cả mặt sông nên mới
có tên là sông Hương.
Chị bạn người Nam lại thắc mắc:
– Anh có bao giờ nghe ai diễn tả lại
cái “mùi thơm đặc biệt” của Thạch Xương Bồ nó thơm nồng, ngọt dịu, đam mê,
giống như một mùi hoa nào đó mà mình đã biết không?
Thùy trả lời hóm hỉnh:
– Chị ạ, tôi lớn từng này tuổi đầu rồi mà vẫn còn độc thân là vì hương sắc của Thạch Xương Bồ đó chị! Hồi còn sinh viên, tôi ở gần nhà ông thầy Tàu. Ông thường khoe là trong ba cô con gái của ông, cô út là đại quý tử vì phấn má có mùi hương Thạch Xương Bồ. Tôi đã bao phen cố làm một chàng Trọng Thủy Việt Nam để cố “ngửi” mùi Thạch Xương Bồ trên má cô út Mỵ Châu Tàu lai coi thử cái “đọat hồn hương” đó nó ghê gớm tới mức nào nhưng thất bại, có lẽ vì ông già đã hiểu quá thâm thúy cái hệ lụy “Nam Quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt nên đã thẳng tay làm cho chúng tôi xẻ nghé tan đàn.
Có tiếng anh chàng thổi sáo xen vào:
– Các vị nầy răng mà rắc rối dữ rứa?
Thì cứ tạm cho mùi hương Thạch Xương Bồ nó cũng thơm thơm ngọt ngào giống thuốc
Seventy- Nine và Half and Half của tôi đang hút đây nầy thì có chết ai đâu, bảo
đảm sẽ không có ai chống đối hay kiện tụng chi mô mà sợ.
Đò rời vùng Thiên Mụ, xuôi về mạn Kim
Long. Một giọng ngâm thơ nào đó, không hay nhưng đầy cảm xúc, cất lên:
Kim Long có gái mỹ miều,
Trẩm thương, trẩm nhớ, trẩm liều, trẩm đi
Rồi cũng chính ngưòi ngâm bình luận:
– Trời đất! Làm như gái Kim Long toàn
là tiên nga giáng thế không bằng. Xưa vua mê người đẹp, vua liều vua đi là vì
bị mấy ông quan lớn gài bẫy. Những vị quan lớn trong triều phần đông ở miệt Kim
Long cho gần cung đình. Ông nào cũng nuôi mộng con mình lên làm hoàng hậu nên
lắm ông quan đã khôn khéo đóng kịch cho con gái cưng của mình mặc áo lụa hồng,
choàng khăn nhiễu tím, giặt áo trên sông rồi thỉnh hoàng thượng lên nguồn dạo
mát. Vua đã ê chề với các cô cung nữ trong cung quá rụt rè, run rẩy, sợ hãi trước
long nhan nên mình cứng như cây củi. Nay ra ngoại thành nhìn trộm được giai
nhân má thắm lưng ong đang lả lơi để cho gió hôn trên má, nắng cắn trên vai,
nước đầm trên yếm… Thế là vua tương tư. Vua cải trang vi hành đi thăm bá tánh.
Vua thêm một lần biết yêu. Cung đình thêm một hoàng hậu…
Chuyện dân gian kể rằng, vua Thành Thái cải trang làm người dân thường, lặng lẽ lên Kim Long đi tìm giai nhân mà không gặp vì con gái Kim Long thường chuyên nghề thủ công ở chỗ im mát nên nõn nà và đẹp nhưng ít khi ra ngoài. Vua thất vọng ngoắc một chiếc đò trên bến sông Hương để thuê chèo xuôi về lại hoàng thành. Thuyền cặp bến rước khách, từ trong khoang thuyền, vua nhìn ra sau lái thấy cô chèo đò đang độ tuổi xuân căng phồng sức sống, với manh áo cũ vá vai, với môi thắm má hồng và tóc mây vờn bay theo gió. Cô gái uyển chuyển theo mái chèo với vẻ đẹp tự nhiên làm vua rung động. Vua lại gần hỏi với:
-Nì, o
nớ! Rứa chớ có chồng con chi chưa?
Cô gái che miệng cười
duyên, đáp vọng lại:
-Tui nghèo nàn xấu xí có ai mà ưa!
Câu nói thủ phận, chơn
chất càng làm cho nhà vua cảm thấy cô gái càng đáng yêu hơn. Vua Thành Thái
bước tới giữ tay chèo cô lái lại, bắn tiếng:
– Tui
biết có đám ni khá lắm, để tui làm mối cho o. Chừ tui hỏi thiệt rứa chớ o
có ưng lấy vua không cái đã?
Cô gái
vừa thẹn thùa, vừa sợ hãi, nhớn nhác nhìn quanh, thì thầm nói với người khách
lạ:
-Đừng nói bậy mà họ chém đầu chừ!
Nhà vua đặt tay lên cùng
mái chèo với cô gái, nói như reo vui:
-Thiệt mà! O mà nói “ưng”
một tiếng là được lấy vua liền!
Trong khi cô gái vẫn thẹn
thùng thì có một cụ lớn tuổi cùng đi trong đò tham gia vào cuộc vui, lên tiếng:
– O nớ! Có mất chi mô mà
lo. O cứ nói “ưng” một tiếng thử coi rồi để tui làm chứng cho.
Cô gái chèo đò Kim Long
đánh bạo, nhìn ông khách nói nhanh:
– Ưng.
Vua Thành Thái thú vị dành lấy cán chèo trên tay cô gái:
-Rứa thì ái phi ngồi nghỉ để trẩm chèo
đưa về cung nghe.
Sau duyên kỳ ngộ đó, cô lái đò áo vá
vai đã trở thành một vương phi được nhà vua sủng ái. (Theo Bảo Hiển – Chuyện
Các Bà Trong Cung Nguyễn)
Ngày vui thường qua mau và
cuộc vui nào cũng có lúc tàn. Đò trăng của chúng tôi rồi cuối cùng cũng đành
phải chia tay với nguồn nước trên của sông Hương để trở về bến cũ vì đã quá nửa
đêm. Tráo về, người lái thuyền đã đưa khách nhàn du trở lại với thực tại bằng
cách gác mái chèo và nổ máy Yanmar F.10 gắn trên đò với tiếng nổ phành phạch
rất phàm tục như múa lân đánh trống bể.
Khi đò
về đến Phu Văn Lâu, đò không được chạy máy mà phải chèo trở lại. Thoát khỏi mùi
khét, âm thanh và sức đẩy của máy dầu cặn, trăng lại về trên sông và sóng lại
vỗ mơn man vào mạn thuyền. Thuyền tạm dừng lại trước bến Văn Lâu, anh bạn người Nam hỏi Thùy:
– Đây có tên là “Phú Vân Lâu”, có lẽ bởi vì nơi đây thường có nhiều mây lắm phải không anh?
Thùy giải thích với nét cười thích thú:
– Hay! Anh đã sáng tạo một ý nghĩa mới cho một tên gọi sai do thói quen của quần chúng. Thật ra Phu Văn Lâu mới là tên gọi đúng của nơi nầy. Ngày xưa cái lầu nầy là trung tâm thông tin của triều đình với dân chúng. Những văn kiện quan trọng của nhà vua và triều đình được niêm yết ở lầu nầy. Phu Văn Lâu có nghĩa là “lầu phô bày văn kiện” (Phu: phô bày; Văn: Giấy tờ văn kiện; Lâu: lầu). Anh nhìn kỹ vào đằng trước của lầu nầy sẽ thấy hai tấm bia có khắc chữ: Khuynh cái – Hạ mã (Nghiêng lọng- Xuống ngựa). Bất cứ ai đi ngang qua đây đều phải nghiêng lọng đi đầu trần và xuống ngựa đi bộ để tỏ lòng tôn kính nhà vua. Từ Văn Lâu nhìn ra sông Hương có Nghinh Lương Đình, là nhà hóng mát của vua. Đó là cái nhà cuối cùng tiếp giáp với bến nước của sông Hương trong khu vực cột cờ. Đây cũng là nơi thường vang vọng những tiếng hò quốc kêu đau thương sau ngày vua Duy Tân, nhóm Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thanh Tài đứng lên mưu đồ cuộc khởi nghĩa chống Pháp nhưng thất bại vì nội phản để đến nỗi vua bị đày, tướng bị xử trảm tại An Hòa:
Trước
bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông…
Thuyền ai thấp thoáng bên sông, nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Nghe Thùy giải thích, ý
nghĩ của những người trên đò như đang lãng đãng trôi về thời quá khứ. Chị bạn
người Nam chỉ tay về phía cột cờ sừng sững làm bối cảnh chính cho cả vùng Phu
Văn Lâu:
– Cột cờ nầy hình như đã treo cờ vàng ba sọc đỏ từ thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi cờ đỏ sao vàng của Việt Minh khi Trần Huy Liệu nhận ấn tín từ tay vua Bảo Đại thoái vị trên lầu Ngọ Môn năm 1945. Không biết lần đầu tiên lá quốc kỳ được treo lên nơi đây là loại cờ nào và trông giống ra sao?
Mọi
cặp mắt lại hướng về Thùy, viên thuyền trưởng kiêm hướng dẫn viên bất đắc dĩ.
Thùy trầm ngâm rồi dè dặt lên tiếng:
– Tôi
có một ông đời sơ, nghe đâu là một trong những tác giả bình dân của bài vè lịch
sử nổi tiếng “Thất Thủ Kinh Đô”, có kể lại rằng Cột Cờ Thành Nội xây cao 80
thước, ngang với đỉnh núi Ngự Bình. Quốc kỳ thời nhà Nguyễn là cờ ngũ hành,
thường được treo trong các dịp Tết, lễ lớn của đất nước và triều đình, kèm theo
các sắc cờ khánh hỷ đuôi nheo.
Đò lại
tiếp tục di chuyển về phía cầu Trường Tiền. Một nhịp cầu
đã gãy trong biến cố Mậu Thân nằm thương tích, lạnh lẽo dưới trăng như một vết
chém ngang lưng đối với khách ngã nón trông cầu và trông tội nghiệp như vết sẹo
ân oán vô tình trên khuôn mặt trái xoan nuột nà của cô nữ sinh Đồng Khánh.
Trần Kiêm Đoàn