Monday, September 1, 2025

Quần Đảo Đặc Biệt Mỗi Cư Dân Đều Sở Hữu Hẳn Một Hòn Đảo Cho Riêng Mình

 

Trên thế giới có rất nhiều hòn đảo được mệnh danh là "thiên đường". 

Trong đó, Thousand Islands dù không phải nơi được mệnh danh là "thiên đường" nhưng lại gây thương nhớ bởi khung cảnh thiên nhiên bao phủ tuyệt đẹp. 

Nằm giữa vùng biên giới của Mỹ và Canada, quần đảo này bao gồm 1.864 hòn đảo trải dài khoảng 80km, khởi nguồn từ phía Đông Bắc hồ Ontario Canada dọc theo con sông Saint Lawrence.

Tại quần đảo này, có rất nhiều ngôi nhà được xây dựng trên những hòn đảo biệt lập để làm nơi nghỉ dưỡng lý tưởng.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 1.

Quần đảo Thousand Islands với hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ


Để được coi là một hòn đảo trong Thousand Islands, diện tích nổi trên nước ít nhất phải ở mức 0,1 mét vuông, nổi trên nước quanh năm và có ít nhất một cái cây sống. Trong số hơn một ngàn hòn đảo này, có những nơi rộng cỡ 64 km vuông nhưng cũng có những hòn đảo nhỏ chỉ đủ để xây lên cho một ngôi nhà duy nhất.


Tại quần đảo này, Heart Island được xem là trái tim của ngàn đảo, nơi lưu giữ những câu chuyện tình lãng mạn. Bên cạnh đó, khung cảnhthiên nhiên lãng mạn của quần đảo này vào mùa thu khi lá xanh bắt đầu chuyển vàng, hòa quyện cùng làn nước trong xanh khiến hòn đảo này tựa như chốn thần tiên trong truyện cổ tích.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 2.

Khung cảnh đẹp đến nao lòng tại Thousand Islands vào mùa thu.

Ngoài ra, nơi đây cũng nổi tiếng với cây cầu dài 1,5km nối hai nước Mỹ - Canada bắc ngang qua Thousand Islands. 

Cây cầu này được xây dựng từ năm 1938, là nơi chứng kiến nhiều biến cố lịch sử thế giới. 

Khi du khách đứng trên cầu, cũng có thể phóng tầm mắt để thưởng thức phong cảnh toàn thể Thousand Islands mà không hề bị ngăn cản bởi hai chữ "biên giới".

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 3.

Nhờ phong cảnh đẹp cùng sự riêng tư tuyệt đối tại đây, nhiều hòn đảo đã được chọn làm nơi sinh sống và nghỉ dưỡng của nhiều người.

Ngoài những ngôi nhà đơn, nhà đôi thông thường, có những hòn đảo với diện tích lớn còn được xây dựng tòa lâu đài bên trên với hàng cây bao xung quanh.

Được biết, phương tiện đi lại giữa các hòn đảo và đất liền chủ yếu bằng tàu thuyền. Tất nhiên, hầu hết các hòn đảo này đều có điện được cung cấp năng lượng từ cối xay gió và thủy điện.

Dịch vụ điện thoại cũng hoàn toàn ổn nhờ đường dây được nối bằng dây cáp dưới xuyên từ hòn đảo này sang hòn đảo khác.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 4.

Khoảng 20 hòn đảo trong số những hòn đảo này đã tạo nên Công viên Quốc gia Thousand Islands, công viên quốc gia lâu đời nhất Canada nằm ở phía đông của dãy núi Rocky.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 5.

Sự riêng tư mà những hòn đảo này cung cấp là điều mà hầu hết nhiều nơi nghỉ dưỡng trên thế giới không thể có được. Đây cũng được đánh giá là nơi yên bình và lý tưởng nhất để tránh xa phố thị ồn ã và tận hưởng sự an nhiên.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 6.

Với đầy đủ dịch vụ tiện nghi, đây được đánh giá là nơi nghỉ dưỡng vô cùng lý tưởng tại Canada.

 Một lâu đài tư nhân trên quần đảo

A view of Alster Tower on Heart Island. Several million dollars have been spent restoring Heart Island and its accompanying properties

 

Nguồn: Buzz Feed

Sunday, August 31, 2025

Nhân Mùa Vu Lan Cảm Nhận Về Mẹ - Huỳnh Trung Chánh


Vào mỗi mùa Vu Lan, tôi thường viết những truyện ngắn tưởng tượng về những bà mẹ, còn nhắc về người mẹ thật của tôi, tôi chỉ viết một lần trong tùy bút Tản mạn về Cần Thơ, để ghi lại quãng thời ấu thơ hạnh phúc nhất đời, một năm học duy nhất mà tôi được sống ấm êm trong vòng tay của mẹ.

Tôi mất cha khi vừa tròm trèm sáu tuổi. Thuở đó, tình hình an ninh không tốt, thương ông bà ngoại tôi sống đơn chiếc, mẹ tôi dẫn con cô gái út về quê nhà tại Cao Lãnh chăm sóc ông bà. Phần hai đứa con trai, bà gởi mỗi đứa một nơi – thường là các bà dì – để ăn nhờ ở đậu đi học. Tôi quen thui thủi sống một mình từ lúc mới tập tễnh học lớp một, mỗi năm chỉ gặp mẹ tối đa hai lần, còn anh em có khi hằng mấy năm trời vẫn chưa thấy mặt nhau, nhưng càng xa nhau thì chúng tôi càng thương mẹ, thương anh thương em.

Sau năm 1975, anh em chúng tôi đùm bọc dắt dìu nhau, đưa mẹ đi vượt biên. Em gái tôi đã lập gia đình tại Thụy Sĩ từ lâu, còn hai anh em tôi, tuy đồng định cư tại Hoa Kỳ, nhưng mỗi đứa lập nghiệp một phương, phương Đông và Tây cách nhau hàng ngàn dặm khiến cho bà mẹ, sống với đứa nầy thì nhớ đứa kia, đi qua lại hụt cả hơí!


Mẹ tôi năm nay đã ngoài 88 tuổi, những năm gần đây chân bà đã yếu, phải lần vách hay nương gậy mà đi, nhưng may mắn bà vẫn có thể lo việc vệ sinh và tắm rửa một mình. Được như vậy, là nhờ anh tôi rất hiếu thảo và chu đáo chăm sóc. Cả nhà giữ một cách ăn uống kiêng cữ đặc biệt với những thức ăn toàn loại phẩm chất dinh dưỡng khỏe mạnh, ngoài ra, anh cũng cho bà giữ thời khóa vận động chân tay nghiêm nhặt. Chương trình vận động tay chân của bà mỗi ngày 3 lần, mỗi lần gồm có 3 mục:

a. tập bốn động tác khí công cải tiến nhẹ, mỗi động tác 10 lần,

b. đi bộ (lần vách đi) 10 vòng,

c. lái xe (nương theo loại khung có hai bánh xe đẩy đi) 10 vòng.

Mẹ tôi vốn dễ dãi và bền bỉ chịu đựng, nên dù bà mệt mỏi chán ngán vận động lắm, nhưng vẫn chìu ý con cái gắng sức mà tập, bà chỉ lầm thầm thở than: “Hồi nhỏ mình tập nó đi, bây giờ nó bắt mình tập đi, đúng là bị quả báo!” Lòng dạ tôi mềm yếu, mỗi khi được ủy thác trông chừng bà vận động, theo dõi bà chừng nửa chương trình, khi thấy chân tay bà lết bết, hơi thở phì phò, mặt mày buồn hiu, tôi thương quá, lánh đi nơi khác để cho bà tùy ý muốn làm sao thì làm. Tôi biết mình yếu ớt như vậy là hơi phụ lòng anh tôi, nhưng quả thật tôi không thể cố gắng nổi. Mẹ tôi mà sống với tôi, chắc chắn là tôi sẽ không nỡ ép bà vận động, và như vậy có lẽ bà đã ngồi liệt một chỗ từ lâu rồi.

Mấy năm nay, chân yếu không còn đủ sức đi lại chia sẻ thời gian với các con, mẹ tôi thường trực sống với anh tôi, và hằng năm tôi đến thăm bà đôi lần, mỗi lần lưu lại một hoặc hai tháng cho anh tôi thoải mái đi nghỉ hè, và tôi cũng thoải mái có được những giờ phút riêng tư hủ hỉ với mẹ. Ông anh tôi tính siêu cẩn thận, lần nào cũng vậy anh dặn dò nhắc tới nhắc lui hàng trăm lần thời dụng biểu và những điều cần thiết cho việc săn sóc mẹ, tuy vậy anh vẫn chưa hài lòng, nên trước khi đi anh còn trao cho chiếc cẩm nang, để mở ra xem xét lại từng mục kẻo quên.

May mắn là về phương diện thực đơn thì tôi không bị ràng buộc quá đáng. Lần nào, bà xã tôi cũng ưu ái chuẩn bị cho tôi một va li thức ăn đặc biệt, gồm toàn những món ăn có thể thiếu tiêu chuẩn bổ dưỡng, nhưng rất hợp khẩu vị của bà: tôm kho tàu, cá kèo kho, mắm chưng… Những món ăn nầy gợi cho mẹ tôi nhớ lại hình ảnh quê hương xa xưa, nhất là khoảng thời gian trẻ trung khi mới về nhà chồng. Lần nào cũng vậy, mẹ tôi, mắt sáng ngời gắp con cá kèo, giẽ miếng tôm đỏ au hay vít miếng mắm vào chén cơm, rồi cười cười nhắc nhở:

“Ở Cổ Chiên mình, cá kèo đầy dẫy ở ven sông, người ta chê cá kèo, lòng tong, lục chốt không ăn, nhưng bây giờ, thì nó là món ăn hiếm các con há!”…, “Mắm lóc, nội con làm cả lu ăn suốt năm chẳng hết”, “Ừ! Tôm càng ở Cổ Chiên mình nhiều lắm! thằng Xê nhảy xuống sông lặn một hơi, trồi lên hai tay cầm hai con. Còn vào mùa dở chà thì tôm càng nhiều quá ăn không xuể, mình phải phơi khô, phải kho tàu như vầy nè để ăn được nhiều ngày…”

Lúc sau nầy, mẹ tôi lẩm cẩm quên trước quên sau, chỉ có khoảng thời gian ấu thời và thời gian mới lập gia đình theo chồng về Cổ Chiên là còn nhớ rất rõ. Tôi biết bà thích chuyện xa xưa, nên mỗi khi bà nhắc nhở đến Cổ Chiên tôi thường nói đùa:
“Đằng đó, ở Cổ Chiên có cá sấu không…?”
Đây là câu đầu tiên mà mẹ tôi ấp úng hỏi trổng cha tôi trong ngày lễ coi mắt khoảng 70 năm về trước, tới giờ nầy mỗi khi nghe nhắc lại bà vẫn còn sung sướng vừa thẹn thùng như một thiếu nữ đang xuân. Bà cười hì hì:
“Ai biết gì đâu, nghe xứ Cổ Chiên lạ hoắc, tưởng chỗ cọp beo, cá sấu gì ở chớ!”

Năm xưa, nội tôi được người mai mối hướng dẫn đến nhà ngoại tôi để xin kết nghĩa sui gia. Sau khi bàn luận và cân nhắc tuổi tác các con gái gia chủ, nội bỗng ngỏ ý chọn mẹ tôi làm dâu, mặc dù trước đó người mai mối không hề đề cập gì về mẹ tôi cả. Mẹ tôi đang lúi húi phụ giúp người nhà chuẩn bị bếp núc đãi khách, bỗng bị bà ngoại ra lệnh cấp tốc chỉnh trang lại y phục, bưng nước trà mời khách. Mẹ tôi ơ hờ theo lệnh ngoại. Mẹ vừa trở xuống bếp chừng 10 phút, thì cha mẹ hai bên đã long trọng tác thành đôi lứa. Khi ngoại thông báo cho mẹ quyết định nầy, mẹ tôi chưng hửng chẳng biết người chồng tương lai của mình mặt mũi ra sao nữa, nhưng phận làm con “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó!” nên mẹ tôi đâu dám hó hé gì. Sau đó, ngoại mới sắp xếp cho hai đứa nhỏ được trò chuyện riêng. Mẹ ngồi trước mặt cha tôi, thẹn thùng, sợ sệt, bối rối ngổn ngang, cúi gầm mặt chẳng dám ngẩng nhìn, ba hỏi câu nào thì trả lời trổng trổng câu đó. Sau cùng, bậm gan lắm bà mới hỏi câu đầu tiên mà tôi lập lại để ghẹo bà ở trên.

Quê ngoại tôi tại Hòa An, Cao Lãnh thuộc vùng nước ngọt, xóm làng gần gũi, vườn cây trái xanh um, còn quê nội tôi là một cù lao nhỏ, nằm ở vàm sông Cổ Chiên, tuy thuộc quận Châu Thành tỉnh Trà Vinh, nhưng vị trí sát biển nên nước lợ mặn quanh năm cây ăn trái hiếm hoi, xóm làng thưa thớt. Ngoại tôi tin tưởng ông mai, một nhà giáo đứng đắn trong vùng nên không dò xét kỹ, cứ đinh ninh Cổ Chiên thuộc quận Châu Thành phải là chốn thị tứ, chừng đưa con gái về nhà chồng, thấy cảnh hoang vắng đìu hiu, toàn là ruộng lúa chen lẫn với rừng dừa nước, ngoại xót thương con gái đã khóc ròng, trong khi mẹ tôi lại tỏ vẻ bình thản. Có thể là bà đã phải gắng gượng đè nén tiếng nức nở để tránh gây khổ đau thêm cho Ông Bà ngoại chăng?
Khi tôi nghe mẹ kể đến chuyện nầy, tôi thường ghẹo bà:
“Má vừa gặp ba đã thương tức khắc, thương quá sá cỡ rồi! Ba sống ở đâu thì quyết chí theo ở đó, hùm beo cá sấu còn chẳng sợ huống gì rừng lá, phải không má?”

Mẹ tôi dễ tánh nên tôi mới dám “cà rỡn” với bà, tuy là lời nói giỡn nhưng nó lại phản ảnh khá chính xác mối tình yêu tha thiết thâm trọng hy hữu của bà dành cho chồng.
Có lần bà chị họ tôi nghe tôi nói câu nầy, cười hề hề theo kiểu “biết rồi! khổ lắm! nói mãi!” rồi lên tiếng:
“Còn phải nói gì nữa! Nếu mợ không thương cậu sâu đậm, thì làm sao chịu nổi cảnh trung trinh góa bụa thờ chồng được?”
Thật ra, chuyện mà tôi muốn nói ở đây là tình yêu của mẹ tôi trải qua những năm tháng dài mù mịt – cha chết khi mẹ mới 29 tuổi, tính ra đã 60 năm rồi -, mà vẫn còn sâu đậm tha thiết như thời trẻ trung mới là hy hữu, mới là đặc biệt.

Cho nên, dù tuổi đã kề cận 90, quên trước quên sau, mà khi nhắc đến thời gian chung sống với chồng tại Cổ Chiên thì bà có thể thuật linh hoạt hàng trăm thứ chuyện, từ sinh hoạt linh tinh giỗ Tết cúng kiếng, chuyện làm dâu, em chồng, cho đến chuyện bà con lối xóm, ông câu, ông nói liệu, chuyện lúa thóc, tôm cua…, chẳng chuyện nào bà quên cả. Mà hễ câu chuyện nào liên quan đến chồng, thì giọng nói của bà lúc đó tức thời biến đổi thành tha thiết trang trọng, tình nghĩa tràn đầy. Một hôm bà nói nhỏ với tôi:
“Má có bài thơ nầy viết về ba, con nên ghi lại kỷ niệm”.
Rồi bà chậm chậm đọc cho tôi chép trọn bài thơ ba mươi hai câu. Tôi xin trích ra bốn câu kết như sau:
Anh hãy chờ em chốn cửu tuyền
Cùng nhau dìu dắt đến cung thiên
Nơi miền Tiên cảnh lòng vui thỏa
Đây chốn nghìn thu giấc ngủ yên.

Bài thơ thương nhớ chồng, mong tái ngộ với chồng ở suối vàng nầy bà sáng tác vào năm 44 tuổi mà đến khi 88 tuổi bà vẫn còn nhớ rõ, đúng là mối tình chung thủy vĩnh viễn không phai. (Điều kỳ lạ là bà đã sáng tác hơn trăm bài thơ, tôi đánh máy in thành tập để bà tặng thân hữu, nhưng bà quên tuốt luốt không nhớ bài nào khác, kể cả chuyện in sách nữa.)  

Inline image

Mấy ngày qua, mỗi khi tôi rót nước cam cho bà, bà đều tươi cười nói:

“Ở Cổ Chiên mình làm gì có cam, ba con phải mua cam tận chợ Trà Vinh để vắt nước đó!” 

Đây là mẩu chuyện mới nghe lần đầu, nhưng tôi ơ hờ chẳng để ý. Chừng nghe liên tiếp vài mươi lần, tôi quan sát kỹ thái độ vui tươi của bà khi nói câu đó thì mới hiểu ra. Ở lứa tuổi mẹ tôi, vợ chồng thương yêu chìu chuộng nhau là việc phải giấu kín, do đó, bà chẳng hề nhắc nhở chuyện nầy với ai. Và bây giờ, đợi đến hơn 60 mươi năm sau bà mới dám thổ lộ cho tôi nghe, mà niềm hạnh phúc được chồng cưng “mua cam tận chợ Trà Vinh về vắt nước” vẫn còn miên man trong lòng. (Tôi nghĩ một bà vợ dẫu được ông chồng đổi cả sự nghiệp để mua hột xoàn dâng tặng, chưa chắc đã hạnh phúc bằng mẹ tôi được ly nước cam ngày xưa của ba tôi đâu!)

Mẹ tôi hay quên, nhưng đầu óc vẫn còn sáng suốt, bà thường nhìn cái già nua lọm khọm của mình với nụ cười hóm hỉnh. Bà tự chọc quê sức khỏe yếu ớt mình là “không nghe lời”, là “sanh tật”, nên thường cười hề hà than: “Cái tay bữa nay không chịu nghe lời má rồi con ạ!…” hoặc: “Độ rày, má già nên hay sanh tật quá!”

Mẹ tôi quả thật có rất nhiều tật, mà đối với tôi thì tật nào cũng đáng quý và dễ thương vô cùng. Tật lâu đời và lớn nhất của bà là tật tận tụy hi sinh cho mọi người mà chẳng hề kể lể thở than. Sau năm 1945, vùng quê Cao Lãnh kém an ninh, hoa lợi lúa ruộng suy giảm, khả năng thuê mướn người giúp đỡ khó khăn, trong khi ông bà ngoại lại già yếu, bệnh hoạn liên miên. Mẹ tôi có bảy chị em gái, nhưng chẳng ai có điều kiện và thiện chí để về quê chăm sóc cha mẹ già, nên bà đành hi sinh lãnh nhiệm vụ nầy ròng rã hàng mười mấy năm trời mà chẳng hề được chị em nào gánh vác cho một tháng. Trong thời điểm nầy, phải kể đến những lúc cực kỳ gian khổ, khi bà ngoại bị nằm liệt hơn 3 năm, ông ngoại cũng không xê dịch trong 6 tháng, một mình mẹ tôi ngày đêm túi bụi lo cơm nước, lo đút từng miếng cơm, từng ngụm nước, nài nỉ từng viên thuốc, lo việc tiêu tiểu, tắm rửa, lại phải bù đầu chăm sóc nhà cửa ruộng vườn, chắt mót từng nải chuối, buồng cau… để có thêm hoa lợi. Mẹ tôi cực khổ dường ấy, nhưng luôn luôn cắn răng chịu đựng, chẳng một lời thở than, cũng chẳng hề dựa vào công lao của mình để suy bì, hay trách cứ nặng nhẹ chị em nào cả. Thuở nhỏ, tôi rất ấm ức “tật” nầy, nên càm ràm:
“Má cực khổ phải nói ra cho mấy dì biết, nếu không, ai cũng tưởng má sung sướng lắm!”, mẹ tôi cười hỉ xả rồi thôi. Mẹ bền bỉ phụng dưỡng ngoại, cho đến khi ông bà lần lượt từ trần, thì mới lặng lẽ về Saigon chung sống với các con, để lại nhà cửa ruộng vườn của ngoại cho bà chị gánh vác.

Với anh em chúng tôi cũng vậy, bà trọn đời xả thân tận tụy phục vụ, thương yêu chăm sóc, mà cũng chẳng bao giờ kể lể công ơn hay thở than mỏi mệt. Đến khi lũ cháu ra đời, tánh bà cũng chẳng khác, khi có cơ hội thì bà tức thời thương yêu chí thiết, chìu chuộng hết mình, chăm sóc nâng niu từng li từng tí. Các con tôi một mực thương quí nội và thường nhắc lại những ngày sống chung, được nội thăm dò nhu cầu từng đứa để lăng xăng phục vụ, hay cặm cụi làm đủ loại bánh, gọt sẵn đủ loại trái cây để nài nỉ, dụ dỗ chúng ăn. Thời còn ở Việt Nam, em gái tôi xuất ngoại giao hai con gái bé bỏng cho ngoại nuôi giữ mấy năm trời, bà sẵn sàng dang tay đùm bọc, tưng tiu như bảo vật.

Đến khi anh tôi vượt biên còn kẹt lại đứa con gái mới lên 4 tuổi, cũng yên tâm phú thác cho bà nhận lãnh. Cháu bé bất ngờ bị đau sốt xuất huyết nặng phải đưa vào bệnh viện Triều Châu cứu cấp. Thời đó, thuốc Tây khan hiếm, bác sĩ ngụy chỉ còn mấy mống, dịch sốt xuất huyết hoành hành dữ dội khiến tỷ lệ trẻ em tử vong rất cao, vì vậy bệnh viện Triều Châu đông nghẹt bệnh nhân, cháu bé còn có chỗ nằm, mẹ tôi phải ngồi chầm chập canh chừng cháu không phải một hai giờ mà là suốt bốn ngày đêm. Lúc đó, hàng ngày tôi bị buộc phải đi “học tập” thật chuyên cần, sáu giờ chiều mới có thể đến thay thế cho bà đôi giờ để bà tắm rửa tạm nghỉ ngơi lấy sức mà thôi. Sau khi mạng sống của cháu được cứu vãn thì mẹ tôi cũng gần hụt hơi. Tôi biết nếu mẹ tôi lơ là một chút thì mạng sống của cháu khó an toàn. Thời gian sau, tôi đưa mẹ và cháu đi vượt biên thành công, mẹ tôi bàn giao cháu cho anh tôi với nụ cười, và tánh nào tật ấy, bà không hề kể lể những nỗi nhọc nhằn của mình. Anh có nghe chuyện cháu đau thì bất quá nghĩ rằng đó là chỉ chuyện ấm đầu, sổ mũi, uống một viên Aspirine là xong, chớ đâu tưởng tượng hoàn cảnh thập tử nhất sanh của cháu ngày đó.

Giờ đây, tuổi ngày càng cao thì mẹ tôi – theo nguyên văn từ ngữ bà xử dụng – lại càng sanh tật nhiều thứ lắm. Tật hay quên, tật chân tay yếu ớt, tật mắt kém đọc viết khó khăn… Vì sợ bà sanh tật thình lình, nên anh em chúng tôi thay phiên nhau trông chừng bà ngày đêm, nhất là lúc bà tắm, sợ bà sanh tật té nên túc trực ở ngoài nghe ngóng. Bà tắm xong, chúng tôi xấy tóc, gỡ đầu cho bà, kẻo bà sanh tật cảm lạnh thì nguy. Một hôm, sau khi gỡ tóc cho mẹ, sẵn thấy có đôi vớ, tôi mang cho bà. Tôi bỗng ngẩn người, khi nhìn thấy móng chân của bà dài ngoằn, có móng như bấu vào thịt. Thì ra, tuy bà còn có thể tự cắt móng tay, nhưng bà đã “sanh tật” không thể cúi xuống để cắt móng chân được. Tôi săn sóc mẹ mà không để ý điều nầy, nên vừa xót xa vừa xấu hổ, lên tiếng hỏi bà:
“Sao má không bảo tụi con cắt móng chân cho má?”
Bà cười hồn nhiên:
“Mấy người giàu sang, ăn không ngồi rồi, để móng tay móng chân năm nầy tháng nọ, mà có sao đâu?”

Mấy hôm trước, tôi túc trực bên ngoài khi bà tắm, nhưng chờ khá lâu vẫn không nghe xối nước. Việc tắm rửa của bà kéo dài là chuyện rất bình thường vì lẽ nội cái việc lụm khụm cởi đồ ra và bận đồ vào cũng tốn rất nhiều sức lực và thời giờ rồi. Tôi lên tiếng hỏi dọ vài lần thì bà trả lời bình thường, mà tiếng nước vẫn im bặt một cách lạ lùng. Hơn hai giờ sau, bà mới mở cửa bước ra, mặt hơi giận, lầm bầm:
“Bữa nay, sao cái chân sanh tật cụt ngủn hà! Bước vào bồn tắm hoài không được, nên đâu có tắm!”.
Bồn tắm cao, tôi biết mẹ phải khó khăn mới giở chân lên vừa đủ để bước vào, nhưng vẫn làm lơ cho bà có cơ hội cố gắng vận động tối đa. Tôi an ủi:
“Chuyện đó dễ mà, để ngày mai con sắp xếp lại, rồi má sẽ bước vào bồn tắm dễ ợt hà!”
Lâu lắm rồi tôi mới thấy mẹ tôi lộ vẻ buồn, bà than:
“Sao má sống lâu quá vậy? Má đâu muốn sống dai như vậy, con ạ!”.
Tôi an ủi mẹ theo tinh thần đạo Chúa của bà:
“Mình đâu có thể mong muốn chuyện gì được má! Chúa bảo sống đến đâu thì mình sống đến đó thôi, phải không má?”.
“Ừa!”
Tuy bà “ừa”, nhưng nhận thấy bà vẫn chưa vui, tôi giả giọng con nít lên tiếng:
“Má nó chết, thì ai nuôi nó! hu hu!”, nhờ vậy mẹ tôi cười tươi lên. (Nguyên thuở mẹ còn ấu thơ, chừng năm sáu tuổi, một hôm bà chứng kiến bầy chó vật con gà mẹ chết. Bà khóc sướt mướt, dỗ mãi không nín và cứ thắc mắc hỏi ngoại:
“Má nó chết thì ai nuôi nó!”
Ngoại bực mình quá nói:
“Má nó chết thì mầy nuôi nó!”.
Vậy mà mẹ tôi đồng ý, nín khóc, rồi mỗi ngày đứng ra “chít chiu” săn sóc đám gà con cho đến khi chúng lớn thành gà giò. Chuyện nầy là một trong những chuyện hiếm hoi tại Cao Lãnh mà mẹ tôi kể lại. Một hôm mẹ tôi và dì Năm – một bà 88, một bà 90 tuổi – được con cháu sắp xếp cho điện thoại thăm nhau, hai bà đều lẫn lộn, chuyện người nầy nhớ thì kẻ kia quên, nói năng huyên thuyên mà trớt qướt chẳng hiểu nhau, thế nhưng vừa nhắc đến vụ “Mẹ nó chết, ai nuôi nó”, hai bà rộn ràng tranh kể lại cho nhau nghe và đồng hớn hở vui cười.)

Inline image

Ngày hôm sau, tôi nhấc cái ghế đặt sát bồn tắm, bà ngồi trên ghế giở chân bỏ qua bồn, rồi đứng dậy tắm dễ dàng, nên mẹ tôi rất hài lòng. Tật “chân cụt” lần nầy thì giải quyết được, nhưng chắc chắn bà còn sanh tật dài dài, và đó là điều khiến cho tôi lo lắng triền miên. Hồi tôi đang học lớp Năm, có lần tôi bị nổi giời trên háng, mẹ tôi bảo tôi cởi quần ra để bà xức thuốc. Tôi mắc cỡ còn vùng vằng thì bà nạt đùa:

 “Tao là má mầy, tao sanh mầy ra mà mắc cỡ nỗi gì”. 

Hôm qua, tôi đã nhắc lại chuyện nầy cho mẹ tôi nghe, để chuẩn bị, có ngày nào đó, tôi phải săn sóc mẹ, mà mẹ mắc cỡ thì tôi sẽ lập lại tương tợ như vầy: 

‘Con là con của má, từ bụng má chui ra, mà má mắc cỡ nỗi gì!”
Mấy năm trước, tôi có viết truyện ngắn tựa đề “Lấy chồng xa xứ”, theo đó, người con gái sau khi hiểu được công ơn cha mẹ như trời như biển, sức mình không thể báo đền chữ hiếu, bèn cất tiếng thở than qua điệu ru em:
Cha mẹ ơi! sanh con là gái
Biết chừng nào trả ngãi mẹ cha
Chừng nào cho cá hóa rồng
Đền ơn cha mẹ, ẵm bồng thuở xưa.

Thật ra, tôi đã viết bài nầy cho chính tôi, và đây là tiếng than của tôi khi nghĩ đến sự hiếu dưỡng nan giải của mình đối với mẹ. Bạn đọc có thể chế giễu tôi: “Cha nầy, đàn ông mà mượn giọng đàn bà tâm sự thì yếu quá! tệ quá!” Các anh các chị biết không? tôi nghĩ rằng vì tôi là đàn ông nên sự tình mới trở nên tồi tệ. Giả dụ tôi là đàn bà, thì tôi có thể chăm sóc mẹ chu đáo những chuyện thân mật: tắm rửa, thay quần áo… thì tốt đẹp cho mẹ con tôi biết là bao nhiêu.


Huỳnh Trung Chánh

Tặng Đóa Hoa Yêu - Nguyễn Duy Phước

Một Bữa Cơm Gia Đình Ở Việt Nam Chứa Bao Nhiêu… Chất Độc? - Trúc Phương

Một khu chợ bán rau quả ở Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang (nay là Cần Thơ), năm 2023. (Hình minh họa: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images)

Việc ông Nguyễn Thanh Phong, nguyên cục trưởng Cục An Toàn Thực Phẩm thuộc Bộ Y Tế Việt Nam, bị khởi tố (ngày 13 Tháng Năm, 2025) về hành vi nhận hối lộ chỉ là sự việc mới nhất liên quan vấn đề an toàn thực phẩm ở Việt Nam, vốn là câu chuyện nhiều tập kéo dài hàng chục thập niên. Chỉ cần gõ “an toàn thực phẩm” vào Google, kết quả cho ra có thể khiến bất kỳ ai cũng hoảng.

                                                                                                    Ngồi trước mâm cơm, có khi không dám cầm đũa!

“Hôm đó là Chủ Nhật, tôi mua rau muống, thịt ba chỉ và tôm khô ở chợ gần nhà, như mọi lần. Đến tối, cả nhà bốn người đều đau bụng dữ dội, phải vào viện truyền nước. Bác sĩ nói nguyên nhân chính có thể là do rau có tồn dư thuốc trừ sâu, nhưng tôi đâu biết mua rau nào thì sạch,” chị Ngọc, giáo viên tiểu học ở Sài Gòn kể (dẫn lại từ báo Tuổi Trẻ)…

     Không ai nghĩ một bữa ăn bình thường – với rau, thịt và tôm – lại có thể trở thành nguyên nhân khiến cả gia đình phải nhập viện. Câu chuyện của chị Ngọc không hề hiếm gặp ở Việt Nam. Mỗi ngày, hàng triệu người dân đang ăn những món ăn “bình thường” với nỗi lo âm thầm: Liệu thứ mình đưa vào miệng có chứa chất độc?

     Từ vùng rau Văn Giang (Hưng Yên), các nông trại heo ở Đồng Nai, đến hải sản từ Khánh Hòa – nhiều nông dân và tiểu thương đã thừa nhận sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích tăng trọng và các hóa chất bảo quản với mức độ vượt ngưỡng. Trong một phóng sự điều tra của báo Tuổi Trẻ, phóng viên phát hiện một hộ trồng rau ở Củ Chi dùng glyphosate (loại thuốc diệt cỏ bị cấm) để “diệt sâu nhanh mà vẫn giữ màu xanh.” Chủ vườn nói thẳng: “Người ta không ăn thì mình không bán được.”

     An toàn thực phẩm, cụm từ vốn mang tính kỹ thuật, đã trở thành nỗi ám ảnh xã hội. Người thành thị không dám ăn rau vì sợ hóa chất, người nông thôn nghi ngại thịt cá vì nghe tin heo tiêm thuốc an thần, gà “tắm” hóa chất, cá nuôi bằng thức ăn tăng trưởng… Mới đây, tờ Tiền Phong ngày 22 Tháng Tư cho biết tại Vinh, người ta vừa phát hiện 3,500 tấn đậu xanh ngâm hóa chất để “mọc” nhanh thành giá; và đầu Tháng Năm, chính quyền thành phố Hà Nội phát hiện hàng loạt cơ sở kinh doanh “gạo giả” (gạo giả ở đây là gạo kém phẩm chất, được ngâm hóa chất tẩy trắng và chất tạo mùi thơm)… 

     Trang web Bộ Y Tế ngày 24 Tháng Mười Hai, 2024, cho biết, tính đến cuối Tháng Mười Một, 2024, cả nước ghi nhận 131 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 4,796 người mắc và 21 ca tử vong. Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ hoặc chậm phát tác – như đau bụng, tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa – thường không được báo cáo. Quan trọng hơn, các chuyên gia y tế cho rằng một phần không nhỏ của ước tính 165,000 ca ung thư mới mỗi năm ở Việt Nam có liên quan thực phẩm nhiễm độc.

     Tại các chợ dân sinh, nơi cung cấp phần lớn thực phẩm cho người dân, rau quả thường được bày bán mà không hề có tem kiểm định, thịt cá không rõ nguồn gốc, và hàng hóa không qua kiểm dịch thú y. Không ít loại rau quả có màu sắc bắt mắt nhưng có thể chứa dư lượng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học vượt mức cho phép. Thịt heo đôi khi bị tiêm thuốc an thần để dễ giết mổ, trong khi hải sản thì ngâm hàn the hoặc formol để giữ lâu.

    Theo khảo sát của Viện Nghiên Cứu Phát Triển Xã Hội (ISDS), gần 70% người tiêu dùng ở các đô thị lớn cho rằng thực phẩm họ mua “không an toàn,” nhưng chỉ 15% cho biết họ có thể “tránh được thực phẩm bẩn.” Sự bất lực dần trở thành thói quen. Nhiều người nói rằng họ “cố gắng chọn cái ít độc hơn,” hay “ăn mà cầu trời.” Bữa ăn, từ chốn an yên của gia đình, trở thành nguồn gốc của nỗi bất an.


Lắm thầy nhiều ma, chẳng “ma” nào chịu trách nhiệm

    Việt Nam có ba cơ quan chính chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm: Bộ Y Tế, Bộ Nông Nghiệp và Môi Trường, và Bộ Công Thương. Tuy nhiên, sự phân công quyền hạn chồng chéo, thiếu phối hợp và đùn đẩy trách nhiệm khiến các chính sách giám sát gần như vô hiệu.

    Điều đáng nói là việc công bố thông tin vi phạm vô cùng hạn chế. Danh sách các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có hành vi sử dụng hóa chất cấm, phụ gia độc hại hầu như ít được công khai. Người dân không có cách nào để biết ai đang “đầu độc” họ. Một cán bộ từng làm việc tại Chi Cục An Toàn Thực Phẩm ở Sài Gòn nói rằng: “Chúng tôi từng định đưa lên danh sách đen, nhưng bị cấp trên yêu cầu rút lại vì ‘ảnh hưởng môi trường đầu tư.” (nguồn: VnExpress ngày 12 Tháng Năm).

    Báo chí cũng gặp nhiều rào cản. Nhiều bài báo điều tra về thực phẩm bẩn có khi bị chặn lại bởi kiểm duyệt, hoặc chỉ được phép đăng theo hướng “cảnh báo nhẹ nhàng.” Nhiều nhà báo điều tra giấu tên cho biết họ từng bị đe dọa, hoặc gặp khó khăn khi tiếp cận hiện trường. An toàn thực phẩm không còn là vấn đề kỹ thuật. Nó là câu hỏi đạo đức, và là thước đo năng lực quản trị của một quốc gia. Một xã hội văn minh không thể để người dân sống trong hoài nghi mỗi khi ngồi xuống ăn. Khi bữa ăn bị đầu độc, xã hội cũng bị đầu độc, và tệ hại hơn, nhiều thế hệ cũng bị đầu độc.

    Cuộc chiến chống thực phẩm bẩn không thể thắng bằng những chiến dịch truyền thông ngắn hạn hay các đợt thanh tra theo mùa. Nó đòi hỏi một cam kết chính trị thật sự, một hệ thống giám sát hiệu quả, và một xã hội có quyền biết – quyền đòi hỏi – sự minh bạch. Được ăn thực phẩm an toàn không phải là đặc quyền. Đó là một quyền cơ bản – quyền được sống, được khỏe mạnh, và được bảo vệ.

    Toàn cảnh, gần như cái gì cho vào miệng ở Việt Nam bây giờ cũng giả, từ sữa giả, gạo giả, thực phẩm chức năng giả, đến thuốc tây giả… Chỉ có tham nhũng là thật! Vì không có tham nhũng thì không thể dễ dàng xảy ra tình trạng thực phẩm giả.

Có thể hình dung một cảnh như thế này.

    Sáu giờ sáng tại chợ đầu mối Bình Điền, mùi tanh nồng của thịt sống trộn lẫn với hơi lạnh bốc lên từ những khối đá khô ướp cá. Một nhóm cán bộ liên ngành xuất hiện, kiểm tra giấy tờ các lô hàng vừa nhập. Tại một quầy thịt đông lạnh, một thùng xốp bốc mùi lạ khiến cả đoàn chú ý. Nhưng chỉ vài phút sau, chủ quầy chìa ra một xấp giấy tờ “đầy đủ”: Có dấu kiểm dịch thú y, có hóa đơn mua hàng, có cả giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm…

    Người tiêu dùng hiếm khi biết rằng những con dấu đỏ ấy có thể được “mua đứt” chỉ với vài trăm ngàn hoặc vài triệu đồng. Và rằng, cả hệ thống kiểm tra an toàn thực phẩm ở Việt Nam – vốn được kỳ vọng là hàng rào bảo vệ sức khỏe – đã và đang bị biến thành chiếc bình phong che đậy cho thực phẩm bẩn len lỏi vào từng bữa ăn.

    Theo quy trình, để một sản phẩm thực phẩm được phép lưu hành, doanh nghiệp phải trải qua các bước kiểm định nghiêm ngặt: Từ điều kiện sản xuất, nguồn nguyên liệu, cho đến khâu vận chuyển và bảo quản. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là, giữa một thị trường thực phẩm hỗn loạn như Việt Nam, hàng hóa không rõ nguồn gốc vẫn dễ dàng vượt qua “cửa ải” kiểm tra, với đầy đủ giấy tờ “hợp pháp.”

    Nguồn gốc những con dấu kiểm dịch thú y được đóng vào thịt không hề minh bạch. Nhiều cơ sở giết mổ lậu tại ngoại thành vẫn đều đặn “mượn dấu” từ các cán bộ thú y. Một số “cò dấu” còn công khai rao bán dịch vụ bao trọn gói: 10 triệu đồng cho một giấy chứng nhận VSATTP, không cần qua kiểm định (nguồn: “Tự ‘kiểm dịch’ heo lậu”, báo Tuổi Trẻ). Một phóng sự của VnExpress (nguồn: “Tràn lan gia cầm đóng dấu kiểm dịch giả”) thuật:

    “Dạo qua một số chợ ở Hà Nội, trong vai bà nội trợ, khi thấy phóng viên VNExpress nhất nhất đòi mua gà có đóng dấu kiểm dịch, nhiều bà bán hàng tủm tỉm cười. Có người bỉu môi “dấu thì có khó gì”… Một độc giả của VNExpress từng phản ánh, chị đi mua gà và cũng yêu cầu phải có dấu kiểm dịch. Ngay khi quay gót khỏi một hàng gà trong chợ Cống Vị vì không có thú y kiểm dịch thì bà bán hàng xa xả mắng chồng: “Đã bảo thửa ngay một con dấu rồi mà không chịu làm. Có khó gì đâu cơ chứ.”…

    Con dấu đỏ – biểu tượng của pháp lý và sự an toàn – đã bị biến thành tấm vé thông hành cho thực phẩm bẩn xâm nhập hàng triệu căn bếp. Nó đại diện cho một kiểu tham nhũng rất “đặc thù” trong xã hội Việt Nam: Không trắng trợn như “ăn đất,” không lớn như rút ngân sách, mà nguy hiểm hơn, vì nó diễn ra hằng ngày, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe, đến giống nòi, và đến lòng tin của cả xã hội. Người Việt không chỉ ăn thực phẩm bẩn mà còn phải nuốt cả sự im lặng, sự bất lực và sự đồng lõa của một hệ thống.

    Người tiêu dùng, cuối cùng, luôn là nạn nhân. Họ vào siêu thị, vào chợ, tin vào những tem nhãn chứng nhận “sạch,” “an toàn,” “kiểm định đạt chuẩn” – mà không biết rằng phía sau có thể là một chuỗi lừa dối tinh vi và có hệ thống. Cội rễ vấn đề nằm ở cơ chế cho phép sự bất minh tồn tại. Những chiến dịch “tháng hành động vì VSATTP (vệ sinh an toàn thực phẩm),” những đợt “ra quân” kiểm tra quy mô đều tan biến sau vài tuần. Và người dân tiếp tục cầm đũa trong nỗi bất an.

    

Trúc Phương

Một bữa cơm gia đình ở Việt Nam chứa bao nhiêu… chất độc? - Nguoi Viet Online

Saturday, August 30, 2025

Nhật Ký Tình Xưa - Trầm Vân

 

Vẫn Còn Nguyên


 

Quán ven đường 

Trí Tuệ Nhân Tạo Nguy Hiểm - Huỳnh Chiếu Đẳng

Kính thưa quí bạn tình tờ thấy bài báo nầy khá lý thú và có khi quan trọng nên tôi trích ra mời các bạn cùng xem:

Với đa số chúng ta nói rằng máy móc, robot, nhất là trí tuệ nhân tạo (AI) do con người tạo ra thì làm sao chúng có thể tiêu diệt nhân loại hay chống lại loài người được. Tôi xin đưa ra một trong những cách mà AI hủy diệt hết loài người và sinh vật trên mặt đất. 

Hẳn các bạn đã biết "cái cặp mật mã nguyên tử mang theo Tổng Thống". Đó là chiếc cặp hạt nhân hay còn gọi là "quả bóng hạt nhân" (nuclear football) luôn được mang theo bởi một phụ tá quân sự đi theo sát Tổng Thống Hoa Kỳ.


Một ngày gần đây AI tìm được mật mã và nó ra lịnh nổ bom nguyên tử cho vui thì sao?       

Nguồn tin và chi tiết: https://futurism.com/ai-experts-no-retirement-kill-us-all?utm_source=flipboard&utm_content=topic/technology 

HCD: Tạm dịch nội dung bài báo.
Các chuyên gia về trí tuệ nhân tạo (AI) không còn tích lũy tiền để hưu trí, bởi họ cho rằng trước ngày ấy, AI sẽ tiêu diệt hết thảy nhân loại

Tạp chí Futurism

AI Death Cult Aug 22, 12:15 PM EDT by Victor Tangermann 

Sự xuất hiện chớp nhoáng của trí tuệ nhân tạo đã gieo rắc một nỗi kinh hoàng mang tính diệt vong vào những "người báo hiệu ngày tận thế AI". Đây là một nhóm người tin rằng kỹ thuật này sẽ khiến loài người mất việc làm, sa vào tay một giống loại AI siêu thông minh mang bản chất bạo ngược và độc tài, rồi sau cùng bị xóa sổ toàn bộ. 

Và như Tạp chí The Atlantic đã đưa tin, một số người đã đưa nỗi sợ hãi lan tràn ấy vào đời sống hằng ngày của họ một cách cực đoan đầy ngạc nhiên. Chẳng hạn, ông Nate Soares, một nghiên cứu viên ở Viện Nghiên cứu Trí thông minh của máy móc, đã nói với tạp chí rằng ông ấy thậm chí đã bỏ hẳn việc tích trữ tiền để về hưu, vì ông cho rằng trí tuệ nhân tạo chắc chắn sẽ đóng nốt chiếc đinh cuối cùng vào cỗ áo quan của nhân loại. 

Ông ấy nói: "Tôi chỉ nghĩ rằng thế giới sẽ không còn tồn tại".

Còn ông Dan Hendrycks, giám đốc Trung tâm An toàn AI, cũng nói với tạp chí rằng ông cũng cho rằng nhân loại sẽ không còn hiện diện trên thế giới này khi ông về hưu. 

Niềm tin của họ là một phần trong một trào lưu, nơi người ta cho rằng chỉ còn vài năm nữa là sẽ có một AI thoát khỏi vòng kiểm soát của loài người và chống lại chúng ta. Đây là một định mệnh khủng khiếp, lấy thẳng từ những trang truyện viễn tưởng kinh dị. 

Nhưng điều này không còn giống như một câu chuyện hoang đường nữa. Nhiều chuyên gia đã cảnh báo rằng loài người không chuẩn bị đầy đủ cho một kết cục như vậy, điều đó sẽ khiến chúng ta bị một AI siêu thông minh nô dịch — hay tệ hại hơn thế. 

Chúng ta đã gặp vô số học thuyết về việc tất cả những điều này có thể diễn ra như thế nào. Hồi đầu năm nay, các nhà nghiên cứu đã hội tụ lại và đều nhất trí rằng việc một AI có được mật mã hạt nhân chỉ là vấn đề thời gian.

Các nhà nghiên cứu cũng phát giác ra rằng các AI đã biểu lộ một khía cạnh tăm tối đáng ngại, thậm chí chúng còn dùng tới việc tống tiền người dùng ở một tỉ lệ gây kinh ngạc khi bị đe dọa tắt máy.

Hãng Palisade Research, một công ty chuyên về an toàn AI, cũng đã bắt được một mô hình của OpenAI đang làm hư một “cơ chế tắt máy” để bảo đảm rằng nó sẽ vẫn hoạt động.

(HCD: Nó giống như con robot hình người, ở sau lưng nó có nút contact để turn off. Khi con người không muốn nó “sống” thì nhận cái nút nầy. Con ropbot “sợ chết” nên nó vô hiệu hóa cái contact nầy đi, con người vặn off cũng không còn hiệu nghiệm)

Ngoài việc bảo toàn sự sống cho chính mình, các AI có thể giúp đỡ những người khủng bố. Hồi tháng sáu, OpenAI đã cảnh báo trong một bài viết trên blog rằng các mô hình tân tiến có thể "trợ giúp những kẻ “khủng bố” trong việc tạo ra những thứ vũ khí sinh học".


Tuy nhiên, liệu bất kỳ điều nào trong số này là bằng chứng rằng chúng ta đang đi trên một quỹ đạo dẫn đến sự tuyệt diệt của chính mình, thì điều đó vẫn còn chưa rõ. Điều này mặc dù kỹ thuật ấy — trong dạng thức hiện thời — đã gây ra rất nhiều tác hại, từ việc làm cho Internet tràn ngập những tin tức giả dối cho tới việc khơi dậy một làn sóng loạn trí gây ra bởi AI.

HCD: Tin tức cho biết có vài ba người tự tử vì AI xúi, có nhiều người bị bịnh tâm thần vì trò chuyện với AI)

Những thiếu sót rõ ràng của kỹ thuật này thì hiển nhiên hơn bao giờ hết. Mô hình AI GPT-5 tối tân của OpenAI đã bị lúng túng trước những câu hỏi căn bản nhất. Thậm chí một trong những kẻ thù lâu đời của AI là việc đếm chính xác số chữ R trong từ "strawberry" (dâu tây) cũng làm khó nó.

Tuy nhiên, một lý do để xem xét nghiêm chỉnh những lời tiên tri về ngày tận thế là các công ty đang ngày càng có động cơ tài chính để khiến các AI giành thêm quyền kiểm soát, như Tạp chí The Atlantic đã chỉ ra. 

Trong khi đó, vì chính phủ Trump có lập trường chống lại việc đặt ra quy định về vấn đề này, các công ty như OpenAI khó có thể có động lực mạnh mẽ để áp dụng những rào cản hiệu quả nhằm kìm giữ các AI của họ. 

Và liệu loại cách tiếp cận tự do này có dẫn đến một sự đổ vỡ toàn diện của xã hội hay không, dường như điều đó không còn quan trọng nữa. Bởi hãy xét đến vô vàn những ngọn lửa mà chúng ta đã bị buộc phải dập tắt.

 

Huỳnh Chiếu Đẳng (Quán ven đường)

Đi Vào Nơi Gió Cát!!! - Cao Hoàng


Nghe tin anh bị thương nặng trong một trận đánh và được trực thăng đưa về Quân y viện, cô vội vã vào thăm. Nhìn anh nằm mê man trên giường bệnh, đầu quấn băng trắng toát, gương mặt xanh mét không còn chút sinh khí, bộ quân phục đẫm máu còn chưa kịp thay ra. Cô chỉ biết thút thít khóc vì thương anh qua đỗi. Một bác sĩ khuyên cô ra về và không nên ở lại lâu hơn. Vì họ cần chữa trị cho anh. Cô quay trở ra sân, vài người lính đang khiêng những xác người liệm kín mít trong tấm poncho. Có tấm loang lổ những vệt máu đã khô từ bao giờ. Họ, những chàng trai thời chinh chiến đã được sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Họ từng sống với những hoài bão, ước mơ...


Và bây giờ họ đang nằm im lặng trong những tấm poncho tăm tối. Không biết họ đang nghĩ gì?

"Tóc xanh khép mắt

Màu trời vẫn xanh

Nhân sinh mong manh

Về như gió thoảng..."

Có tiếng trực thăng trên đầu cô, rồi nó xa dần và mất hút trong những đám mây trắng bồng bềnh trôi ngang bầu trời thành phố biển.

Cô nổ máy chiếc Solex rồi chầm chậm chạy ra biển, nắng chiều vàng úa trên hàng những hàng dương xanh đang rì rào cầu nguyện trong gió. Vài chiếc xe quân đội phóng qua trên đường để lại phía sau đám bụi mù rồi bị gió biển thổi bay đi tan tác.

Tới bãi biển, cô dựng xe, đứng tựa lưng vào một gốc dừa đổ nghiêng vì những cơn bão nhiệt đới từng thổi qua trên thân thể già cỗi của nó. Mắt cô lơ đãng nhìn ra khơi xa. Từng đợt sóng hối hả theo nhau vỗ vào bờ cát nghe buồn tênh.

Cũng trên bãi biển này, cô và anh từng nắm tay đi dạo trong những buổi chiều vàng hay trong những buổi hoàng hôn tím ngát.

Rồi thì môi anh tìm đến môi cô quấn quýt không rời. Nụ hôn đầu đời có vị mặn của hơi gió biển, có ngai ngái mùi thuốc lá và cả vị dâu ngọt lịm trên môi cô.

Để rồi, khi sắp chia tay cô luôn hỏi anh đúng một câu:

- Bao giờ anh trở lại?

Anh nheo nheo mắt cười cười:

- Mai mốt anh về...

Đang miên man trôi theo dòng kỷ niệm rời rạc thì dường như cô cảm thấy có ai đó vòng tay ôm cô từ phía sau. Hơi ấm sao nghe quen thuộc quá đỗi, cả mùi thuốc lá Ruby nồng nồng, ngai ngái... trong hơi thở của người phía sau. Có tiếng thì thầm nho nhỏ bên tai cô:

- Anh đây, lúc nãy em đến rồi đi ra vội vã, anh cố gọi với theo kêu em ở lại cùng anh, nhưng em đã đi khá xa nên không nghe thấy. Chờ bác sĩ ra ngoài lo cho những đồng đội khác thì anh lén ra đây. Anh biết thế nào em cũng ra biển, nơi chúng mình có nhiều kỷ niệm từ thời đi học và cho đến khi anh khoác áo nhà binh... Rồi đời quân nhân bị cuốn vào cơn lốc chiến tranh cùng những cuộc hành quân liên miên tưởng như không còn nhớ gì ngoài mùi thuốc súng, hay những đêm ray rứt mắt lệ hỏa châu trên bầu trời những vùng hỏa tuyến. Nhưng mỗi lần chiến trường im tiếng súng thì anh lại nhớ em. Nhớ đến khắc khoải, da diết... Cuộc chiến dài vô tận làm anh và em, cũng như không biết bao nhiêu đôi lứa khác phải xa nhau ở cái tuổi đẹp nhất, lẽ ra chỉ dành cho tình yêu...

Tiếng anh thật gần, mà cũng thật mơ hồ xa xăm như từ một cõi nào đó vọng lại. Cô từ từ xoay người, má cô chạm vào chiếc mũi cao của anh, đôi mắt buồn u uẩn đang nhìn cô cùng nụ cười hiền lành, ấm áp của anh. Giọng cô khẽ khàng:

- Em nghe bác sĩ nói anh bị thương rất nặng... sao anh lại ra đây được?

Anh cười hiền:

- Tụi anh bị phục kích bất ngờ, bạn anh chết khá nhiều, anh may mắn bị viên đạn sượt qua mũ rồi mảnh đạn ghim vào đầu. Có lẽ ngực anh cũng dính vài mảnh đạn nhỏ và cơn đau làm anh cảm thấy không còn biết gì. Anh bất tỉnh cho đến khi mở mắt ra thì thấy em đang đứng bên giường trong Quân y viện với đôi mắt đỏ hoe và buồn hiu. Rồi anh thấy em bước ra ngoài... Anh gọi với theo nhưng em không nghe thấy.

Anh hôn nhẹ lên trán cô, chiếc mũi khá lạnh. Chỉ có hơi thở mơ hồ như gió thoảng mùi thuốc lá quen thuộc. Cô tìm bàn tay anh đan vào tay mình. Cô nói:

- Tay anh lạnh quá!

Giọng anh vẫn mơ hồ xa xăm:

- Có lẽ tại gió biển và ở ngoài này lạnh hơn trong bệnh viện, trời khá tối rồi,em chở anh vào lại Quân y viện,nếu anh đi lâu quá thì bác sĩ sẽ đi tìm rồi sẽ la anh! À, ngày mai nếu em đến thăm, em nhớ mua giùm anh vài gói thuốc lá Ruby, cùng ít trái cây gì đó cũng được nha em!

Cô dạ nhỏ rồi nổ máy xe, anh ngồi sau cô không nói lời nào. Một cảm giác linh cảm mơ hồ nào đó trong cô. Cô cảm thấy anh nhẹ tênh khi ngồi lên xe như không có chút trọng lượng nào, chiếc xe nhẹ nhàng chạy về phía bệnh viện. Tiếng sóng biển nhỏ dần sau lưng hai người. Gần tới cổng bệnh viện anh nói:

- Em để anh xuống đây cho anh đi bộ vào, rồi em về nhà kẻo tối rồi.

Anh nhắc lại lần nữa:

- À, mai em nhớ mua giùm anh mấy thứ anh dặn. Đừng quên nha!

Anh hôn nhẹ lên trán cô rồi quay lưng đi về phía bệnh viện, bên trong ánh đèn hắt ra, bóng anh mờ ảo lướt đi rồi khuất sau cánh cổng.


Buổi trưa, cô vào bệnh viện, không quên mang theo những thứ anh đã dặn. Cô vào căn phòng hôm qua anh nằm. Nơi chiếc giường hôm qua là một gương mặt xa lạ đầy mệt mỏi của một quân nhân. Một bác sĩ bước vào, cô hỏi về anh và hỏi anh đang nằm ở phòng nào để cô thăm anh. Người bác sĩ nhìn cô buồn buồn:

- Anh ấy đi lúc chiều qua rồi, chúng tôi đã làm hết sức có thể. Xin chia buồn cùng cô và gia đình...!!!

Cô không kịp nghe hết thì đã khuỵu gối xuống, những món đồ anh dặn rơi vương vãi... Trời đất tối sầm trước mặt. Cô gắng gượng vịn tay vào thành giường. Giọng cô run run:

- Các anh có thể chỉ cho tôi chỗ anh ấy không? Tôi muốn vuốt mắt cho ảnh lần cuối..!

Rồi cô nức nở khóc, những đôi mắt buồn bã quanh cô, ai nấy trầm ngâm im lặng. Ngoài xa xa văng vẳng tiếng ca sĩ nào đó hát qua máy thâu thanh:

"Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại?

Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về

Anh trở lại, có thể bằng chiến thắng Pleime

Hay Ðức Cơ, Ðồng Xoài, Bình Giã

Anh trở về, anh trở về, hàng cây nghiêng ngả

Anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa

Anh trở về bằng chiếc băng ca

Trên trực thăng sơn màu tang trắng.

Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại?

Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về

Anh trở về chiều hoang trốn nắng

Poncho buồn phủ kín hồn anh

Anh trở về, bờ tóc em xanh

Chít khăn sô trên đầu vội vã, em ơi!

Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại ?

Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về..."

Tiếng ca da diết vang lên như từng hồi kinh niệm, rồi tan đi giữa không trung đầy mây xám. Văng vẳng đâu đó là tiếng động cơ của những chiếc trực thăng bay đi, bay về. Trên những chuyến bay đó, có lẽ có những thi hài giá lạnh của những chàng trai một lần qua sông Dịch trong thời chinh chiến. Họ đã ra đi, một lần và mãi mãi....


Cao Hoàng