Sau khi ở tù cải tạo đuợc 5 năm , khi tôi
 đang ở trại Suối Máu Biên Hoà , thì có một số tù đuợc đưa lên trại Tống
 Lê Chân gần An Lộc Bình Long . Tôi mừng thầm là nếu đưa tôi lên Tống Lê
 Chân thì tôi có rất nhiều hy vọng để trốn trại , vì tôi biết rất rõ 
vùng đất này .
Đon vị đầu tiên khi tôi mới ra truờng là 
Đại Đội 11 thuộc Tiểu Đoàn 3 , Trung Đoàn 9 , Sư Đoàn 5 Bộ Binh đóng gần
 sân bay An Lộc Bình Long .
Và trong suốt thời gian phục vụ từ cấp Trung Đội lên đến cấp Trung Đoàn tôi vẫn ở trong vùng rừng xanh đất đỏ này .
Giữa tháng 05/1980 , họ chuyển tôi từ 
trại Suối Máu Biên Hoà lên trại Tống Lê Chân . Đây là một trại tù ở giữa
 rừng , gồm các dãy nhà tranh với mấy lớp hàng rào kẻm gai bên ngoài và 
một lớp hàng rào tre bao bọc bên trong che kín , không nhìn thấy đuợc 
bên ngoài .
Ở 4 góc và ngay cổng ra vào là các chòi 
canh đuợc trí súng đại liên . Sau khi lên đến trại Tống Lê Chân , chúng 
tôi liền nghiên cứu ngay kế hoạch để trốn , vì phải trốn càng sớm càng 
tốt .
Khi ở trại Suối Máu Biên Hoà tôi có luợm 
được một cục nam châm hình trụ to bằng đầu ngón tay . Theo nguyên tắc 
của địa bàn thì khi một thanh nam châm đuợc treo trên sợi chỉ , đuợc 
quay tự do thì một đầu luôn luôn chỉ về huớng Bắc , còn đầu kia là huớng
 Nam . Vì 2 đầu giống nhau nên tôi phải dùng dầu hắc nhựa đuờng để làm 
dấu đầu huớng Bắc .
Trong thời gian ở tù chung nhau qua các 
trại , tôi có quen thân và hay tâm sự với Thu , một nguời cùng thuộc Sư 
Đoàn 5 Bộ Binh truớc đây và có cùng chung một quyết tâm là sẽ cùng nhau 
trốn trại khi có dịp .
Thu cũng cho biết là có thêm một nguời 
bạn nữa cũng muốn nhập bọn đó là Bình . Bình là một nguời rất tháo vát ,
 lanh lợi và đã từng đổ đầu khoá học Rừng Núi Sình Lầy ở trường Biệt Động Quân Dục Mỹ , Nha Trang .
Bình đã làm đuợc một cái kềm để cắt kẻm 
gai . Kềm này làm bằng hai quai xách của cuộn kẻm gai concertina , hai 
quai xách này bằng thép rất cứng . Khi một đầu đuợc đập dẹp , mủi mài 
nhọn và đục lổ , thì trông giống nhu luởi dao . Nhưng khi hai cái luởi 
dao ghép chập vào nhau và dùng một cây đinh làm trục xỏ xuyên qua hai 
lổ , thì biến thành một cái kềm để cắt kẽm gai .
Để chuẩn bị cho việc trốn trại , mỗi 
nguời may một túi vải nhỏ bằng loại vải nguỵ trang để đựng đồ mang theo 
như lon guigoz , mì gói , gạo muối …
Mỗi nguời mang theo một bộ đồ thật tốt , 
quần tây áo sơ mi bỏ trong bọc nylon thật kín cho khỏi uớt , để bên 
trong áo truớc ngực , mặc đồ trận áo lính cũ bên ngoài .
Ngoài ra tôi còn may thêm một cái túi vải nhỏ để cất giữ cái địa bàn , có dây choàng qua cổ để khỏi rớt mất .
Mỗi lần đo là tôi rút một sợi chỉ từ lai 
áo trận và nhờ tôi có làm dấu đầu huớng Bắc bằng dầu hắc nhựa đuờng nên 
tôi sờ vào là biết để đi cả ban đêm .
Chúng tôi phải kiểm soát lẫn nhau cho 
thật kỹ , quần áo mặc , túi vải , đồ đạc mang theo tất cả đều phải đuợc 
nguỵ trang cho tiệp với màu cây lá trong rừng và không được gây ra tiếng
 động chạm nào .
Ngoài ra chúng tôi còn sắp đặt những gì 
sẽ bỏ lại , thật ít đồ bỏ lại , cố ý nguỵ tạo như là có ý định sẽ đi 
xa , tức là sẽ đi về huớng Bắc để qua biên giới Kampuchia .
Buổi chiều hôm đó tôi và Thu cùng ăn 
chung nhau , đem tất cả những gì ngon đem ra ăn , ngốn cho thật đầy bụng
 để lấy sức tối đi .
Tất cả đồ còn lại đem cho hết hoặc chôn 
dấu . Thu đem cả túi balô quần áo cho bạn bè . Tôi có cho một nguời bạn 
cùng khoá là Lương Văn Thìn mấy gói mì , mà bạn tôi không hiểu tại sao ,
 tuyệt nhiên tôi không có đá động gì tới chuyện trốn trại .
Suốt trong 3 tuần lể liền , Thu đã phải theo dỏi thật kỹ các toán tuần tra canh gác , giờ nào đi tuần , giờ nào đổi gác …
Sau cùng chúng tôi đã đi đến quyết định giờ xuất phát là 9 giờ tối , khi máy phát điện vừa tắt thì bắt đầu chui ra .
Ở đây mỗi tối có máy phát điện cho Công An coi truyền hình , đến 9 giờ thì tắt .
Sau đó họ về sửa soạn độ 15 phút sau là 
bắt đầu đi tuần . Và theo như chúng tôi dự tính là phải mất 10 phút để 
cắt kẻm gai và 5 phút chót phải bò thật nhanh qua con đuờng tuần tra là 
khoảng đất trống bên ngoài .
Địa điểm thuận lợi nhứt để chui ra là khoảng giữa hai chòi canh phía sau trại .
Ban đêm họ đứng gác trên chòi canh cao 
nên không thể thấy rõ ở duới đất đuợc , theo đúng nguyên tắc canh gác 
ban đêm là phải ở duới thấp . Còn ngày đi thì chúng tôi chọn vào cuối 
tuần trăng , để khi chui ra thì trời còn tối , đến nửa đêm trăng lên dễ 
thấy đuờng để đi . Chúng tôi chọn đêm 22 ta , Âm Lịch , vì tin dị đoan 
sợ đêm 23 ta là không tốt .
Đúng 8 giờ ruởi tối đêm 22/04 Âm Lịch tức
 là ngày 03/06/1980 , chúng tôi bắt đầu theo đúng kế hoạch ra ngồi ngoài
 cầu tiêu , để chuẩn bị cắt dây lạt của lớp hàng rào tre truớc , để đến 
đúng 9 giờ khi máy phát điện vừa tắt là chui ngay .
Nhưng không ngờ khi đó chúng tôi thấy ở 
ngoài suối có ánh đèn của Công An đang đi bắt cá ở duới suối , nên chúng
 tôi phải ngưng lại ngay và trở vô ngủ như thuờng lệ .
Qua đêm hôm sau bắt buộc là phải đi chớ không thể nào chần chờ được nữa , vì sợ nếu để lâu dể bị bại lộ .
Lần này cũng đúng 8 giờ ruởi là ra cầu tiêu , vì cầu tiêu là chổ tốt nhứt để tới sát hàng rào mà không ai để ý .
Bình bắt đầu cắt dây lạt của lớp hàng rào
 tre và cố vạch ra một lỗ để sẳn sàng chui ra . Lớp hàng rào tre này 
đuợc chôn sâu duới đất và sát khít nhau bằng hai lớp tre đan chéo vào 
nhau dầy đặc .
Vì vậy rất khó gở ra , phải đào sâu xuống
 đất mới vạch ra 1 lỗ vừa chui và phải làm thật chậm thật kỹ vì sợ ở 
chòi canh nó có thể thấy lúc lắc ở đầu ngọn rào tre .
Khi máy phát điện vừa tắt bầu trời chụp tối đen là lúc chúng tôi bắt đầu chui , thì bất ngờ có thêm 2 nguời đợi chui trốn theo .
Thật hết sức bất ngờ và không thể nào từ chối đuợc nên chúng tôi đành phải lo bảo bọc nhau cùng trốn .
Bình chui ra truớc là để cắt kẻm gai rồi đến tôi chui kế , tiếp theo là 2 nguời trốn chui theo và Thu là nguời chui sau cùng .
Sau khi chui ra khỏi lớp hàng rào tre thì
 gặp lớp hàng rào kẻm gai thứ nhứt . Nhưng phía duới lớp hàng rào kẻm 
gai này là rãnh thoát nuớc với đất bùn xình hôi thúi , nên chui lòn qua 
đuợc mà khỏi phải cắt .
Đến lớp hàng rào kẻm gai thứ 2 thì Bình 
bắt đầu cắt . Hàng rào kẻm gai của VC rào thì họ có quá nhiều kinh 
nghiệm cho nên họ cho rào rất kỹ .
Họ bắt phải đào một cái rảnh sâu xuống 
đất rồi mới trồng cột sắt lên và rào kẻm gai ngay từ phía duới rào lên ,
 rồi lấp đất lại , nên không có cách nào vén lên để chui lòn qua đuợc, mà chỉ có cách duy nhứt là phải cắt thì mới chui ra đuợc .
Mà cái kềm cắt kẻm gai của Bình biến chế 
nên không cắt dễ dàng nhanh chóng đuợc . Khi đang nằm chờ trong đám cỏ 
tranh giữa mấy lớp hàng rào với quần áo đầy bùn xìn hôi thúi , tôi nhìn 
lên bầu trời đầy sao , cảm thấy như bình tâm chấp nhận những gì đến sẽ 
đến , vì không còn cách nào hơn để lựa chọn đuợc nữa .
Bình cắt xong hàng rào này cũng mất 5 phút mới qua đuợc và còn một lớp sau cùng cũng mất 5 phút nữa .
Và cuối cùng chúng tôi chui qua đuợc hết 
và phải bò thật nhanh , chỉ dùng cùi chỏ và đầu gối bò thật sát mặt đất 
như bò hoả lực ,
vuợt thật nhanh qua khoảng đất trống , 
rồi truờn mình xuống suối . Lúc đó tôi có cảm giác như tim tôi đập quá 
mạnh như muốn vỡ lồng ngực .
Tiếng thở dồn dập hổn hển mà tôi nghe rất rõ , và gợn lên sóng nuớc khi ngâm mình trong nước để lội qua suối .
Qua bên kia bờ suối chúng tôi phải bám 
theo rể cây để leo lên vì lòng suối sâu hẩm . Lên khỏi suối là băng mình
 qua đám rừng tre , rồi băng qua con đuờng mòn . Con đuờng mòn này đi ra
 chuồng bò nên chúng tôi phải tránh xa nơi đây gấp vì sợ có nguời lui 
tới .
Bất ngờ Thu bị lọt xuống một hố sâu có lẽ
 là hố rác , tụi tôi phụ nhau kéo Thu lên . Vừa lên xong là đâm đầu chạy
 vô phía rừng rậm .
Không bao lâu sau , bỗng nghe tiếng súng 
đại liên từ các chòi canh nỗ ran trời và sau đó là những tiếng quát tháo
 hò hét của đám Công An chạy túa ra về phía chúng tôi , càng lúc nghe 
càng gần .
Tiếng lên đạn súng AK47 nghe rớp rớp , tiếng hò hét vang động khắp nơi , tiếng chửi rủa hăm doạ địt mẹ ra đi không tao bắn chết mẹ hết bây giờ , nghe rất gần ở ngoài con đuờng mòn mà chúng tôi vừa mới chạy qua .
 Vì vậy chúng tôi hết đuờng chạy , sợ 
chạy sẽ gây ra tiếng động dễ bị lộ , nên 5 đứa tụi tôi đành phải chui vô
 một bụi rậm , nằm rút trong đó .
Sau này được biết là sau khi chúng tôi 
chui ra khỏi hàng rào , thì lại có nguời chui trốn theo , nên bị phát 
giác bị bắt và bị đánh chết tại hàng rào và họ liền truy đuỗi theo để 
bắt chúng tôi .
Chúng tôi cố nằm yên không động đậy . Một
 lúc sau nghe tiếng máy điện chạy trở lại và nghe tiếng lào xào ở trong 
trại , chắc là VC đang ra lệnh tập hợp điểm danh .
Một hồi lâu sau thấy yên tịnh , không 
hiểu là họ vẫn còn lục soát hay ngồi núp rình đâu đó hay là đã đi chổ 
khác . Nhưng trong lúc đó chúng tôi quyết định là phải bò đi vì không 
thể chần chờ ở đây lâu đuợc .
Chúng tôi 5 đứa bắt đầu bò đi thật chậm ,
 2 tay rồi lại 2 chân , đưa lên đặt xuống thật nhẹ nhàng , nếu lở có 1 
tiếng động nhỏ như tiếng lá cây kêu sột soạt hay một tiếng cành cây gãy 
là ngưng lại ngay nghe ngóng rồi mới bò tiếp .
Bò đuợc một lúc lâu chừng 1 tiếng đồng 
hồ , tôi nghi là chưa đi đuợc bao nhiêu , chân tôi bị đứt ngang ở ống 
quyển máu ra ướt xuống tới vớ , tôi rờ thấy ướt mới biết , nhưng cũng 
chẳng thấy đau đớn gì .
Sau đó chúng tôi bắt đầu đứng dậy để đi 
cho nhanh ra khỏi chỗ này , nhưng vẫn đi hết sức thật cẩn thận , buớc đi
 thật nhẹ nhàng im lặng .
Tôi lấy thẳng huớng Nam mà đi , đi ngược 
với huớng Bắc là hướng qua biên giới . Chúng tôi giữ đúng hướng , không 
đi theo đuờng mòn hay chổ trống , bất kể là băng qua các đám ô-rô duới 
suối hay bụi lùm gai góc . Và càng lúc nghe tiếng máy điện ở phía sau 
lưng càng nhỏ dần .
Khi đó nghe có tiếng xe molotova , loại 
xe chở quân của VC , chạy đổ ra tứ phía . Chúng tôi phải đi chậm lại , 
sửa soạn đồ đạc cho thật gọn gàng , tuyệt đối không đuợc gây tiếng động 
và phải quan sát cho thật kỹ .
Mỗi nguời nhìn một huớng , khi đến chổ trống hay gặp đuờng mòn là dừng lại lủi ngay vô bụi rậm gần nhứt rồi từ từ quan sát sau .
Có nhiều lúc gặp VC đang đi bằng xe đạp ,
 chạy ngang qua rất gần mà họ không thấy . Mỗi khi muốn băng qua đường 
mòn hay trảng trống , chúng tôi dừng lại nghe ngóng quan sát rất kỹ rồi 
mới chạy nhanh qua từng nguời một .
Bỗng đâu có 1 tốp nguời Thuợng , vợ chồng con cái vừa đi vừa nói chuyện lào xào , nên chúng tôi lủi tránh kịp thời .
Lúc trời sáng hẳn chúng tôi đổi huớng đi 
về phía Đông tức là huớng ra Quốc Lộ 13 . Đi trong rừng hoang vắng nhưng
 thỉnh thoảng nghe có tiếng đốn cây chặt củi , chúng tôi phải tránh xa 
ra .
Đi tới chiều thì gặp con đường lộ đá đỏ , đó là đường vô Minh Thạnh .
Chúng tôi chuẫn bị kỹ rồi băng qua đường cho thật nhanh và lủi vô sâu trong rừng 1 khoảng xa rồi dừng lại nghỉ .
Chúng tôi lựa chổ kín đáo để dừng lại 
nghỉ , bởi vì từ đêm tới giờ gần 1 ngày tròn đã đem hết sức lực để cố 
vuợt thoát xa vùng nguy hiểm , nên bây giờ thấy thấm mệt , nhứt là vấn 
đề nước uống rất là khan hiếm . Tôi mang theo lon guigoz đựng nuớc uống 
nhưng đã bị đỗ mất hết vì nắp đậy của lon guigoz không kín chắc , giờ 
thấy khát rát cỗ họng .
May sao Bình tìm đuợc 1 giếng nuớc bỏ 
hoang , cỏ mọc um tùm , nhìn xuống giếng tối om không thấy nuớc , nhung 
khi thòng lon guigoz xuống , múc lên đuợc những lon nuớc thật trong 
veo , uống thật ngon thật đã , nhờ đó chúng tôi ăn mì gói với nuớc 
lạnh .
Xong rồi lấy thêm đầy nuớc rồi đi ngay , tiếp tục lấy hướng Đông để ra Quốc Lộ 13 .
Trời bắt đầu tối , nhưng khi tiếp tục đi 
thì nghe có nhiều tiếng súng trong rừng , chắc có lẻ là họ đi săn , mà 
cũng có thể là bọn Công An , vì vậy chúng tôi phải dừng lại để tìm cách 
lẫn tránh .
Chúng tôi ra giữa đám trảng tranh lớn cao
 quá ngang đầu , vạch đuờng ra ở giữa đám tranh , trải một tấm nylon để 
nằm nghỉ lưng và canh chừng mọi động tĩnh chung quanh .
Nếu có nguời đi tới thì chúng tôi sẽ thấy
 dễ dàng để tìm đường lẫn tránh , nhưng nguợc lại họ sẽ không thấy chúng
 tôi đuợc vì tranh cao quá khỏi đầu .
Khi đó hỏi chuyện nhau mới biết tên 2 
nguời đi chui theo , đó là Tuờng Phi Công Phản Lực A37 và 1 nguời nữa 
tên là Thạch , hình như là nguời Việt gốc Hoa , tôi không biết đơn vị , 
cả 2 anh đều mang dép nên rất khó đi .
Sáng sớm hôm sau chúng tôi tiếp tục lên 
đuờng sau khi xoá mọi dấu vết . Khi đi thỉnh thoảng gặp các bẩy của 
nguời Thuợng rất là nguy hiểm , như bẩy cò ke , nếu vuớng chân vào thì 
cần bật sẽ bung lên rất là mạnh , có thể làm bị thương , hay bẩy bắn tên
 khi đụng vào cần bật thì bao nhiêu mủi tên tẫm thuốc độc sẽ bắn xuống .
Vì vậy khi thấy khả nghi là phải dừng lại
 xem xét cho thật kỹ rồi tránh xa ra . Chúng tôi rất khát nuớc vì đi cả 
ngày mồ hôi ra nhiều mà không có miếng nuớc uống nên khát dữ lắm .
Gặp một cây nói là trái gấm , Bình leo 
lên hái xuống ăn thử , vừa ngứa miệng , vừa khát nước thêm . Có lần gặp 
được nước đọng trong các lằn bánh xe bò và trên những lá cây khô còn 
đọng nuớc của những trận mưa truớc , chúng tôi góp nhặt lại hớp những 
giọt nước đó cho đở khát .
Đến chiều thì trong lúc đang đi bất chợt 
gặp 1 em bé trai độ 11 , 12 tuổi đang lang thang trong rừng . Chúng tôi 
giả dạng như là cán bộ đi khảo sát địa chất và hỏi em bé ở đâu có suối ,
 thì em bé đó chỉ về huớng truớc mặt , đi thêm vài chục thuớc là thấy 
suối , một con suối rất lớn .
Nhìn ở phía xa kia là một khu rừng đã 
đuợc phát quang và có các cây to bị đốt cháy nám đen , 1 đám nguời đang 
cuốc đất làm rẩy , chắc là dân vùng Kinh Tế Mới .
Chúng tôi lội xuống suối uống một bụng 
nước thật no nê . Sau đó chúng tôi tìm chổ bụi lùm kín đáo để nấu cơm , 
nấu bằng lon guigoz , 2 đứa thay phiên nhau quạt để khói đừng bốc lên 
cao . Chúng tôi ăn bửa cơm này thật là ngon , ăn cơm nóng với bột ngọt 
trong gói mì .
Sau khi ăn xong , trời đã xế chiều , 
chúng tôi thấy đoàn nguời làm rẩy đi về nhà đi theo hướng Đông , như vậy
 là ra Quốc Lộ 13 , nên chúng tôi đợi cho họ đi hết rồi mới men theo con
 đuờng mòn đó để đi cho nhanh . Đi độ chừng 1 tiếng đồng hồ thì ra tới 
ấp , tôi đoán chừng là vùng Tân Khai hay Tàu Ô , nằm cạnh Quốc Lộ 13 . 
Thấp thoáng nhìn từ xa thì thấy có lớp hàng rào tre bao bọc , và hình 
như có cổng ra vào , giống như 1 trại tập trung , nên chúng tôi không 
dám đến gần và cũng không muốn vô đó làm gì .
Sau khi trời xụp tối thì chúng tôi tiếp 
tục đi , chúng tôi dự định đi trong bìa rừng theo đuờng rầy xe lửa Sài 
Gòn – Lộc Ninh nằm song song với Quốc Lộ 13 để đi , dự định sẽ đi qua 
khỏi quận Chơn Thành , rồi mới ra đuờng đón xe .
Riêng 2 nguời trốn theo là Tuờng và Thạch
 thì không dám đi nữa , mà họ có cho địa chỉ nếu ai về đuợc đến Sài Gòn 
thì nhắn dùm gia đinh họ lên đón .
Chúng tôi 3 đứa đi lần mò trong đêm và vì trời tối quá nên không đi đuợc bao xa , mà đành phải dừng lại nghỉ qua đêm .
Sáng sớm hôm sau lên đuờng đi tiếp , đi 
cho đến trưa thì dừng lại nghỉ bên cạnh 1 cái ao nhỏ xung quanh có cây 
cối um tùm , dễ ẩn náu để nấu cơm ăn .
Xong rồi lại đi tiếp , đến chiều chạng 
vạng tối thì đến 1 cái ấp khác , 1 xóm nhà lô nhô ngoài gần Quốc Lộ , 
chúng tôi ở bìa rừng trốn trong hầm hố cũ đuợc che phủ bỡi những lùm tre
 rất kín đáo .
Buổi chiều dân trong làng đi lao động 
về , họ đi ngang qua khá gần chổ chúng tôi đang trốn , tiếng chó sủa dữ 
dội nhưng họ không để ý mà chỉ lo đi cho mau về nhà .
Chiều hôm đó nằm nghe tiếng chó sủa , 
tiếng trẻ con đùa giởn trên đuờng , nhìn khói lam chiều từ 1 mái nhà 
tranh quyện bay lên không trung mà lòng tôi cảm thấy buồn vô hạn .
Chạnh lòng nhớ đến vợ con , thầm nghĩ đến 1 mái ấm gia đình bên vợ hiền con thơ mà tôi uớc mơ đuợc như họ .
Được sống đầm ấm trong 1 căn nhà tranh 
vách đất ở một miền thôn quê rừng núi nào đó . Nhưng nghĩ lại thân phận 
tôi là 1 người tù trốn trại , tương lai rất mờ mịt , không biết ngày mai
 sẽ ra sao .
Một uớc muốn tầm thuờng , đuợc làm 1 nguời dân bình thuờng để sống mà lo cho gia đinh nuôi vợ nuôi con cũng không đuợc .
Tôi buồn cho thân phận bơ vơ lạc lõng của tôi trong cái xã hội mới này . Hoàn cảnh của tôi thật đúng với câu nước mất nhà tan , gia đình ly tán .
Đêm đó chúng tôi khát nước vô cùng , cồn 
cào lên cổ họng . Bình với ý định lẻn vô nhà dân để xin nuớc uống , 
nhưng tôi với Thu cản lại , vì bao công trình giờ rủi ro vô gặp phải nhà
 của Công An thì nguy khốn , đành chịu nhịn khát qua đêm . Nhưng không 
ngờ đến khoảng nửa đêm thì trời đỗ xuống 1 trận mưa thật lớn . Chúng tôi
 mừng quá lấy tấm nylon ra căng để hứng nuớc uống . Uống no bụng xong 
rồi , đỗ đầy vô lon guigoz mà trời vẫn tiếp tục mưa càng lúc càng lớn .
Chúng tôi bị lạnh quá phải ôm lấy nhau 
trên đầu phủ tấm nylon và mỗi đứa phải lo ôm thật chặt bộ quần áo tốt ở 
trong bọc nylon , ôm kỹ ở truớc ngực để giử cho khô . Trận mưa này thật 
lớn thật lâu sau cùng rồi cũng dứt hẳn .
Vì không thể đi tiếp trong rừng cho đến 
quân Chơn Thành , vì đuờng còn xa mà đường rầy xe lửa thì không còn 
nguyên như truớc nữa , mà chỉ còn là những đám rừng tre che phủ um tùm 
rất là khó đi , chỉ có thể chui lòn duới đám tre gai , cho nên chúng tôi
 quyết định là sẽ chia tay nhau ở đây , phân tán ra mỗi nguời tự tìm 
cách để đi về Sài Gòn rồi sẽ gặp lại nhau sau .
Trời hừng sáng chúng tôi thay bộ đồ thật 
tốt thật tươm tất , đồ đạc còn lại đem chôn dấu trong bụi , xong chờ cho
 đến khi nghe có tiếng xe chạy là lần luợt ra đuờng , lựa khoảng trống 
giửa hai nhà mà ra đón xe .
Bình lên đuờng trước tiên , một lúc sau 
thì đến Thu , và tôi là nguời ra đuờng sau cùng . Khi buớc ra Quốc Lộ 13
 tôi lấy bình tỉnh đi men theo bên đường chờ đón xe . Tôi không thấy 
Bình đâu hết mà chỉ thấy Thu đang đi phía truớc tôi một khoảng xa . Có 
chiếc xe Lam ( xe ba bánh chở hành khách hiệu Lambretta ) chạy trờ tới 
tôi liền đón để đi , vì xe đã đầy nguời nên tôi phải đeo theo xe đứng ở 
phía sau . Thu cũng lên đuợc chiếc xe đi truớc tôi . Xe chạy qua cầu Tàu
 Ô và như vậy là đêm qua chúng tôi đã ngủ ở giửa khoảng Tàu Ô – Tân 
Khai .
Trước kia , đây là đoạn đuờng nguy hiểm 
nhứt của Quốc Lộ máu mang số 13 và cũng chính nơi đây đã xảy ra những 
trận chiến vô cùng ác liệt , mà dấu vết các hầm hố còn lại rất nhiều , 
dọc theo bìa rừng trông ra Quốc Lộ .
Khi xe vô quận lỵ Chơn Thành tôi xuống xe ở đầu ấp Chơn Thành 2 để đi bộ vô , vì sợ vô tới bến xe sẽ gặp Công An
Đi bộ dọc theo con đuờng vào quận lỵ , 
tôi nhớ lại các nơi mà ngày xua quen biết như Trại cưa Lê Quang , Trại 
cưa Mai Chấn Hung , Lò than ông Năm Thãnh , sau này ông Năm Thãnh cũng 
lập thêm trại cưa .
Đi gần đến chợ là đến bến xe và tại ngả tư đường đi Đồng Xoài có một đồn cảnh sát hồi xưa , bây giờ là đồn Công An Việt Cộng .
Tôi dự định đi bộ ra khỏi quận lỵ rồi mới
 đón xe để đi Bình Dương . Tôi đi ngang qua dãy phố chợ mà ngày xua có 
các tiệm ăn như Nghĩa Thành , Bạch Tuyết , nổi tiếng với món canh chua 
cá lóc , cá kho tộ .
Đi ngang qua ngôi chùa , qua cây cầu là 
gần đến đầu quận lỵ . Tôi nhìn thấy Thu đang đi phía truớc bỗng dưng đổi
 huớng qua trái tấp vô một quán nước .
Tôi nhìn kỹ về phía truớc phía bên phải 
thì thấy có một trạm kiểm soát nên tôi cũng đổi hướng qua trái tấp vô 
một quán nuớc . Tôi nhớ mài mại hình nhu đây là quán của bà Năm Chích , 
có cô con gái ra tiếp . Tôi kêu một ly cà phê , ngồi uống để quan sát 
coi trạm kiểm soát đó nó hoạt động như thế nào .
Tôi thấy rõ hai thằng Công An coi tù ở 
trong trại ra đây chận xét xe để nhìn mặt bắt chúng tôi , hai tên này 
đứng bên cạnh trạm kiểm soát tài nguyên .
Mỗi khi xe đến đó , tài xế vô trình giấy 
tờ cho trạm kiểm soát tài nguyên ở bên trong , thì 2 tên Công An đứng 
bên ngoài đi ra lục soát xe .
Tôi đoán chắc là nó sẽ bố trí chận xét ở 
đây để bắt tù trốn trại , vì đây là quân lỵ gần nhất , mà muốn ra khỏi 
quận thì phải đi ngang qua trạm kiểm soát này .
Nếu đi bằng xe đạp , xe thồ , mặc đồ như nguời đi làm cây làm củi trong rừng thì mới lọt qua đuợc .
Còn nếu bây giờ băng vô trong rừng để đi 
bọc qua thì cũng sợ gặp phải nguời lạ mặt họ dể nghi ngờ , vì mình mặc 
đồ sạch sẽ tươm tất quá .
Tôi còn đang phân vân không biết phải làm
 cách nào để qua khỏi trạm kiểm soát này , thì thấy Thu đi nguợc trở 
lại , ngang qua chổ tôi . Thu trở lại bến xe để đón xe đi , còn Bình thì
 không còn thấy tâm dạng đâu hết , chắc là đã đi thoát rồi .
Tôi ngồi chờ 1 hồi thì thấy chiếc xe lô 
chạy trờ tới , tôi nhìn thấy Thu ngồi ở băng sau cùng . Xe tới trạm kiểm
 soát thì ngừng lại , trong khi nguời tài xế vô trình giấy tờ thì một 
tên Công An đi ra nhìn vào xe , một lúc sau thì tài xế trở ra và nó cho 
xe chạy đi . Tôi mừng cho Thu đã thoát nạn , giờ đây chỉ còn lại 1 mình 
tôi , tôi không còn biết cách nào khác hơn là trở lại bến xe để đón xe 
đi . Đây là chổ nguy hiểm nhứt mà tôi cố tránh nhưng không đuợc nên đành
 phải liều mạng .
Khi vô bến xe thì thấy có một chiếc xe 
lô , loại xe nhỏ để chở khách , tôi thấy xe trống trơn chưa có ai , tôi 
lên ngồi băng sau cùng . Ngồi một lúc lâu thấy nóng ruột nên mới hỏi Bác
 Tài là xe chừng nào chạy , ông ta nói chờ khách lên đầy thì đi , mà 
thuờng là khách ở trong Minh Thạnh ra nhiều
Tôi hơi lo vì khách ở trong Minh Thạnh ra có thể là Công An trong trại ra đi phép .
Ngồi một hồi lâu thì chợt có một tốp 
người đi buôn than họ lên gần đầy . Bỗng tôi thấy có 2 đứa nhỏ độ hơn 11
 tuổi tay cầm một con gà , tay xách một giỏ đồ , tôi liền nhanh miệng 
kêu 2 em bé đó vô ngồi gần bên tôi và tôi phụ xách dùm đồ , làm như vậy 
thấy đở trống trải vì có 2 em nhỏ che đở phần nào .
Khi xe chạy tới trạm kiểm soát thì dừng 
lại , Bác Tài vào trình giấy tờ trong trại kiểm soát tài nguyên . Tôi 
thấy một thằng Công An , đứng bên cạnh trạm kiểm soát , buớc ra để nhìn 
mặt nguời trên xe .
Nó nhìn vào băng truớc , trên đó có 2 nguời ngồi , tôi nghe tiếng quát tháo của tên Công An là hai nguời ngồi đằng truớc là tại sao đầu tóc để dài bù sù nhu cao bồi du đảng , đâu đưa giấy tờ coi .
 Sau khi coi xong giấy tờ hai người phía truớc là nó liệng vô xe rồi ra 
lệnh cho đi một cách thật oai quyền . Cũng vừa lúc Bác Tài đã trở ra 
xe , Bác Tài liền rồ ga cho xe chạy đi , mà lòng tôi vui mừng khắp khởi 
vì vừa thoát được một trạm kiểm soát thật là vô cùng nguy hiểm .
Xe chạy qua khỏi Tham Rớt , Bầu Bàn , Bầu
 Lòng rồi đến quận Bến Cát , ở đây cũng có trạm kiểm soát nhưng là trạm 
kiểm soát tài nguyên nên không có gì trở ngại .
Xe chạy về tới Chánh Hiệp Bình Dương , một trạm kiểm soát rất lớn , nơi cửa ngỏ vô thành phố nên xe đậu nối đuôi nhau rất dài .
Chiếc xe tôi đi là xe nhỏ chở than lậu nên tài xế đã biết cách vô trình giấy tờ và nộp tiền mải lộ là xong ngay .
Xe đi tiếp vô thành phố vào đậu ở bến 
xe , tôi xuống xe cũng vẫn còn nắm tay hai em bé vô mua giấy xe để về 
Sài Gòn , vì hai em bé đó cũng về Sài Gòn . Tôi thấy người ta sắp thành 
hàng dài để chờ mua vé xe , tôi cũng sắp vô hàng chờ đợi .
Nhưng khi tôi nhìn kỹ lại thì thấy mỗi 
nguời khi mua vé xe đều phải trình ra một thứ giấy tờ gì đó , hình như 
là giấy phép đi đuờng hay là giấy căn cuớc , mà trong mình tôi thì không
 có thứ giấy tờ nào nên tôi hơi sợ , nên mới nói với hai em nhỏ là cứ 
sắp hàng để mua vé về Sài Gòn truớc đi còn tôi thì sẽ đi sau .
Tôi bỏ ra ngoài tìm đường khác để đi , 
chớ khi mua vé họ hỏi đến giấy tờ là mình không biết trả lời ra sao , vì
 trong mình tôi không có thứ giấy tờ nào hết .
Tôi vào quán nước kêu ly nuớc đá chanh 
vừa uống vừa quan sát để tính kế . Bỗng chợt thấy xe Honda ôm , tôi liền
 nghĩ ra phương cách hay nhứt để đi về Sài Gòn là bằng xe ôm .
Tôi dự định là sẽ về nhà của chị Đồ ở Phú
 Thọ . Trong những lần đi thăm nuôi , vợ tôi thường đi chung với chị Đồ 
nên hai gia đinh rất thân nhau và trước khi trốn trại tôi có dọ hỏi anh 
Đồ địa chỉ nhà cho thật kỷ , thật đầy đủ chi tiết đuờng đi nước buớc , 
làm sao vô nhà , đi vô ngỏ hẻm nào …
Tôi chỉ hỏi chơi chơi chứ không cho anh biết ý định trốn trại của tôi .
Anh lái xe ôm ra giá đi Sài Gòn là 50 
đồng , tôi không có đủ tiền nhưng tôi nói với anh là đưa tôi về đến nhà 
tôi lấy tiền rồi trả sau .
Sau khi bằng lòng giá cả anh ta mới đi đổ
 xăng và trở lại đón tôi . Trên đuờng đi tôi cũng nói thêm với anh là 
tôi vừa ở vùng kinh tế mới về , bị mất hết giấy tờ nên nhờ anh chạy làm 
sao để tránh các trạm kiểm soát .
Anh ta nói là tụi Công An nó chỉ xét coi có buôn đồ lậu , chứ như ông đi mình không , thì không có gì để xét thì đừng có lo .
Tôi nghe mừng trong bụng và trong lúc đi 
đuờng tôi có hỏi chuyện thì anh có cho biết hồi truớc anh là lính của Sư
 Đoàn 5 Bộ Binh . Nghe biết vậy thôi chứ tôi cũng không có hỏi thêm gì 
về chuyện ngày trước .
Xe chạy qua các trạm kiểm soát Búng , Lái
 Thiêu rồi Bình Triệu . Thấy xe kẹt đậu dài dài để chờ xét , còn xe 
Honda ôm này chạy qua hết mà không bị hỏi han gì và sau cùng vô Sài Gòn 
qua ngả cầu cư xá Thanh Đa rồi qua cầu Phan Thanh Giản và chạy trên 
đường Phan Thanh Giản để về Phú Thọ .
Nhìn quang cảnh thành phố Sài Gòn sau 5 năm trở lại , tôi cảm thấy như bơ vơ lạc lỏng , như lạc vào một thế giới nào xa lạ lắm .
Đây không phải là thủ đô Sài Gòn năm xua , một thời đã từng đuợc mệnh danh là một Hòn Ngọc Viễn Đông .
 Nay tôi thấy trên đuờng toàn là xe đạp , mà nguời nguời trông lam lũ tả
 tơi , không cuời không nói , với dáng vẻ buồn thiu ảm đạm , thật đúng 
với câu nguời buồn mà cảnh có vui đâu bao giờ .
Khi đến Phú Thọ , xe Honda chạy vào con 
hẻm nhỏ , một số con nít chạy theo . Khi xe vô đúng số nhà mà tôi đã học
 thuộc lòng , tôi gỏ cửa và chị Đồ ra mở cửa . Khi thấy tôi chị buột 
miệng la lên :
Ủa anh Thạch mới đuợc thả về , còn ông Đồ của tôi đâu . Tôi lật đật nói nhanh là tôi mới đuợc thả về và xin muợn chị 50 đồng để trả tiền xe .
Chị vô lấy tiền cho mượn ngay để trả tiền
 xe . Khi xe đi rồi và đám con nít đa tản đi hết rồi thì tôi mới nói 
thiệt với chị là tôi trốn trại và nhờ chị về báo tin cho vợ tôi hay .
Chị hốt hoảng cho biết là mới vừa tuần truớc đây thằng em trai của chị vừa mới vuợt biên đã đi thoát được .
Nhà Chị đang bị Công An phường khóm điều 
tra theo dỏi , cho nên Chị không dám chứa tôi trong nhà , mà bảo tôi ra 
ngoài đuờng đón xe autobus để ra bến xe Xa Cảng Miền Tây , ở Phú Lâm , 
rồi sẽ tính sau .
Truớc khi đi tôi còn hỏi muợn Chị đôi 
giày , vì đôi giày tôi đang đi là loại giày đi rừng nên đi trong thành 
phố coi không tiện .
Chị cho tôi muợn đôi giày sandal và còn 
đôi giày đi rừng của tôi thì chị nói là chị sẽ đem lên cho anh Đồ trong 
lần thăm nuôi tới .
Tôi ra khỏi hẻm ra ngoài đuờng thì thấy 
có 1 quán hủ tiếu , tôi liền tấp vô ăn một tô hủ tiếu , uống một ly cà 
phê sửa , rồi mới ra đón xe autobus để đi ra Xa Cảng miền Tây .
Khi ra đến bến xe Xa Cảng miền Tây , tôi 
thấy cả một rừng nguời hỗn độn la liệt khắp nơi . Họ trải chiếu , trải 
tấm nylon hay kê tấm ván tùm lum tứ tung không theo một lề lối nào cả .
Hỏi ra mới biết đây là những nguời bỏ 
vùng kinh tế mới trở về , nhà cửa bị tịch thu không nơi nương tựa đành 
phải sống lang thang đầu đuờng xó chợ bến xe .
Sau khi thấy cảnh hổn độn này tôi nghĩ thầm là mình có thể trà trộn để ngủ tạm qua đêm ở đây .
Trong khi đó thì chị Đồ đạp xe đạp từ Phú
 Thọ vô Gia Định để báo tin cho vợ tôi biết . Sau này gia đinh kể lại là
 khi chị Đồ vào nhà , chị rất lo sợ có nguời theo dõi , nên chị kéo vợ 
tôi ra phía sau nhà , không cho mấy đứa con tôi lại gần , rồi chị mới 
nói cho vợ tôi hay là tôi đã trốn trại .
Tôi đang ngồi uống nuớc đá chanh ở xe 
nuớc đá và định chổ ngủ qua đêm , thì bỗng thấy chị Đồ đạp xe đạp ra 
tới . Chị đưa cho tôi 50 đồng và một giấy cử tri của vợ tôi gởi và căn 
dặn tôi sáng mai ra mua vé xe đò để về Mỷ Tho .
Sáng sớm hôm sau trước khi ra bến xe tôi 
đi tìm nhà của Thạch , là một trong hai nguời trốn chui theo . Thạch và 
Tường thì còn ở lại trong rừng và có dặn là nếu ai có thoát về đuợc Sài 
Gòn thì báo tin cho gia đình họ biết tin , để tìm cách lên đón .
Địa chỉ của Thạch thì tôi nhớ lờ mờ là ở gần Phú Lâm nên tôi sẳn dịp ghé qua báo tin .
Lúc đó trời còn lờ mờ chưa sáng hẳn , 
đuờng vắng vẻ . Khi đi ngang qua trạm xe chửa lửa có vài tên Công An 
đang đứng nói chuyện ở phía truớc , tôi cố giử bình tỉnh khi đi ngang 
qua .
Sau cùng tôi tìm đuợc nhà của Thạch , tôi
 gỏ cửa 1 hồi thì có nguời ra mở cửa nhưng với dáng vẻ bực bội vì tôi 
đánh thức họ quá sớm .
Tôi hỏi có phải là nhà của Thạch không , 
thì họ không trả lời mà đóng ập cửa lại làm tôi ngần ngừ một lúc , vì 
tiếc là không báo tin cho gia đinh Thạch được . Tôi cũng không biết là 
có đúng nhà không , hay là họ sợ không dám tiếp tôi . Cho đến sau này 
tôi cũng không biết tin tức gì về 2 nguời trốn chui theo , có thoát đuợc
 không và bây giờ ra sao .
Tôi trở ra bến xe ngồi xếp hàng chờ để mua vé xe về Mỷ Tho, trong túi có 50 đồng và thẻ cử tri nên thấy hơi yên tâm .
Một hàng rất dài ngồi chờ mua vé xe rồi 
từ từ nhích lần lên . Tôi ngồi chòm hỏm 2 tay bó gối gục đầu rồi thiếp 
đi lúc nào không hay . Bỗng đâu có nguời vỗ vai kêu tên tôi , tôi giật 
mình nhìn lên thì thấy chị Đồ , chị bảo tôi vô quán nước ở bên kia đuờng
 để gặp bà xã tôi . Vừa mừng vừa lo , chỉ sợ Công An theo dõi vợ tôi để 
đón bắt tôi nên tôi hơi luỡng lự . Chị Đồ vô đứng thế chổ tôi để mua vé 
xe .
Tôi vô quán để gặp bà Xã tôi , vợ tôi đã 
kêu đủ thứ đồ ăn nào hủ tiếu , bánh bao , xiếu mại … Bà Xã tôi kêu tôi 
ăn đi ăn đi . Tôi hỏi coi có ai biết hay theo dõi gì không , thì thấy 
không có dấu hiệu gì .
Ba đứa con tôi đang ở nhà chưa hay biết 
gì về chuyện này . Sau này kể lại mới biết là chúng nó đói khổ lắm , đâu
 có được ăn hủ tiếu bánh bao như thế này .
Từ ngày tôi đi tù tới giờ gia đình suy 
sụp , có bao giờ dám ăn các món cao lương mỹ vị này đâu và tôi cũng quên
 hỏi mời vợ tôi cùng ăn , bà xã tôi cứ kêu tôi ăn đi ăn đi .
Phần thì lo sợ Công An nó theo dõi , phần
 thì không biết là về Mỷ Tho rồi sẽ làm gì , nên tôi cố nhét cho đầy 
bụng rồi đi liền . Tôi dặn vợ tôi là đừng có xuống Mỷ Tho , mà nên ở nhà
 lo cho mấy đứa con còn nhỏ dại , đừng để bị nguy hiểm cho cả hai , rồi 
không ai lo cho các con .
Tôi trở ra chổ mua vé xe thì chị Đồ đã 
mua vé xong xuôi và chị còn cẫn thận mua cho tôi tờ báo Nhân dân , chị 
bảo lên xe đọc báo này nguời ta tưởng là cán bộ .
Tôi lên xe ngồi gần băng phía sau . Xe 
chạy qua hết các trạm kiểm soát một cách dễ dàng vì ở mỗi trạm Bác Tài 
đều biết thủ tục đầu tiên, là tiền đâu. Qua Bình Chánh, Bến Lức, Tân
 An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương rồi vô thành phố Mỹ Tho .
Xe vô đến bến, tôi xuống xe và vô tìm 
đứa em gái tôi . Vợ tôi có cho biết là em gái tôi bây giờ làm ở Tổ Hợp 
May Mặc Phuờng 4 ở bến xe này .
Mới vừa vô gặp mặt em tôi , nó mừng rỡ rồi la lớn Ủa anh Tư mới đuợc thả về . Tôi hơi bối rối vì sát bên cạnh tiệm may là đồn Công An Phường 4 , có một số Công An đang đứng gần đó sợ nó nghe được .
Tôi giả bộ như thiệt nói một hơi là anh 
mới đuợc thả về bây giờ em có rảnh ra quán uống nuớc . Em tôi lật đật 
xin phép bà hội truởng hợp tác xã rồi đi liền .
Ra tới quán nuớc tôi mới nói thiệt với em
 tôi là tôi trốn trại . Em tôi giật mình mặt tái xanh vì quá bất ngờ . 
Tôi dặn dò em tôi về nhà cho Má hay và coi chung quanh có ai không rồi 
cho anh biết để anh về nhà .
Em tôi đạp xe đạp chạy về báo tin xong 
trở lại làm việc , còn tôi một mình đi bộ về nhà . Má tôi đã biết truớc 
nên đã mở cửa sẳn chờ . Khi vô nhà tôi đi thật nhanh và đi thẳng ra phía
 sau nhà vì sợ lối xóm nhìn thấy .
Sau đó em tôi đi làm về có mua cho tôi 
một dĩa cơm suờn và hôm sau là cơm tấm bì chả và mua hủ tiếu bánh bao … 
toàn là các món ăn ngon đắt tiền mà tôi cũng quên hỏi là em tôi đi may 
lương tháng bao nhiêu.
Mời xem tiếp phần 2
Nguyễn Ngọc Thạch ( Khoá 20 Võ Bị Đà Lạt )