Friday, September 29, 2023

Cô Còn Nhớ Em Không? - Nguyên Hạnh - HTD


Học sinh thường nghĩ, thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn… Cho nên mỗi lần tôi gặp lại một em học sinh không có gì nổi bật ngày xưa, mà tôi còn nhớ tên thì em học sinh rất vui…

Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương chấm dứt, thầy trò phân tán, tôi đi cùng Nam cực Bắc. Nhưng tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi tên sau câu mở đầu công thức: “Cô còn nhớ em không?”. Những người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương – xa trường, xa thầy…, bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao!

Kẻ gieo niềm vui tất nhiên cũng được hưởng những niềm vui. Có lần, giữa khu phố Tàu Toronto (Canada), tôi gọi đúng tên một em học sinh cũ. Em mừng rỡ ôm tôi tha thiết, rồi níu tay nói “Cô chờ em một tí”. Em vụt chạy vào một tiệm gần đó, mua một bông hồng đỏ, cài lên ngực áo tôi. Những cái hôn cảm động và đóa hồng như thế, tôi mang về trong giấc ngủ, tôi mang theo suốt cuộc đời. Nó là hương sắc đậm đà trong cuộc sống đơn giản của một nhà giáo.

Tôi luôn cố học tên, nhớ mặt học sinh. Mỗi đầu năm học, tôi học kỹ bản đồ lớp, sáu bảy lớp với hơn 300 học sinh, tôi phải học thật sự. May mà tên con gái Huế đa số bốn chữ, âm thanh hài hòa, lắm lúc một dãy tên trở thành một đoạn nghe êm tai mà cũng dễ thuộc. Mặt đẹp tên hay thường đi đôi với nhau, mặt mày chất phác thường mang tên giản dị, còn những em mang tên ngồ ngộ không theo quy luật nào cả lại càng dễ nhớ. Một năm 300 tên, 300 mặt, nhớ cho hết cũng đủ xây xẩm rồi. Đò đi mà bến cũ còn ở lại, năm sau lại 300 tên khác và 300 tên khác nữa…Thật gay go vô cùng.


Gặp lại học sinh với những nụ cười rạng rỡ trên môi, với bông hồng cài áo chỉ có trước năm 75 hoặc trên xứ người. Sau 30.4.75, trên các nẻo đường bôn ba ở miền Nam, tôi vẫn hay được gặp lại các học sinh thân yêu với lời chào quen thuộc „Cô còn nhớ em không?“ nhưng là ở những cảnh ngộ khác nhau rất xa ngoài phạm vi phấn trắng bảng đen. Hầu như tất cả cảnh ngộ đó đều gian khổ rất đau lòng, không có hộ khẩu, con cái của những gia đình thuộc chế độ cũ… Đó là những mảnh đời rách nát! Những cảnh đời của học sinh tôi như vậy, tôi đã gặp nhan nhản trong suốt thời gian tôi còn bị kẹt lại ở quê nhà…

 

Một cảnh ngộ khác, tôi không bao giờ quên được khi tôi gặp Hạnh Mai trên một chuyến xe lửa Sàigòn – Huế. Thầy trò đều tất tả ngược xuôi vì miếng cơm manh áo, nước mắt nhiều hơn nụ cười với những tủi nhục của cảnh đời khốn khó lầm than! Con tàu đông nhung nhúc, hôi hám đến ghê tởm. Tôi ngồi chỉ được nửa bàn mông, đôi chân phải chuồi ra kê đỡ trên bao nhiêu đồ đạc bừa bãi chen chúc với chân cẳng người khác. Chắc chắn lại thấy có những con người khom khom lách tới, lẹ làng chui nhét chen chúc dưới ghế ngồi, những gói, những bao hàng không lớn lắm nhưng nặng nề. Một lúc sau lại thấy họ rật rật chạy tới lôi ra đem nhét vào những khoang khác. Đó là mấy bà đi buôn, họ đi tàu „cọp“. Gọi là cọp nhưng họ phải chi tiền cho ban kiểm tra, cho thuế vụ, cho thanh tra thanh trẻ. Giá tiền nhiều gấp bao nhiêu lần giá vé! Đến những ga nào có đoàn kiểm tra đột xuất, họ phải nhảy đỡ xuống rồi chạy bộ ra khỏi ga. Đoàn tàu chuyển bánh ra khỏi vòng kiểm soát của ga, tốc độ còn chậm, họ lại bám vào thánh tàu, nhảy lên rớt xuống, lại chạy theo, lại nhảy, người trên đưa tay kéo kẻ dưới, toàn là phụ nữ. Lòng tôi se thắt khi nhìn những con người như thế đeo lên rớt xuống mấy lần, lăn trên hai đường đá lởm chởm, lại ngoi lên, lại níu, lại nhảy. Cuối cùng rồi họ cũng lên được con tàu để sống chết với tài sản của họ. Tôi đang thẩn thờ suy nghĩ đến giá trị sinh mạng của những kẻ chung quanh tôi bấy giờ vẫn bô bô là „vốn quý của xã hội“, quên cả bực dọc vì chật chội, hôi hám như cảm giác lúc mới lên tàu, thì bỗng một người ngồi thụp xuống bên chân tôi, muốn tìm chỗ để rúc cái đầu xuống bên dưới ghế hầu tránh công an, thuế vụ nhưng nghẹt cứng không còn chỗ, đành phải úp mặt trên đầu gối tôi, mặc cho những lằn roi quất tới tấp trên chiếc nón lá xơ vành. Để cho nhẹ bớt đòn roi, chị đi buôn ghì mặt xuống thấp hơn, thấp hơn nữa, sũng xuống giữa hai bắp vế của tôi. Quá bất nhẫn trước hành động dã man của tên công an, tôi phản ứng; tính bất khuất của một nhà giáo trổi dậy trong tôi, tôi mở mắt lớn nhìn tên công an:

– Anh làm gì lạ vậy? và đưa tay gạt ngọn roi của nó.

Anh ta ngạc nhiên nhìn tôi:

– Thím lạ lắm hả?, cái bọn gian thương này phải đánh cho chúng nó chừa, chúng nó chuyên bóp nghẹt quốc doanh, phá hoại chính sách ưu việt của đảng và nhà nước ta…“.

Con vẹt áo vàng tuông đủ một tràng kinh nhật tụng rồi đổi giọng:

– Xin lỗi, thím công tác ở cơ quan nào?

Tôi đáp liều:

– Tôi đi dạy học (thật tình tôi đã bỏ dạy từ năm 1979 dù Ban Giám Hiệu đã yêu cầu tôi ở lại nhiều lần, vì môn Toán cấp 3 thiếu giáo viên).

Nghe vậy, tên công an nói tiếp:

– Thím về nên giảng giải thêm cho học sinh rõ, báo cáo sâu sát tình hình để nhà nước ta có biện pháp hữu hiệu tiêu diệt bọn chúng.

Hắn bỏ đi sau khi hừ một tiếng vào cái nón; còn tôi thì nín cười vì đã bịp được hắn. Tên kia đi khuất, chị đi buôn mới trồi mặt lên nhìn tôi qua nửa vành nón rách:

-„Cám ơn bác“ và bẽ bàng giọng Huế: „Kệ, rứa đó chớ không răng mô bác. Hắn giả đò quất trót trót cho to rứa, chứ không can chi mô. Cái nón của tụi tui là dùng vô mục đích nớ đó. Làm bộ qua mặt người khác rứa, chớ „đấm mõm“ thì yên hết.

Trời ơi! Vậy là „yên„ đó ư? Con người ta còn chịu khổ đau đến mức nào nữa? Thảo nào mà bọn chúng không lạm dụng sức nhẫn nhục chịu đựng để làm khó dễ dân chúng. Nhưng tôi chưa kịp buồn lâu về cách hành xử giữa người với người, cũng chưa kịp suy tư theo thói quen nghề nghiệp về mấy từ „nhân cách, nhân nghĩa, nhân vị…“ thì tôi bỗng giật thót mình. Chị đi buôn khi ngớt lời, hất chiếc nón ra sau, nhìn kỹ lên một lần nữa. Bốn mặt nhìn nhau, tôi như bị điện chạm bởi ánh mắt quen thuộc của một ngày xa xưa hiện về giữa gương mặt tuy chai cằn sạm nắng che lấp một phần bởi tóc tai lòa xòa không chải chuốt nhưng cái lúm đồng tiền có một bên vẫn nhắc nhở cho tiềm thức tôi một thoáng vẻ rất quen thuộc.

Phần chị đi buôn, tự nhiên nụ cười vụt tắt, chị luống cuống quơ đôi dép nhựa đã rách mép, tuông đi như tháo chạy với lời „Cám ơn bác“ ném lại sau lưng.


Tôi vội chụp tay kéo giựt lại “Hạnh Mai”! Hạnh Mai quay lại, đổ ào xuống chân tôi, úp mặt vào đầu gối tôi và bùng khóc nức nở. 

Mọi người trong khoang tàu nhìn chúng tôi ái ngại nhưng chỉ hỏi bằng mắt, còn tôi nước mắt cũng đã rưng rưng! Tôi im lặng đặt tay lên vai em để cho em khóc. Hồi lâu thật lâu, khi những nỗi tủi nhục đã vơi dần theo nước mắt, Hạnh Mai mới ngước nhìn tôi đầy mặc cảm:

– Em không ngờ cô còn nhớ ra em! Lâu quá rồi! Em già và tàn tạ quá! Cô thì không đổi mấy nhưng vì lúc đầu ngồi thấp và đội nón nên em chưa thấy. Sau biết là cô, em định chạy trốn luôn.

– Sao lại trốn? Tôi hỏi:

– Em tủi thân, không dám chào! Vả lại không nghĩ là cô còn nhận ra em nữa! Em đưa hai bàn tay đen đủi gân guốc bụm lên hai má rồi thở dài…

Thầy trò thủ thỉ hỏi thăm nhau. Mai tâm sự, em có bốn con, chồng đi tù cải tạo. Em đi hàng chuyến, vào ra hết 4, 5 ngày, về tạt qua nhà để lại ít bobo, mì sợi cho con, rồi lại tất tả đi tiếp cho chuyến khác. Hàng em buôn là đậu phụng, đậu xanh, bột mì…, có khi buôn cả than củi. Để quên bớt nỗi ê chề đắng cay của thực tại, tôi đưa Hạnh Mai trở về quá khứ. Vài kỷ niệm dễ thương dưới mái trường Đồng Khánh được thầy trò nhắc đến, tạo được đôi chút ấm áp, vài ba nụ cười dù không trọn vẹn nhưng cũng đủ làm cho đường xa hóa gần.


Tàu đến ga Lăng Cô. Đoàn đi buôn quăng bao hàng rồi nhảy ào xuống trước khi vào khu vực kiểm soát của nhà ga. Hạnh Mai cũng thế. Tôi xót xa nhìn theo cô học trò nhỏ bé nhảy tàu, lăn mấy vòng rồi đứng dậy chụp theo mấy bao hàng; xốc nách một bao và xách hai tay hai bao, ngã lên ngã xuống qua hàng kẽm gai để vòng thoát ra phía sau dãy nhà dân… 

Năm sau, báo chí loan tin xe lửa Huế-Sài Gòn bị lật ở Trảng Bom, chết nhiều người, đa số là con buôn. Tôi kinh hoàng đau xót. Hạnh Mai có trong đó không em? Mà nếu không có em thì cũng trăm ngàn Hạnh Mai khác, cũng vật thôi.

Buổi tối, tôi ăn cơm độn với mì sợi được chế biến từ bột bo-bo, tôi cảm thấy sợi mì khô như gai và mặn như nước mắt!


*****

Tôi đã may mắn rời quê hương để bao nỗi u hoài ở lại. Tưởng rằng nơi đất khách khó gặp được người thân, ai ngờ tôi vẫn còn nghe những câu chào “Cô còn nhớ em không?”. Cô nhớ chứ. Các em không thể ngờ rằng, trong ký ức cô, các em vẫn hằng có mặt. Những món quà nho nhỏ, những nụ hôn, những đóa hồng… Cô nhớ mãi. Đó là những gì tôi mãi quý trọng trong suốt cuộc đời nhà giáo của mình…

Trong ngậm ngùi của thực tế giáo chức giữa xã hội đổi thay, tôi vẫn lưu giữ những gì tôi đã chọn và mãi mãi trân quý


Nguyên Hạnh – HTD

5 tháng 5, 2022

Bóng Thời Gian - Như Nhiên Thích Tánh Tuệ


Đối diện vui, buồn.. và vượt qua cảm thọ 
Qua bao lần vui buồn, mình rút ra được một cảm nhận đó là khi vui vui bao nhiêu thì khi buồn buồn sẽ bấy nhiêu và ngược lại.
 
Mỗi lần buồn, hạch hạnh nhân, tuyến yên nằm ở trung tâm não của mình hoạt động rất khó chịu, nó tiết ra một chất gì đó làm mình cảm thấy vô cùng khó chịu, cảm thấy vô cùng bức bối, tù túng, ngột ngạt. Đây là lúc mình cảm nhận rất rõ tâm thái muốn vượt thoát khỏi sự trói buộc của thân xác, và tâm thức con người.
 
Và để đối trị, mình lùi về một góc, nhìn thẳng vào trung tâm khó chịu đó, không đồng hóa mình với nó, không mong cầu nó mau hết, cũng không ra sức chống đối, lãng tránh, hay đè nén nó. Mình chỉ hay biết, chỉ nhìn, nhìn, và nhìn thẳng vào nó, và thấy cảm giác khó chịu dần vơi giảm. Đã có bằng chứng khoa học về những người bị bệnh trầm cảm nặng lâu ngày, hạch hạnh nhân, tuyến yên của họ thường xuyên tiết ra độc chất khiến hình thành khối u trong não.
 
Để bổ sung thêm phần đối trị, mình ngồi xuống theo tư thế tọa thiền và bắt đầu hít thở bằng bụng. Hít vào bụng phình ra, lòng bàn tay phải hướng vào phía bụng, và cả tay phải chuyển động nhịp nhàng đưa ra nương theo sự phình ra của bụng từ trong ra ngoài. Thở ra bụng xẹp lại, tay phải chuyển động nhịp nhàng thu lại theo sự xẹp lại từ từ của bụng. 
Hít thở tự nhiên, theo dõi, hay biết sự vào ra của hơi thở nơi mũi. Hít thở vào ra như thế khoảng hơn 200 lượt vào ra. 
Xong sau đó, tay phải chạm đỉnh đầu, tay trái đưa ra trước miệng, và bắt đầu thở ra bằng miệng thật sâu thật dài, khoảng 5 lần, hạn chế hít vào, khi này tay trái cảm nhận làn khí từ miệng thổi ra. Hít thở bụng như thế làm cho mình lắng dịu cảm giác khó chịu do hạch hạnh nhân, tuyến yên nơi trung tâm não gây ra, có nguyên nhân khởi phát từ cảm xúc buồn.
 
Trải qua bao lần thăng trầm như thế, dần dà mình không còn ham thích cảm giác vui nữa, cũng không chán ghét cảm giác buồn. Chỉ là không đồng hóa mình với xúc cảm vui buồn huyễn hóa, duyên hợp giả tạm, và vô thường đổi thay khôn lường. Bởi vui bao nhiêu thì sẽ buồn bấy nhiêu, đúng như lời Phật dạy, hãy quán thọ thị khổ.
 
Khi có ánh nhìn như vậy, chúng ta sẽ không còn chạy theo trần cảnh bên ngoài mà tìm niềm vui, bởi biết chắc sau niềm vui, nỗi buồn sẽ đến. Mà chúng ta sẽ quay vào, tự chế tác niềm vui, và hạnh phúc cho bản thân bằng ánh nhìn ngay thẳng vào bao vọng tưởng, xúc cảm thị phi, rồi thì chúng sẽ tan đi, và niềm vui, hạnh phúc chơn thật sẽ hiện lên. Và khi sống với tâm thái này, trong chúng ta sẽ tràn đầy tâm lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả, chúng ta sẽ sẵn sàng trao tặng đi tất cả đến với mọi người, mọi chúng hữu tình trong trời đất này một cách vô tư.

Hành Giả
Namo Buddhaya
 
Học Cách Bằng Lòng
- Khi bạn cảm thấy mình muốn chết, hãy đến thăm viện ung bướu.
- Khi bạn thấy mình bất hạnh, hãy đến thăm cô nhi viện.
- Khi bạn thấy mình không có nơi nương tựa, hãy đến thăm viện dưỡng lão.
- Khi bạn cảm thấy mình nghèo khổ, hãy đến thăm trại tỵ nạn.
- Khi nào bạn thấy mình sắp bỏ cuộc, hãy nghĩ đến lý do bắt đầu.
- Khi bạn thấy cuộc đời không còn gì ý nghĩa nữa, hãy nghĩ về Mẹ.
- Bạn sẽ thấy những gì mình đang có là niềm mong ước của nhiều người khác.
- Đừng bao giờ trách "Tại sao mình không được như người ta, trong khi nhiều người chỉ ao ước được như bạn.
- Và bất cứ ai cũng có thể tu hành để an lạc và hạnh phúc ngay giữa đời thường, bạn cũng thế nhé. Emoji


Bóng Thời Gian
 
Không hình, không tuổi, không tên
Chảy ngang trần thế dệt nên tháng ngày
Không màu, không sắc hiển bày
Xuân thì thuở nọ chiều nay bạc đầu..
Thời gian, hai chữ nhiệm mầu
Là phương thuốc để quên sầu thế gian..
Thời gian, hai tiếng gian nan 
Nhọc nhằn nhân loại, vội vàng đến, đi.
 
- Thời gian thực sự là gì ?
Thủy chung, bạc bẽo cũng vì thời gian .
Những ngày hội ngộ hân hoan..
Chén mừng chưa trọn đã tàn cuộc vui..
Thời gian chờ đợi, ngậm ngùi
Tháng ngày như thể thụt lùi đứng yên..
Khi tâm tư nặng ưu phiền
Phút giây nghe cứ dài thêm, mỏi mòn..
 
- Thời gian trôi cuốn, dập dồn..
Hỏi người... ai biết mất còn về đâu!
Thở vào, sống với lo âu..
Thở ra, nghiệp quấn theo sau kiếp đời..
Quyền uy, nhan sắc một thời
Thời gian thầm lặng đổi dời, phôi pha..
Chợt nghe bóng xế chiều tà.. 
Hư không vọng đến lời ca vô thường..
 
Thời gian vốn chẳng vui, buồn
Nỗi niềm riêng dệt ngàn muôn sắc màu..
 
- Có người ẩn sỹ rừng sâu
Cõi lòng vô niệm qua cầu thời gian..
Như mây như gió thênh thang
Thân trong trần thế, hồn tan luân hồi..
Đời mưa, nắng.. Mặc tình trôi !
Thiên thu về ngự chỗ ngồi thiên thu..
 
Như Nhiên - 
T Tánh Tu

Thu Rụng Trái Sầu - Hàn Thiên Lương


 Bao mùa lá rụng thu vàng úa

Em vẫn đầu sông anh cuối sông

Ly cách tình sầu nhìn lá đổ

Cùng nhau khắc khoải nỗi chờ mong!

 

Chẳng phụ nhau lòng mãi vấn vương

Vì sao duyên kiếp lỡ đôi đường

Hồn thu lẫn khuất trong sương khói

Ước hẹn mờ xa vẳng tiếng buồn!

 

Lá úa vàng thu rụng trái sầu

Mơ hồ cõi mộng biết về đâu

Nhớ mong cung mắt rưng dòng lệ

Lặng lẽ mình chung một nỗi đau!

 

Qua mấy thu rồi đợi rất lâu

Tóc anh nay cũng đã phai màu

Mắt em chắc cũng vương nhiều lệ

Vì nỗi đau buồn cuộc biển dâu!

 

Sang năm lá vẫn vàng thu úa

Chắc cũng chờ trông đến nao lòng

Em mãi đầu sông nhìn lá đổ

Còn anh thơ thẩn cuối dòng sông!

 

Hàn Thiên Lương 

Thursday, September 28, 2023

Áo Gấm Về Làng - Trần Yên Hòa


1.

Phải trở về quê một chuyến xem thử chỗ ngồi bên gốc cây bàng trong khuôn viên chợ Quán Rườn nay có còn không? Chắc còn, và chẳng có gì thay đổi. Bởi vì Hạo đã ngồi ở đó suốt 12 năm, ngày ngày ngắm ông đi qua bà đi lại, mỗi khi có ai xe đạp bị hư, bể ruột, cong niềng, trật ốc, dắt lại sửa thì anh mừng húm lên, bởi vì anh sẽ có được chút tiền công mang về cho 3 đứa con đang đợi ở nhà.

Từ ngày ra khỏi trại tập trung, Hạo trở về đây, ngồi dưới gốc cây bàng này, sửa xe đạp. Dù ai có nói ra nói vào: “Cha Hạo đã một thời là thiếu tá, từng làm tiểu đoàn trưởng chỉ huy lính đánh địch kinh hoàng, từng một thời có xe díp cần câu, có cận vệ chạy rần trời, thế mà nay thất thế, 10 năm ở tù về, chả lại dám ngồi dưới gốc cây bàng sửa xe, thằng cha khùng, làm mất mặt bầu cua sĩ quan”. Hạo nghĩ: “Có gì mà mất mặt, đi ở tù, hốt phân tươi tưới rau, dòi bọ bò lổn ngổn, đi đốn gỗ, cuốc đất, tăng gia rau xanh, làm "tà lọt" cho vệ binh, cho quản giáo, suốt 10 năm, mà chả có lấy 1 xu tiền công, còn ăn đói nhịn khát, mặc rách. Bây giờ về, làm việc để kiếm miếng cơm chứ có gì mà mắc cỡ”. Có người cho Hạo đã bị khùng nặng, ngơ ngơ ngác ngác. Họ cho rằng, sau khi đi tù về, vợ đã đi theo người khác, Hạo phải nuôi 3 đứa con, nên Hạo bị "mát dây" là chuyện bình thường. Hạo lại nghĩ khác. Mình làm ăn lương thiện thôi, đem mồ hôi đổi lấy bát cơm, có gì mà mặc cảm.

Bây giờ thì anh quyết định trở về thăm quê, sau 5 năm ở Mỹ. Các con anh đã lớn, đã đi làm, anh yên tâm và thấy mình may mắn. 5 năm anh đã trút bỏ đi một phần cái thân thể gầy còm ốm nhách của ngày ra đi. Anh đã mập lên, nước da hồng hào hơn, phổng phao hơn. Người ta nói vật chất đã làm thay đổi con người, đúng vậy, dinh dưỡng đầy đủ của xứ Mỹ đã biến anh ra một con người khác. Anh đã làm hết bổn phận với các con, nay anh phải tự lo lấy phần đời còn lại, cho nên anh dự định, sẽ tìm về quê, thăm mồ mả cha mẹ, ông bà, tổ tiên, nhưng cốt lõi trong lòng anh là muốn về quê cưới một người vợ, rồi sẽ bảo lãnh vợ sang đây sống cùng anh, cho đời anh đỡ đi phần hiu hắt.


2.

Hạo đi chuyến bay China Airline, mang theo 2 vali quần áo cũ mà các con đã mua ở chợ trời, định sẽ đem về cho bà con ở quê nhà, cùng với 7 ngàn đồng anh gom góp để dành suốt mấy năm ròng. Anh nghĩ mình sẽ chi tiêu dè sẻn, cho anh cho chị, cho bà con mỗi người một ít, còn lại anh sẽ làm mộ cho cha mẹ anh thật tươm tất. Và khi kiếm được người đàn bà nào vừa ý như người chị hứa sẽ dắt cho anh xem mặt mấy mối, anh sẽ đem số tiền còn lại làm quà cưới, tiệc cưới, chắc cũng tạm đủ, vì quê anh là một xóm quê nghèo, cuộc sống lam lũ, dân chúng không ăn xài bao nhiêu.

Chị Nhường đón anh ở sân bay Tân Sơn Nhất với nước mắt đầm đìa. Tánh của chị anh thật giống mẹ anh ngày xưa, ngày anh đi lính, đi hành quân, lúc nào mẹ cũng cúng vái khấn nguyện, và cuối cùng là khóc. Nước mắt vui, nước mắt buồn đều có cả. Bây giờ mẹ mất rồi mẹ để lại cho chị Nhường hồ nước mắt ấy. Ngày anh cùng các con khăn gói đi Mỹ, chị khóc, bây giờ anh trở về thăm chị, chị cũng khóc.

Anh loay hoay với mớ hành lý đem về. Ở trên phi cơ, bà con đi về kháo nhau, cửa hải quan này cho 5 đô, cửa công an kia cho 5 đô, cứ thế coi như đấm nắm xôi vào miệng chúng cho qua truông suôn sẻ. Hạo cũng làm theo, nhưng anh không ngờ bọn cò mồi đứng chỗ lấy hàng, bọn nó chỉ lấy tay chỉ chỏ hay lấy tay xách hành lý cho khách mà không ai nhờ, cuối cùng thì bọn chúng xin tiền, anh phải móc hầu bao nhưng lòng cứ ấm ức. Đến khi đẩy xe ra cửa phi trường Hạo mới thấy như thoát nợ. Chị Nhường nhận ra Hạo ngay khi anh vừa mới ra khỏi khu cách ly. Chị vẫy tay lia lịa và kêu: 

 Hạo, Hạo, cậu Hạo.

Hạo đến chỗ chị và ôm lấy chị. 5 năm mà chị già đi quá, mái tóc lưa thưa bạc, mắt có những vết nhăn, anh ứa nước mắt, chị khóc. Hai chị em đi ra chỗ chiếc taxi đã được chị thuê đậu phía bên ngoài. Hai chị em về khách sạn nghỉ một đêm, ngày mai mới đáp xe tốc hành thuê bao về quê nhà.


3.

Ngày Hạo đi, quê của anh nghèo khổ, nay anh trở về quê vẫn không thay đổi gì mấy. Hai cây cầu có tên "Cầu Lỡ" vẫn lồi lõm từng nhịp, xe chạy qua gập ghềnh như đi xiếc. Đã 25 năm gọi là hòa bình và tái thiết đất nước mà những vết tích của chiến tranh, bom đạn và nghèo khổ vẫn trùm lên mỗi thân phận con người. Dọc đường từ ngã ba Chiên Đàn lên đến chợ Quán Rườn, người dân đi bộ, đội những mớ rau, củ sắn từ miền quê xa xuống chợ bán vẫn còn.

Đây là hình ảnh mà ngày nhỏ,cách đây cũng 3-40 năm, ngày anh còn là cậu học trò đi học ở trường Chiên Đàn anh đã thấy. Hình ảnh những người dân quê còm cõi đó vẫn ăn sâu vào lòng anh như một tì vết của nghèo khổ. Anh đã từng cạn kiệt sức sống trong những trại tập trung, đã từng lê tấm thân ngồi nơi gốc bàng vá từng lỗ vá ruột xe đạp để kiếm miếng cơm củ khoai về nuôi con, nên anh biết rõ một điều là ai cũng mong có cơm ăn áo mặc, mà đến ngày nay xem ra ước mơ ấy cũng chưa đạt được.

Xe chạy về đến nhà chị Nhường thì trời cũng quá trưa. Đi một đoạn đường dài mất một ngày một đêm mới tới. Các con cháu của chị Nhường đứng ở sân nhà chờ đợi. Chị Nhường con đông đến 7 đứa, có mấy đứa lớn có vợ, có chồng, có con, tay bồng tay bế đứng nơi sân đợi. Và cả bà con lối xóm nữa. Họ đứng lố nhố chung quanh sân. Chắc là họ muốn nhìn một người đi Mỹ trở về ra sao? Một người mà cách đây 5,7 năm còn ngồi bên gốc bàng sửa xe đạp, ốm o gầy mòn, bây giờ đã thay da đổi thịt, đã phổng phao thấy rõ. Một người mà cách đây 10 năm theo lệnh của công an xã, nhân dân đã tụ họp ra ngoài trụ sở ủy ban để "giải chế" cho. Có nhiều ý kiến nói ra nói vào về "tội ác ngày xưa" của Hạo, khi anh còn làm tiểu đoàn trưởng. Nhưng cuối cùng thì theo "ý dân", anh được giải chế, nghĩa là chính quyền không còn quản chế anh nữa. Nay thì cũng đám dân đó đứng trước sân nhà anh đợi anh về, ngoắc tay, kêu lớn tiếng: “Anh Hạo ở Mỹ về đó hả, anh khỏe ghê he!”


4.

Hạo nói chị Nhượng chia phần cho những người bà con thân sơ, mỗi người một lọ dầu gió xanh, 50 ngàn bạc Việt Nam, và một số quần áo cũ mà các con anh đã tìm mua ở chợ trời hay các tiệm Goodwill. Với bấy nhiêu thôi, Hạo đã được tiếng đồn lành “Ông Hạo mới 5 năm đi Mỹ, về mua quà cho cả làng”. Ngày trước cách đây 10 mấy năm chứ có đâu xa, ngày Hạo được kêu lên xã "giải chế", trong một đêm tối trời trong hội trường tỏa ánh sáng đèn măng sông, cũng những người dân kia đã giơ tay cao, đã phát biểu những lời độc địa: “Ông Hạo thuộc thành phần ngụy dữ dằn, đã từng làm tiểu đoàn trưởng, chỉ huy quân ngụy đi càn biết bao nhiêu trận, có tội rất lớn đối với nhân dân và cách mạng”. Câu nói như một vết chém đâm ngập vào tim Hạo, làm tâm hồn anh tê điếng, ám ảnh Hạo suốt mấy năm ròng.

Cũng những người đó hôm nay đến đây thăm anh, ai nhìn anh cũng khen anh khỏe mạnh, mập ra, da thịt hồng hào. Thì ra cơm gạo tư bản dư dả quá, xứ sở người ta văn minh tiến bộ quá, còn xứ sở mình thì đã 20 năm "giải phóng" mà người dân vẫn ăn đói mặc rách. Hạo nghĩ, nếu không có cuộc ra đi thì chắc anh vẫn mãi ngồi bên gốc cây bàng vá từng lỗ ruột xe đạp kiếm ăn, các con anh vẫn phải đi bán cà rem dạo hay bán trà đá dạo, chứ có bao giờ nghĩ chúng sẽ được đi học đàng hoàng.

Chị Tửu, một phụ nữ từng bỏ làng nhảy núi ngày chiến tranh, đã từng là trung đội trưởng du kích xã, từng bị thương mất đi một mắt, bây giờ phục viên trở về làm ruộng, bị thiếu ăn, đói lên đói xuống, bế đứa con gái 3 tuổi đến nhà Hạo thăm.

Từ đàng xa chị Tửu đã lên tiếng:

– Nghe nói anh Hạo từ Mỹ về, tôi ghé thăm anh chút, ai cũng đồn về anh.

– Đồn gì vậy chị Tửu?

– Thì nói anh khỏe mạnh, lột xác cũ đi.

– Vậy còn chị thế nào, nay có khá không?

– Khá gì mà khá, đói rã ra anh ơi. Từ ngày anh đi Mỹ tôi cũng nghỉ việc luôn, anh nghĩ tôi tàn tật như vầy mà còn lao động gì được nữa, thế mà tôi có được cấp dưỡng gì đâu. 

Anh chạnh nhớ đến chị Tửu ngày anh ra xã "giải chế", Tửu đã đứng lên phát biểu: “Với sự khoan hồng của cách mạng, xin chính quyền xã thôi không quản chế anh Hạo nữa”. Điều này Hạo mang ơn chị Tửu, dù gì thì trong những lúc anh bị mọi phía xô anh xuống dưới bùn đen mà có người kéo anh lên. Hôm nay để đền bù lại tấm lòng ấy, cùng với lòng muốn cứu giúp một người hàng xóm trong cơn ngặt nghèo, anh lấy cho Tửu những món quà anh đem về và anh cho riêng chị Tửu 100 đô la. Chị Tửu không ngờ mình được cho nhiều như vậy, chị quỳ xuống níu lấy tay Hạo:

– Tôi không biết lấy gì để cảm ơn anh đây, quý hóa quá, quý hóa quá!


5.

Đến ngày thứ năm thì Hạo mệt mỏi quá rồi. Anh định về quê chơi 1 tháng để nghỉ dưỡng sức rồi qua lại Mỹ tiếp tục "cày". Nhưng cái mục tiếp khách này anh thấy quá mệt, những người ở đâu rất xa nghe anh về cũng ghé thăm để được anh cho một lọ dầu, một ít áo quần cũ. Thì ra, tiếng lành thì đồn xa, cứ cái đà này, mỗi người đến thăm anh, anh tiếp khoảng 20 phút thì anh cũng mệt ứ hơi rồi, huống hồ gì có người ngồi hỏi anh đủ thứ chuyện.

Anh qua Mỹ mới 5,6 năm, mà cả ngày quần quật trong hãng làm việc, có hôm hãng cho làm over–time thì anh đi từ sáng sớm đến tối mịt mới về nhà, chẳng biết trời trăng mây nước gì cả, về đến nhà cũng không buồn mở Tivi. Ở trong hãng anh làm assembly, nghĩa là công việc sai đâu làm đó, sợ từ người chủ đến supervisor, sợ sẽ không được lòng họ, sẽ không được lên lương, không được kêu làm thêm giờ.


Anh nhiều lúc tự cười với chính mình, tưởng qua Mỹ làm quan làm tướng gì, lại phải chun vào làm công nhân cấp thấp. Sợ mất việc, sợ sếp không vui nên ai cũng phải nói cười hỷ hả trong những lúc, những chuyện không đáng cười chút nào. Sếp đặt đâu làm đó, nhiều khi lại phải nói đệm thêm những câu cho sếp vui lòng. Anh chợt nhớ đến ngày anh còn làm tiểu đoàn trưởng, lúc còn "hét ra lửa", bọn lính thấy anh là sợ xếp vó, đang vui đùa, cười nói đó, thấy anh lại im ngay, họ phải vui theo cái vui của anh, buồn theo cái buồn của anh, quyền lực và đồng tiền vẫn ngự trị mãi trên đời này. Cuộc sống cứ như là một cái bóng, ở đầu này thì thấy đầu kia cao lớn, ở đầu kia thì ngược lại.


Nhân lễ cúng ông bà ngày Hạo về cũng như cúng hai ngôi mộ cha mẹ anh vừa mới xây, anh đưa 500 đô cho chị Nhường lo liệu một bữa tiệc mời dân cả xã đến dự. Chị Nhường đã thuê 2 cây dù lớn, che rợp cả 1 khoảng sân và cả khu vườn, cùng thuê bàn ghế kê san sát để tiếp đãi khách. Trong lòng Hạo coi đây là một lễ tạ ơn, tạ ơn cha mẹ, ông bà, đã cho gia đình anh được đi Mỹ, con cái có tương lai và đời sống chính anh được sung túc hơn, với lại trong thâm tâm, anh cũng muốn nở mày nở mặt với bà con lối xóm. Từ ngày đứt phim, gia đình anh tan hoang, anh em đều đi tù, đều bị đày đọa. Nhưng bây giờ cả hai đều ở Mỹ, anh muốn cho những người cán bộ xã ấp gọi anh là ngụy, nay phải thấy rằng điều anh chọn lựa ngày trước là đúng đắn.

6.

Khi lễ cúng gần xong thì khách khứa cũng lục tục kéo đến. Toàn là những người bà con trong xóm, trong làng ngày trước. Có người lúc anh gặp nạn thì xót thương giúp đỡ, có người quay lưng, có người hận thù đòi đem anh ra xử trước tòa án nhân dân. Bây giờ đã 10 mấy năm trôi qua, mọi điều đã lắng xuống, cũng có một số người làm ra vẻ cố quên.

Hạo ra đứng trước cổng nhà để đón khách, gặp ai anh cũng vui mừng bắt tay thăm hỏi. Ai cũng dừng lại với anh ít phút để hỏi người nọ người kia ở Mỹ hay ở Sài Gòn. Những chức sắc trong Ủy ban nhân dân và công an xã cũng kéo đến dự dù anh không mời. Có lẽ họ nghe anh về và nghe bà con xôn xao bàn tán, họ muốn tới xem thực hư ra sao. Khi tất cả đã vào bàn, thực khách tràn đầy cả một khoảng sân và khu vườn, Hạo đến từng bàn chúc mừng khách, ai cũng níu anh lại làm một ly, dù chỉ nhấp môi cho có lệ nhưng rượu cũng thấm làm anh choáng váng và bừng bốc. Khi anh đến bàn của đám công an và ủy ban thì họ đồng loạt đứng dậy mời anh cạn ly. Anh thấy mặt mày người nào cũng đỏ ửng vì men rượu.

Ông Trà, Chủ tịch ủy ban cầm ly rượu lên mời anh:

– Mừng anh Hạo đã trở về quê thăm bà con, tụi tôi mừng lắm.

– Thì đi lâu cũng nhớ quê nên muốn trở về thăm.

Ông Hữu, Trưởng công an xã, người đã từng quản chế anh trong suốt 3 năm, cũng cầm ly rượu đứng lên:

– Anh Hạo, tụi tôi đến đây dự cùng anh hôm nay cũng có ý là, thứ nhất, chia vui cùng anh, thứ hai là nhờ anh cộng tác với xã để xây dựng một vài công trình mà xã đang còn bế tắc. Đáng lẽ chuyện này phải mời anh ra Ủy ban để nói, nhưng sẵn đây, anh em với nhau cả nói anh dễ thông cảm hơn, xã nhờ anh chung góp một ít để làm cây cầu lỡ mà từ lâu ta không làm được, biết anh ở Mỹ làm ăn dễ dàng với trình độ của anh cũng cao nên chắc làm ăn khá.Thôi thì xin anh đóng góp cho 10 ngàn đô cho công tác chung của xã chắc anh chẳng từ nan.

Ông Hữu nói một hơi dài, cái giọng vẫn còn cái giọng kẻ cả và ra lệnh, Hạo thấy như quá đường đột, anh vẫn biết rằng về quê sẽ gặp những cảnh mồi chài tiền bạc nhưng anh không ngờ anh đang ở trong một hoàn cảnh khó xử như thế này. Anh tìm kế hoãn binh:

– Các anh nói chuyện đó đúng chớ, mình đi xa về phải góp phần xây dựng quê hương chứ anh, nhưng đây là chuyện lớn mình phải có kế hoạch, mai mốt mình sẽ bàn nhiều hơn.

Hạo nói giã lã thêm mấy câu rồi anh tìm cách qua bàn khác sau khi anh nhận một tràng pháo tay dài của đám chính quyền. “Chu cha! Nó nghĩ như 10 ngàn đô la làm ra ở Mỹ dễ dàng lắm vậy, sức như anh làm 10 ngàn cả năm chưa chắc đã có mà còn biết bao nhiêu là chi phí, anh ky cốp, chắt bóp cả hơn 5 năm mới được 7 ngàn mang về mà nay nó bảo đóng góp cho xã 10 ngàn, làm như ở Mỹ đi ra đường là lượm đô la không bằng”. Hạo vừa đi vừa chửi thầm trong bụng.

7.

Tối đó, xong công việc mọi chuyện, Hạo mới khều chị Nhường ra ngoài bàn nói nhỏ:

– Em về đây làm mả cha mẹ, thăm bà con như vậy cũng đủ rồi, hồi hôm bọn ủy ban còn muốn vòi tiền để xây cầu, em kiếm đâu ra, em hứa cho qua chuyện. Thôi thì mai em đi, em vô lại Sài Gòn chơi mấy tuần rồi đi Mỹ luôn, chứ ở đây không yên với họ đâu! 

Chị Nhường hỏi lại:

– Còn chuyện vợ con em tính sao, chị đã nhắn con Lan lên rồi, nó là giáo viên, hơn 30 tuổi chưa chồng, không đẹp nhưng hiền lành.

Hạo thấy chán nản nên nói với chị:

– Em còn khoảng 500, đem về 7 ngàn mà lo công việc và cho bà con cũng gần hết, lại phải vô Sài Gòn ở mấy tuần, thôi chị nói với Lan em qua Mỹ sẽ viết thư về.

Đó là quyết định của anh, Hạo sáng hôm đó nhờ thằng cháu chở xuống bến xe rồi ra thẳng Đà Nẵng mua vé máy bay về Sài Gòn. Chị Nhường vẫn khóc nhưng anh thì đi như một cuộc chạy trốn, anh không có thì giờ để nhìn lại gốc cây bàng ở ngoài chợ, nơi anh ngồi đó suốt 7 năm để vá xe đạp lề đường kiếm ăn. Thôi cái gì cũng nên gói cất trong ký ức.

 

Trần Yên Hòa

Bài Viết Về Cha An - Nguoiviettudo

 Linh mục Phanxico Xavie Trần Văn An thuộc Đan viện Biển Đức Thiên An (xã Thủy Bằng, Hương Thủy- Thừa Thiên Huế)


Vừa mới xem một chương trình phỏng vấn một linh mục -Ngài tên là cha An, mà tôi gọi Ngài là Linh mục Tình Tiền Tù Tội- Đó là những chử tắt còn hiện diện trên mu bàn tay cha , để đánh dấu những tháng ngày đầy nước mắt xưa kia của một vị linh mục dã đi lên từ trong một vũng đen tăm tối . Bởi vì Thiên Chúa đã chọn,Ngài khôngbao giờ lầm.


Mỗi người sinh ra đều mang trong người một sứ điệp Thiên Chúa đã chọn sẵn để làm sáng danh Ngài. Ngài dã chọn cha An trong nhiệm vụ này . Cha đang cố gắng xây dựng một nhà tỉnh tâm cho những anh em lở bước chân theo con dường nghiện ngập . Lập luận của cha rất thực tế - và rất đúng - Chính những người này mới rất cần một nơi chốn để tỉnh tâm . Cha tâm sự là cha thường tỉnh tâm cho các nử tu, nhưng thật ra có khi các chị còn giỏi hơn mình. Trong khi những anh em " nghiện ngập" những người rất cần một nơi chốn , có người giúp được mình tỉnh tâm lại không có . Và khi bắt tay vào việc mới thấy những kết quả rất đáng khích lệ . Bởi vì những người nghiện ngập không phải là tội phạm và họ cần được coi sóc như những người lầm đường, cần một second change . Hãy đối xử với họ như một con người , yêu thương họ giùp họ nhìn thấy đường trở về . ( Tôi có đề cập đến chuyện này trong bài viết " Giấc Mơ" nói về một Bộ Trưởng Bộ Xã Hội Dã làm cho nạn nghiện ngập và đỉ điếm biến mất khi những người có tràch nhiêm đã đối xử với  họ như những con người ( với tình yêu thương chứ không phải trừng phạt) . Các nước trên thế giới nên áp dụng triết thuyết này trong việc trị liệu những trường hợp trên.


Cha An có lẽ là người đầu tiên ở Việt Nam -và có thể là trên thế giới- đã tiên phong dấy động nên phương án này . Cha đã nhìn thấy tâm điểm của vấn đề : những người nghiên ngập không phải là tội phạm họ chỉ là những người lầm lỡ và nên được đối xử như thế. Họ cần được yêu thương , thông cảm và hổ trợ để đủ sức đối đầu và nói " không " với cám dổ, không cho họ có diểm tựa và sức mạnh , việc lôi họ ra khỏi sự trìu kéo của nghiên ngập coi bộ bất khả thi . Một điểm son khác mà những người như thánh Nử Theresa thành Calcutta và cha An cùng có chung là  nhìn những người bất hạnh (cùi hủi, nghiện ngập)  trong hình ảnh của chúa Giê Su vác Thập Giá và tìm cách làm nhẹ đi phần nào sự đau khổ của Ngài .

Một trong những hổ trợ mạnh mẻ nhất cho những người như thế là nhờ vào lời cầu nguyện . Nhất là vòng chuổi Mân Côi : Trong một bài hát của cha An có câu như thế này " Ước gì một câu kinh có thể cứu rổi được môt linh hồn ".

Cầu xin project của cha An sẽ thành công qua sự cầu bàu của Mẹ Maria rất thánh và hồng ân Thiên Chúa sẽ đổ tràn đầy hồng ân xuống cho cha An và mọi người cùng chí hướng như lời cầu xin trong Kinh Hoà Bình

" Xin thần Linh Thánh Ái Ban cho những ai tràn đầy thiện chí ơn An Bình

Viết Thêm Một chút:

nhiều người thường tự hỏi : mình sống để làm gì ? mình sinh ra, sống và cuối cùng nhắm mắt xuôi tay vì mục đích gì ?. Theo tôi  theo cái nhìn của một người Công Giáo thì chủ đich sống của một người Công Giáo là để LÀM THIÊN CHÚA Mĩm Cười .

Nhưng làm Thiên Chúa mĩm cười dể hay khó ? không dể chút nào nhưng tất cả những triết lý và cách dể làm Thiên Chúa mĩm cười nằm hết trong lời Kinh Hoà Bình của Thánh Phan xi Cô thành Saviê, một bài hát dài nhưng đầy xúc động :

Triết lý đạo Công Giáo nằm hết trong bài hát này

- Đem yêu thương vào nơi oán thù, thứ tha vào nơi lăng nhục đem ánh sáng vào nơi tối tăm, niềm vui đến chốn u sầu, đem chân lý vào chốn lổi lầm .Và họ đặt tiêu chuẩn cho mình ; tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn dược người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn đươc người mến yêu và tại sao họ đòi hỏi những diều đó ? bởi vì :

-Vì chính khi thứ tha là khi đưộc tha thứ, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính hiến dâng là kghi được nhân lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời .

Và họ tha thiết nài xin :

Ôi Thần Linh Thánh Ái xin ban ơn xuống những ai lòng đầy thiện chí : Ơn An Bình .

Không dể nhưng không phải không thể để làm cho Thiên Chúa mĩm cười . Và làm được Thiên Chúa Mĩm Cười người Công giáo đã hoàn tất công tác sự có mặt của mìnhtrên thế gian

Triết lý đạo Công Giáo không phải ai cũng hiểu được Nhưng bởi vì chính Thiên Chúa phán ra nên không thể sai lầm :

-Cả Thiên Đàng vui mừng khi có một ngườilầm lạc trở về

- Người chăn để 99 chiên lành mà đi tìm kiếm con chiên lạc và khi tìm đượcvác chiên lên vai trở về khoe với mọi người : Hãy chung vui với tôi vì tôi đã tìm được con chiên lạc

- Người khoẻ mạnh không cần bác sĩ mà là những người bệnh tật

- Đừng lên án để khỏi bị lên án, hãy làm cho người khác những gì anh em muốn người ta làm cho mình

- Tôi đến  vì những con chiên lạc, những người tội lổi đáng thương chứ không phải vì những người tốt lành

Và với riêng tôi : câu chuyện về tình yêu của Thiên Chúa đối với con cái chính là câu chuyện về " Người con hoang đàng" mà mỗi lần nghe tới trái tim luôn ngậm ngùi.


Nguoiviettudo

Liễu Rũ Trăng Chờ - Đỗ Công Luận

Có Ai Còn Nhớ: Ban Nhạc Tuổi Xanh

Mời xem tấm ảnh Ban nhạc Tuổi xanh có nhạc sĩ Quốc Dũng (vừa qua đời) chụp năm 1962, thấy những gương mặt đẹp tựa thiên thần. Yêu nhất là cô bé con, chắc giờ cũng U70.
Xã hội nào, con người ấy. Thật tiếc về một dĩ vãng vàng son.




Muốn biết chính trị xã hội có tốt đẹp hay không cứ nhìn gương mặt người dân.


Kim Duncan chuyển

Wednesday, September 27, 2023

Mỹ Đã Làm Được Gì Cho Nhân Loại?

 

VỚI TINH THẦN KHAI PHÓNG, XIN ĐĂNG LẠI NGUYÊN VĂN BÀI VIẾT "MỸ ĐÃ LÀM ĐƯỢC GÌ CHO NHÂN LOẠI" - Facebook TV

(Thay lời muốn nói : Tôi, bạn, chúng ta có thể thích hay không ưa Mỹ nhưng vẫn xài đồ Made in USA! Ok!

*

Có thể bạn không quan tâm tới nước Mỹ, coi người Mỹ như kẻ thù, thì Mỹ vẫn ảnh hưởng chi phối rất nhiều đến mọi sinh hoạt bình thường của bạn đấy.

Cùng thống kê một vài cái của Mỹ mà người Việt chúng ta hay dùng nhất nhé.

Khi bạn đọc status này có nghĩa là bạn đang dùng một sản phẩm của Mỹ đấy!

Mạng xã hội Facebook được thành lập vào năm 2004, người sáng lập ra mạng này là Mark Zuckerberg, cùng với các sinh viên Đại học Harvard và bạn cùng phòng là Eduardo Saverin, Andrew McCollum, Dustin Moskovitz, Chris Hughes (tất cả đều là công dân Mỹ). Facebook thuộc sở hữu của Meta Platforms có trụ sở tại Menlo Park, California. Mỹ.

Câu thơ vui của dân mạng nói rằng: "Dân ta phải biết sử ta

Cái gì không biết thì tra Google"; mà Google là một phát minh vĩ đại của Mỹ. Google được thành lập vào năm 1998 bởi Larry Page và Sergey Brin trong khi họ là nghiên cứu sinh đã có bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford, California. Mỹ.

Mạng internet bạn đang dùng hiện nay là một phát minh của Mỹ. Internet khởi nguyên từ năm 1960 bởi quân đội Mỹ. Họ giữ kín dùng riêng suốt 20 năm, mãi đến những năm 1980 thì bắt đầu thương mại hóa và 1990 trở đi thì bắt đầu phủ kín toàn cầu.

Mỗi ngày bạn nhận và gửi email cho người khác. Trời ơi… lại đụng tới Mỹ luôn. Email được nghĩ ra từ năm 1971 bởi lập trình viên Ray Tomlinson của Bộ Quốc phòng Mỹ nhằm giúp nhân viên trong cơ quan trao đổi thông qua một mạng lưới liên kết thay cho việc trực tiếp cầm thư từ văn bản "giao tận nơi".

Đang đi đường mà thấy đèn xanh đèn đỏ là của Mỹ đó. Đây là phát minh được tạo ra vào năm 1912 của người Mỹ nhằm giúp giảm thiểu các vụ tai nạn giao thông cũng như nạn ùn tắc xe cộ.

Nóng quá bật máy lạnh lên cái nào. Chiếc máy điều hòa nhiệt độ đầu tiên được chế tạo bởi kỹ sư người Mỹ Willis H. Carrier vào năm 1902.

Về nhà bật lò vi sóng lên để hâm đồ ăn. Thôi rồi cũng gặp Mỹ!

Năm 1945, kỹ sư Percy Spencer đã chế tạo ra một thiết bị phát cao tần cho radar cho công ty Raytheon, nhằm giúp radar nhạy hơn qua các bước sóng khác nhau. Cuối cùng ông vô tình nhận ra thanh chocolate bị biến dạng và nấu chảy khi được đặt bên trong thứ mà sau này chúng ta gọi là lò vi sóng.

Nếu trên tay của bạn đang dùng iPhone thì cũng là của Mỹ.

Chiếc Smartphone đầu tiên được hãng IBM chế tạo năm 1992 với tên Simon Personal Communicator. Chiếc điện thoại di động cầm tay đầu tiên trên thế giới là chiếc Motorola DynaTAC 800x được chế tạo năm 1983 tại Mỹ. 15 năm sau, iPhone mới ra đời ở Mỹ.

Nếu bạn không dùng iPhone vì nó là của Mỹ mà chuyển qua dùng Samsung của Hàn Quốc... nhưng cách này cũng không thoát Mỹ được vì Samsung phải sử dụng hệ điều hành Android của Mỹ đó.

Android là một hệ điều hành dựa trên nền tảng Linux thiết kế dành cho các thiết bị di động có màn hình cảm ứng như điện thoại thông minh và máy tính bảng. Ban đầu, Android được phát triển bởi Android Inc một công ty của Mỹ với sự hỗ trợ tài chính từ công ty lớn khác của Mỹ là Google và sau này Android Inc được chính Google mua lại vào năm 2005.

Android ra mắt vào năm 2007 cùng với tuyên bố thành lập Liên minh thiết bị cầm tay mở, một hiệp hội gồm các công ty phần cứng, phần mềm, và viễn thông với mục tiêu đẩy mạnh các tiêu chuẩn mở cho các thiết bị di động. Chiếc điện thoại đầu tiên chạy Android được bán vào năm 2008 tại Mỹ.

Các kênh truyền hình và TV màu bạn đang xem là phát minh của người Mỹ à nha. Hệ thống truyền hình màu đầu tiên thiết kế bởi công ty Radio Corporation of America bắt đầu phát sóng ngày 17.12.1953.

Chiếc TV màu đầu tiên cũng được chế tạo bởi hãng này được xuất ra thị trường năm 1954 tại Mỹ.

Bạn giải trí bằng cách xem video nghe nhạc trên nền tảng Youtube cũng là của Mỹ luôn nè… he he

Soạn thảo văn bản bằng Word, Excel, trình chiếu Power Point trong bộ Microsoft Office cũng là của Mỹ đó nha.

Đi đường bị lạc bấm Google Maps lên cũng là đang dùng sản phẩm người của Mỹ luôn!

Các bộ phim, video bạn đang xem đa số đều dùng phần mềm Adobe Premiere của Mỹ để dựng…à nha!

Photoshop để chỉnh sửa ảnh cũng của Mỹ luôn đó nghe.

Bất kể chiếc máy tính bạn dùng nhãn hiệu gì, sản xuất ở đâu thì "bộ não" CPU của nó chỉ có thể là sản phẩm của Intel hoặc AMD, hai hãng điện tử của Mỹ. Nếu không có nó thì bó tay.

Bạn đi máy bay là nhờ phát minh của ngườ Mỹ. Vào năm 1903 hai anh em nhà Wright sống tại Dayton, bang Ohio, Mỹ đã làm thay đổi lịch sử thế giới bằng sự phát minh ra chiếc máy bay đầu tiên.

Đèn điện mà bạn đang thắp là phát minh của ông Thomas Edison một người Mỹ. Chính phát minh này đã mang lại ánh sáng và sự văn minh cho cả thế giới loài người, đồng thời đã khai sinh cho ngành công nghiệp điện của thế giới.

Kể chừng đó thôi... vẫn còn rất nhiều cái của Mỹ nữa...

...

(Saigon, 19.8.2023. Ảnh Nữ thần tự do, sưu tầm trên internet, không minh họa bài viết đăng trên TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM; Xin miễn thứ bản quyền)

Tu Hành Giải Thoát - Minh Lương

Trận Cuối - Tưởng Năng Tiến


Tặng Võ Hoàng

“Từ máy thâu thanh cô nàng hát nhanh, trọn kiếp thương anh lính trẻ xa nhà, tôi là người đi lính miền xa, nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu… nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu.” 

Câu cuối (“nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu”) Sáu Mù ca thêm lần nữa, và lần nào y cũng nhắm mắt lại thiệt chặt. Bẩy Què khoái chí cười sằng sặc, bỏ đờn xuống, bàn: 

-Bản này mày ca tới hơn bản Xuân Này Con Không Về, mà đều mày đừng có nhắm mắt lại … 

-Sao vậy? 

– Mày đui mà, mắt toàn tròng trắng không hà, mở ra hay nhắm lại thì cũng “có thấy gì đâu.” Làm như vậy làm chi cho nó mất công mà tao ngó sao mắc cười quá hà… 

-Ờ…!

Sáu Mù ờ rất yếu và mặt thoáng trầm ngâm. Y bị tật nguyền đã bao nhiêu năm mà vết thương, đôi lúc, tưởng chừng như vẫn chưa kéo da non. Một va chạm nhẹ vẫn có thể gây ra cái cảm giác đau đớn khó chịu. Bảy Què đang cười bỗng khựng. Nhìn mặt bạn nó biết liền là mình vừa giễu dở nên vội vàng biện bạch, khỏa lấp :

– Cũng như tao vậy, mày thấy có khi nào tao ca bản “đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm” mà hồi tụi mình học ở Vương Mộng Hồng đâu. Còn có một giò mà cứ làm bộ ắc ê đếm nhịp “một, hai, ba, bốn; một, hai, ba, bốn” hoài coi nó kỳ thấy mẹ ! 

– Vậy bữa nào rảnh mày dợt cho tao bài Người Nghệ Sĩ Mù đi. Bản đó tao hát nghe mà không rớt nước mắt tao làm con mày. 

– Bản đó mới vô làm sao cà? Bảy Què băn khoăn đưa tay lướt nhanh trên phím đàn mò nốt. 

-Tự nhiên tao cũng quên mất tiêu. Tao nhớ là hồi đó mình hay nghe ở cái quán cà phê gì ngoài Ðà Nẵng đó. Lúc mới vô đầu in tuồng có tiếng đờn, rồi tiếng tiền cắc thẩy vô lon nghe keng, keng… 

-Thôi tao nhớ rồi… Bản này của Hoàng Thi Thơ, Hùng Cường ca chớ đâu. Rồi Bảy Què lấy giọng vô luôn: “Ai dừng chân nơi đây buông lòng theo câu ca. Tôi ngồi trong bóng tối nghe đời đi ra xa…” 

– Nó đó… 

– Mà không được đâu… 

– Sao vậy? 

– Hát bản này nghe giống như hai thằng mình đi ăn xin vậy. Tụi mình đâu có đi hát dạo kiếm ăn. Mình có trách nhiệm đàng hoàng mà, đúng không ? 

– Ờ. 

Lần này Sáu Mù “ờ” mạnh hơn và thốt nhiên nghiêng đầu nở một nụ cười rạng rỡ. Y luôn luôn thấy thích thú, vui vui sướng khi nghe Bảy Què nhắc đến chuyện ‘trách nhiệm” của hai thằng. Sáu Mù không nói ra được những điều mình biết và mình nghĩ trong lòng rành mạch như Bảy Què nhưng y khoái nghe bạn nhắc đi nhắc lại “nhiệm vụ” và “ý nghiã” này nọ. 

Có bữa cao hứng Bảy Què còn nói lung tung về tác dụng của chiến tranh tâm lý, tác dụng của nhạc trong tâm hồn quần chúng… Sáu Mù thiết tha được nghe cũng như Bảy Què khát khao được nói. Cả hai không bỏ lỡ cơ hội nào để bồi đắp niềm tin về cái ý nghiã xa xôi, mơ hồ nhưng cao đẹp cho phần đời thân tàn ma dại còn lại của hai thằng. 

Thường ngày hai thằng ngồi bên ngoài chợ trời. Bảy Què bầy đồ nghề trên một cái bàn xếp chỉ lớn bằng bề mặt hai cuốn tập và cái bảng nhỏ cạnh bên: “Vô Mực Ruột Viết Bic và Sửa Hộp Quẹt Zippo Giá Rẻ.” 

Sáu Mù thì không làm được chuyện này. Y vừa ngồi thổi sáo vừa bán sáo. Cái nghề này kiếm ăn không khá. Sáu Mù sống lây lất được là nhờ sự đắp đổi của bạn. Ðiều này vẫn thường làm cho y buồn và mang nhiều mặc cảm. Bảy Què cứ phải an ủi hoài hoài: 

– Mày kiếm tiền không nhiều được bằng tao nhưng mày có dịp thổi sáo cả ngày. Cái lợi là mình làm cho những người khách qua đường được nghe tới nghe lui bản Lòng MẹCon Thuyền Không Bến … 

-Lợi làm sao ? Bảy Què đã nói cả trăm lần như vậy rồi mà lần nào Sáu Mù cũng ráng hỏi lại. 

-… Thì… người ta nghe mấy bản nhạc đó thấy đã tai hơn là nghe mấy bản nhạc chướng tai của tụi nó chớ sao. Từ đó người ta nhớ thời cũ và càng chán cái thời chó đẻ này. Làm được như vậy là kể như tụi mình đang chiến đấu rồi. Cái này kêu bằng chiến tranh tâm lý mà Sáu! 

Thiệt ra cái kêu bằng “chiến tranh tâm lý” này không phải là ý kiến của Bảy Què. Y chỉ lập lại những điều mà anh Hai hay nói cho tụi nó nghe thôi. 

Hai thằng quen anh Hai lâu rồi. Bữa đó, chợ trời bị bố ráp, rượt bắt một trận tơi bời. Bảy Què mất hết đồ nghề, mất luôn cây nạng. Sáu Mù cũng quờ quạng sao đó để mất luôn hết lưng vốn của mình, hai chục cái ống sáo. Sáu Mù cõng bạn chạy mà mệt muốn đứt hơi. 

May mắn gặp được anh Hai. Anh bỏ hai thằng lên xe chở tuốt về xóm. Từ đó anh Hai trở thành người anh kết nghĩa và ân nhân của hai thằng. Sáng, anh bốc hai thằng bỏ lên xe chở ra chợ. Chiều, anh cho hai thằng về. Lâu lâu còn có bữa anh “vớt” hai thằng về sớm hơn giờ đã định, đưa ra đường Hàm Nghi uống rum Lebon và nhậu củ kiệu với hột vịt bắc thảo. Anh Hai không bị đui, cũng không bị què. Anh chỉ bị chột mắt thôi. 

Anh Hai không bao giờ nói cho Bảy Què và Sáu Mù nghe về dĩ vãng của mình. Thường ảnh hay trầm ngâm và buồn. Lâu lâu anh Hai mới nhỏ giọng, nghiêm trang nói chuyện với hai thằng, với giọng nói rất chân tình và thuyết phục. 

Từ anh Hai mới có chuyện chiến tranh tâm lý: “Cuộc chiến của mình vẫn đang âm thầm tiếp diễn trên mọi mặt trận. Hai em phải thấy, tụi nó chiếm được thành mà không chiếm được lòng người thì chưa kể được là thắng; hiện tại tụi nó không những đã làm mất lòng người mà còn mất luôn cả lòng sĩ tốt của nó nữa. 

Chung cuộc, tụi nó sẽ thua.Vấn đề của anh em mình bây giờ là phải chiến đấu, đóng góp toàn lực trong khả năng riêng của từng thằng để rút ngắn con đường đưa đến chiến thắng càng sớm càng tốt…”

Ðã nhất là anh Hai làm cho Sáu Mù và Bảy Què thấy rằng tụi nó không phải là kẻ tàn tật đứng bên lề cuộc đời. Tụi nó vẫn có khả năng, không những chỉ để sinh tồn mà còn để chiến đấu chống lại kẻ thù nữa. 

Từ đó, mỗi buổi chiều trở về xóm nhỏ thay vì chỉ nằm hát nghêu ngao chơi cho đỡ buồn thì Sáu Mù và Bảy Què tập nhạc ráo riết. Mỗi tuần hai thằng được bà con vỗ tay tán thưởng, chia xẻ với niềm tin chung mãnh liệt của tất cả mọi người: Cuộc chiến vẫn cứ đang tiếp diễn. 

Lúc anh Hai tới thì Bảy Què và Sáu Mù đang cãi cọ về bản Sài Gòn Vĩnh Biệt. Sáu Mù thích chơi bản đó nhưng bị Bảy Què cự nự: 

– Người ta chán nghe hát tới hát lui “Sài Gòn ơi, anh xin hứa, rằng anh trở về” rồi! Nghe láu cá chết mẹ. Có thấy ai về đâu nào? 

– Nhưng mà – Sáu Mù nhỏ nhẹ – bà con vẫn cứ mong chớ đâu có chán. Mình ên mày không thích rồi mày nghĩ ai cũng vậy sao? 

Anh Hai can thiệp: 

– Thôi trễ rồi nha hai đứa. Thì cứ để cho thằng Sáu nó ca; bản nào bà con vỗ tay nhiều thì hát tiếp không thì tuần sau bỏ. 

Bốc hai thằng lên xe, đạp ra khỏi con hẻm rồi anh Hai mới hỏi: 

– Chiều nay tụi mày tính “hành quân” ở đâu đây? 

– Cho tụi em xuống trạm xe buýt ở góc Trương Công Ðịnh và Nguyễn An Ninh đi. 

– Hát ở ngay đó tụi công an nó đá cho dập mật à. 

– Ðâu có, tụi em đón xe lên Tân Cảng mà. Thì cũng làm y chang như mấy lần trước vậy. Ði xe đường dài, khúc nào khách không chen chúc quá đông thì mình làm vài bản. Lần quần chiều nay mà tụi em chơi chừng hai chục bài là coi như tạm đủ để trả nợ núi sông rồi. 

-Ðược – anh Hai tán thành – “kế hoạch hành quân” vậy là tạm ổn. Nhớ đừng chơi Giã Từ Vũ Khí nha, mấy cha. Cái gì mà “trả súng đạn này anh sạch nợ sông núi rồi!” Nghe rầu quá hà. Sạch sao được?

Sáu Mù bắt liền: 

– …“Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi. Xin trả lại đây, trả lại đây… “

– Thôi mà Sáu – Bảy Què dấm dẳng – sao mày toàn thích toàn mấy bản nhạc yếu xìu không vậy ? 

Cụt hứng, Sáu Mù tắt đài, chống chế bâng quơ : 

– Bị nó làm tao nhớ ông thượng sĩ Tâm, ổng già rồi mà hay ca: “Rồi anh sẽ qua thăm nhà em, với miếng cau với miếng trầu ta làm lại từ đầu..” nghe thấy đã. 

Tới trạm vừa kịp lúc xe đến. Anh Hai đẩy Bảy Què lên trước rồi dắt Sáu Mù lên sau. Trước khi quay đi anh không quên dặn: 

– Chừng bảy giờ tao chờ tụi mày ở đây nha. 

Ở ngay trạm chính xe chật ních người. Bảy Què đút gọn cái nạng dưới gầm ghế, ôm sát cây đờn ghi ta để đứng trước ngực, ngồi che một khoảng nhỏ vừa đủ cho Sáu Mù dựa lưng vào thành xe và bó chặt hai đầu gối. 

Xe ngừng ở trạm Nguyễn Du rồi Pasteur. Người xuống nhiều hơn người lên. Sàn xe bắt đầu có khoảng trống đủ rộng có thể di chuyển dễ dàng. Bảy Què đẩy bạn lết ra giữa đường đi và bắt đầu dạo đờn nhè nhẹ làm cho mọi người chú ý. 

Theo đúng chương trình hai thằng sẽ mở đầu bằng bản Trên Ðầu Súng

“Trên đầu súng quê hương, Tổ quốc đã vươn mình 

Trên lưỡi lê căm hờn, hờn căm như triều sóng

Ôi xôn xao chiêng trống hối thúc đã giục giã khắp chốn rộn ràng

Ôi lửa thiêng dậy bập bùng tay lửa tay vung kiếm

Trên đầu súng xâm lăng xiềng xích với bạo tàn

Trên lưỡi lê nô lệ cùm gông phải đổ nát…” 

Người nghe không những chỉ chú ý mà còn hơi sửng sốt. Hát dạo trên xe buýt không phải là một hiện tượng xa lạ nhưng những từ ngữ  “nô lệ” hay “cùm gông”… thì quả thực là hơi  lạ tai và cũng đã tai! Nhắm thấy có bộ được, Bảy Què và Sáu Mù tiếp luôn bản Cờ Bay:

“Cờ bay. Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu 

Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu 

Cờ bay. Cờ bay tung trời ta về với quê hương 

Từng ngóng đợi quân ta tiến về 

Ta ôm nhau mắt lệ nghẹn ngào quỳ hôn đất thân yêu 

Quảng Trị ơi, chào quê hương giải phóng 

Hồi sinh rồi này mẹ này em 

Vui hôm nay qua đêm đen tìm thấy ánh mặt trời 

Ði lên. Ði lên trên hoang tàn ta xây dựng ngày mai”

Bản nhạc chấm dứt nhưng không ai vỗ tay. Bảy Què ngước nhìn lên và bắt gặp một hai người đang lấy tay chùi nước mắt. Y xúc động đến bối rối và cũng muốn khóc theo luôn. Y vừa đàn, vừa nói thầm với chính mình nhiều lần ‘nhảy dù cố gắng” để ngăn cho nước mắt khỏi chẩy. 

Sáu Mù thì chưa cảm nhận được kịp phản ứng của thính giả, vẫn tiếp tục say mê ngồi hát. Chương trình tiếp nối bằng một bản Trên Bốn Vùng Chiến Thuật

“Năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai. Người yêu tôi mới quen mà thôi..”  Năm hai mươi mốt tuổi, Sáu Mù cũng đi vào quân đội. Tiểu Ðoàn Chín Nhảy Dù. Và người con gái y mới quen mà thôi ở quận Thượng Ðức – cách đây đã bao năm – mãi mãi vẫn còn trong tâm tưởng như một chiếc bóng đậm mầu. 

Lúc đơn vị đang tiến chiếm đồi 1062 thì Sáu Mù bị thương ở mắt. Y được trực thăng đưa thẳng về Tổng Y Viện Cộng Hoà. Giữa cái lúc nằm đau xót, mê man trên máy bay, Sáu Mù vẫn cứ nhớ và tiếc một điều: Y đã không có dịp để nói với người ta một câu từ tạ, dù là “tạ từ trong đêm!”

Mắt Sáu Mù được giải phẫu xong đúng bốn ngày thì Sài Gòn thất thủ. Y bị đẩy ra khỏi bệnh viện để dành chỗ cho phe thương binh thắng trận. Sáu Mù vĩnh viễn “giã từ ánh sáng” kể từ lúc đó. Cũng từ đó, không có thêm một người con gái nào lọt được vào đôi mắt trắng dã của y nữa. 

Trong cái bóng đêm dài hết một đời này, thỉnh thoảng, vẫn lóe sáng hình ảnh của hai người đàn bà: Người mẹ và người con gái tóc thề mà Sáu Mù chưa kịp hỏi tên ở quận Thường Ðức. Những lúc lần dò, lê la ngoài hè phố hay trên xe buýt như thế này, tự thâm tâm Sáu Mù vẫn vừa mong mỏi, vừa lo sợ một điều: Bất ngờ gặp lại được mẹ hay cố nhân. 

Khi bản nhạc chấm dứt thì Sáu Mù không còn thể nào ngăn được nước mắt đã lăn nhẹ trên đôi gò má trơ xương của y. Nhiều hành khách khác cũng khóc. Không khí trên xe trầm lắng đến nặng nề. Mọi người đều im lặng, thẫn thờ như họ đang bị thôi miên. Tài xế và lơ xe vẫn thi hành phận sự một cách bình thường, như không có chuyện gì quan trọng xẩy ra, dù nét mặt của cả hai bỗng nghiêm và buồn… thấy rõ! 

Em bé bán chuối chiên cẩn trọng gói một trái chuối bự nhất, nhẹ nhàng mang đến đặt vào tay Sáu Mù. Cái cảm giác nong nóng ở tay khiến y biết ngay là có một người nào đó đã động lòng và dấm dúi cho mình một phần lương thực. Sáu Mù không cảm thấy bị xúc phạm, y chỉ càng tủi thân thêm. Mãi đến lúc đó nhiều người mới nhìn thật kỹ Sáu Mù và Bảy Què. 

Họ chợt nhận ra trước mắt mình là hai người thương binh – dù quân phục đã cũ nát, tả tơi và phù hiệu đơn vị đã bạc màu – chứ không phải là những kẻ ăn xin hát dạo như thường thấy. Sáu Mù đã cảm nhận được hết cái không khí thương yêu chia xẻ quanh mình. Y xúc động đến run người. May mắn là sự mù lòa giúp cho y đỡ bối rối hơn là Bảy Què trong lúc này. Bảy Què phải cúi gầm mặt xuống, tránh những ánh mắt chứa chan thiện cảm của những người xung quanh. 

Cảm tình của thính giả làm cho Bảy Què luống cuống. Bần thần một hồi y mới lấy lại được bình tỉnh. Y vội vàng chuyển nhịp, chơi bản Hội Nghị Diên Hồng

“Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến? Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển… Toàn dân Tiên Long, sơn hà nguy biến ! Hận thù đằng đằng nên hòa hay chiến?” 

– Quyết Chiến!

Tiếng hô đáp bất ngờ của nhiều người trong xe khiến Bảy Què và Sáu Mù tưởng như có một luồng điện chạy qua người. Không riêng gì hai thằng mà có lẽ là tất cả mọi hành khách đều xúc động mãnh liệt. Sau đó có đến hơn chục người cùng cất cao giọng hát chung với hai thằng. Xe ngừng lại ở một vài trạm kế tiếp, không ai xuống. Lác đác chỉ có người lên. 

Mặc kệ cho những người mới bước lên xe ngơ ngác, Bảy Què, Sáu Mù và nhiều hành khách trên xe cứ hát. Sau khi “chiều” theo mọi người hát đi hát lại bản Hội Nghị Diên Hồng đến lần thứ ba, Bảy Què mới chuyển nhịp qua được bản Mẹ Việt Nam Ơi Chúng Con Vẫn Còn Ðây

“Nhưng mẹ ơi, giờ đây sao mẹ khóc 

Hai vai gầy run rẩy nát tâm can

Lệ hồng pha Bến Hải nước tràn dâng

Áo nâu nghèo mẹ khóc để phơi thân

Một đàn con giờ quên ơn nuôi dưỡng

Súng đạn cầy tan nát luống quê hương… 

Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than

Xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam

Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng than khóc nữa

Vì chúng con của mẹ vẫn còn đây…”

 

Xe đến trạm cuối – Tân Cảng. 

Bản nhạc cuối cùng cũng vừa vặn chấm dứt ở đó. Mọi người lục tục xuống xe. Họ đi qua chỗ hai thằng, không quên nhét vội vào túi tụi nó những đồng tiền lẻ. Có người lục tìm mãi túi mình rồi bối rối nhét đại vào áo Sáu Mù một ít… thuốc rê! 

Hai thằng ngồi sượng sùng đón nhận những câu nói “cảm ơn” nho nhỏ và những đồng tiền, những món quà rơi như mưa vào người mình. Riêng Bảy Què thì không dưng mà chợt nhớ đến cái lúc mà y ngượng ngập, cúi đầu nhận vòng hoa chiến thắng, từ tay của em nữ sinh Trưng Vương, vào một buổi sáng (nào đó) đã xa lắc, xa lơ… .

Trong đám hành khách, có hai người không móc tiền mà cũng không móc thuốc. Họ rút từ trong người ra khẩu K.54 dí vào ót của hai thằng. Cái cảm giác thép lạnh làm Sáu Mù điếng người. Hắn ú ớ lên tiếng hỏi : 

– Làm cái gì vậy ? 

– Về đồn rồi biết… 

Bảy Què hốt hoảng: 

– Làm việc cho CIA chống phá cách mạng chứ còn làm gì nữa. 

Ðám đông hiếu kỳ còn đang kinh ngạc, tần ngần, nghe đến mấy chữ “CIA” liền bước nhanh xuống xe, vội vàng tản mát ra xa. Tay phải cầm súng, tay trái nắm cổ áo của Sáu Mù và Bảy Què, hai người đàn ông lực lưỡng lôi hai thằng xuống xe như lôi hai con chó! 

…Chuyến xe buýt cuối cùng Tân Cảng – Sài Gòn đã đỗ trạm từ hồi xẩm tối nhưng anh Hai vẫn neo xe chờ Sáu Mù và Bảy Què cho đến tận khuya. Anh biết chắc hai thằng em mình “thua” rồi nhưng vẫn cứ chờ. Làm sao mà bỏ đi liền cho đặng? 

Ngày xưa khi còn là một hoa tiêu trực thăng anh Hai cũng đã đi đón hụt nhiều chuyến như vậy rồi. Cái cảm giác mất mát lúc mang máy bay về không giữa đêm trường bao la sau khi đón hụt những toán biệt cách không làm cho anh thấy khổ sở và bứt rứt khủng khiếp như bây giờ. 

Hút đến điếu thuốc cuối cùng rồi anh Hai leo lên xe lầm lũi đạp ra hướng sông, sông Sài Gòn. Bờ sông vắng , nước đen, gió lạnh. “Sông đưa người rồi cũng mỏi mòn trông!” Anh Hai lẩm nhẩm một câu thơ chợt len vào trí nhớ, và chưa bao giờ thấy mình cô đơn như vậy. 

Anh nghĩ đến những thằng bạn đồng ngũ còn lận đận ở tận những phương trời xa xôi và tiếp tục lẩm nhẩm: “Tụi nó đều còn nguyên vẹn hết mà đã bao năm rồi, sao không thấy đứa nào quay trở lại. Trận chiến này chưa chấm dứt mà…”

 

Tưởng Năng Tiến