Saturday, October 29, 2022

Cảm Nhận Một Chuyến Đi - Ngọc Ánh

Hình internet


Trước đêm qua Thụy Sĩ thăm Vydan, tôi nôn nao khó ngủ, có lẽ sự chờ đợi quá lâu để sắp xếp một chuyến đi mà hai mẹ con tưởng như không có thể gặp mặt được trong thời kỳ đại dịch COVID, cả thế giới lao đao vì phải ngăn sông cấm chợ để đối phó với thảm họa kinh khủng này, sức khỏe thằng bé vốn mong manh như cọng cỏ khô, chỉ  cần cơn gió nhẹ cũng có thể mang nó vào hư không , lúc đó tôi lo cuống cuồng vì sợ mất Vydan, mà cũng có thể chính tôi sẽ ra đi trong tuyệt vọng vì không còn dịp ôm con lần cuối cùng. Mỗi lần nghĩ tới cuộc chia ly này, tim tôi như thắt lại.

Vé xe lửa nhờ chị bạn bên Paris mua dùm trước đó cả tháng cho được giá rẻ, chuyến đi lần này không "mình ên" nữa vì anh ấy muốn đi theo để thăm Vydan, nói như anh" biết đâu không có lần sau" Ừ, biết đâu được, cơn gió nào bay qua vô tình, "gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi "thật lòng bây giờ đi đâu chúng tôi cũng cần có nhau, năm nay anh ấy cũng yếu lắm rồi, đi đứng chậm chạp, chưa kể những cơn đau bất chợt đâu đó khi trái gió trở trời của tuổi già, khiến tôi e ngại mỗi lần chuẩn bị một chuyến đi xa nhà.

Tôi có 3 người thân yêu nhất, ở 3 nơi khác nhau mà chỗ nào cũng xa xôi ngàn dặm, nên chúng tôi cố sắp xếp thời gian để đi cho kịp. Vydan là nơi đến đầu tiên.

Đầu thu mà mưa đã dai dẳng suốt đoạn đường, con tàu cứ băng băng như nỗi nhớ thương được rút dần khoảng cách, suốt mấy tiếng ngồi ê ẩm ngủ gà ngủ gật trên toa xe, tới sân ga thì trời cũng chập choạng tối, mưa còn dai dẳng, lạnh lẽo và chúng tôi mệt mỏi lắm rồi Tôi sẽ dành cho thằng bé sự bất ngờ vào sáng mai nên gọi Taxi về thẳng "nhà trọ", nghĩ rằng mình sẽ đến một nơi sầm uất có tiệm ăn và cà phê nóng.

Xe chạy loanh quanh và leo lên con dốc khá dài, một khu nhà xưa cũ kỹ, cây cối um tùm trong một buổi chiều chạng vạng, tôi nghĩ người tài xế lộn địa chỉ, nhưng không, ông ấy nhìn vào bản đồ trên xe và gật đầu, thật lòng tôi cũng không chắc chắn lắm, mò mẫm trên online cả tháng trước khi qua đây, tìm thấy nơi này ghi rõ là apartment cho thuê giá rẻ nhất vùng, chỉ cách chỗ Vydan ở khoảng 20' đi bộ, tôi đã bấm vào và trả tiền đầy đủ vì sợ "huốt" rồi không biết ở đâu, ai dè nó lại là nơi heo hút tối hù này, thôi đành vậy. 

Cánh cổng khép hờ, tôi đi lên cầu thang bấm chuông, một người phụ nữ khả ái hiện ra, tôi đưa số code đặt phòng và tên của mình, bà ấy đưa chìa khóa và chỉ tay vào căn phòng bên dưới, đó là một basement nhỏ gọn, có bếp và restroom riêng, giường nệm sạch sẽ. Chúng tôi đành ăn chút xíu bánh mì còn sót trong túi xách và ngủ một giấc sáng bét.

Có tiếng gà gáy, tôi ngờ ngợ tưởng mình nghe lầm. Chuẩn bị một ba lô quà cáp mà trước khi đi những bạn bè ở Mỹ đã gởi Mẹ mang cho Vydan bằng tấm lòng yêu thương của các cô chú dành cho thằng bé .

Chúng tôi rời phòng ra bên ngoài nhìn cảnh vật chung quanh, thì ra ngôi biệt thự xưa cũ nằm trên ngọn đồi, nhìn xa xa nhà cửa san sát bên dưới, thung lũng có đường rầy xe lửa chạy qua, trước cổng là đám rẫy bắp khô héo và mấy cái chuồng nhỏ có nuôi gà và thỏ, khung cảnh giống như vùng quê, yên tĩnh, thoáng mát. Thôi kệ, có chỗ ở giá rẻ là tốt rồi, trong khi cách đó chừng cây số, hotel thường thôi mà cũng đắt gấp ba lần, Thụy Sĩ là nơi dành cho nhà giàu mà.

Lâu rồi không thấy Vydan xuất hiện trên Facebook, tôi có nhắn tin trước khi đi nhưng chắc nó không đọc được, hỏi thăm chị bạn thì chỉ cho biết là nó vẫn ok, khiến tôi cũng yên tâm phần nào.

Khung cảnh khu chung cư  như cũ, tôi chạy lên cầu thang không cần đợi thang máy, cánh cửa phòng mở ra, Vydan đang ngồi trên xe lăn cùng các bạn của nó trong phòng khách, con mắt rạng rỡ như biết cười , miệng há to ra, tôi nắm cánh tay khẳng khiu của Vydan như ước lượng sức khỏe, hình như thằng bé gầy còm già nua hơn sau mấy năm không gặp, nhìn quanh ba đứa trẻ cũ, vẫn những gương mặt ngơ ngác không chút cảm xúc nào, tôi thấy mình cũng già đi khi không thể nhớ nổi tên từng đứa, có cái gì đó thay đổi ở đây khi xuất hiện nhiều nhân viên mới, tôi hỏi tên vài người bạn của Vydan trước đây, thằng bé buồn buồn không diễn tả được.

Chúng tôi xin phép cho Vydan ra ngoài dạo phố, cũng con đường góc chợ quen thuộc của mấy năm trước, quán cà phê đối diện với lâu đài cổ có cái đồng hồ to đùng trên cao mà đứng xa cũng nhìn thấy được.

Buổi sáng nắng ấm, quảng trường đông vui, quanh chúng tôi là những thanh niên cở tuổi Vydan, họ uống cà phê, hút thuốc và nói cười  vui vẻ, tuy không muốn so sánh nhưng tôi vẫn cảm thấy chạnh lòng, biết là không thể thay đổi được thân thể khuyết tật của thằng bé nhưng tôi vẫn ao ước nó đứng được trên đôi nạng, hay bàn tay nó nắm được một vật gì đó thật chắc, như cái muỗng đưa cà phê vào miệng lúc này, thay vì mẹ phải đút từng ngụm như baby.

Nỗi ao ước thật tầm thường mà phải có phép mầu mới thực hiện được. Thương thì nghĩ vậy chứ nó không mặc cảm gì đâu, trái lại thằng bé có vẻ hớn hở khi được mẹ chăm sóc. Tội nghiệp cho con trai của tôi, tóc lốm đốm hoa râm rồi mà mình vẫn tưởng như nó còn nhỏ lắm vậy.

Những ngày ở lại đây, ngoài 2 buổi đến chơi với thằng bé, chúng tôi lại lang thang quanh khu chợ, ngắm nghía những gian hàng sang trọng với cái giá không bao giờ dám đụng tới, may là chỗ ở có nồi niêu để nấu ăn, chúng tôi mua bịch gạo nhỏ, chai nước tương và thịt gà ướp sẵn, cũng chặt to kho mặn với rau xà lách tươi roi rói trộn dầu giấm, rồi cũng qua bữa.

Chuyến đi lần này không coi ngày vì trùng hợp với lễ hội gì đó của địa phương, hầu hết dân ở đây đều đi chơi xa cuối tuần, gia đình Luctine cũng email báo tin vắng nhà, nhưng hẹn nhau buổi ăn tối trước khi chúng tôi về lại Paris.

Hình như ở đây có thông lệ là các nhà hàng siêu thị buôn bán đều đóng cửa ngày chủ nhật, trừ quán bar và cà phê thôi, hèn gì phố xá vắng teo trong ngày này và chúng tôi bị lúng túng vì không biết mua đồ ăn ở đâu, may có gian hàng nhỏ của người Việt Nam còn mở, trong đó chỉ có đồ đông lạnh mà mắc dàn trời, đành lấy hộp cá cơm về kho tiêu, thiệt tình thiếu gia vị nên tanh ớn luôn.

Một tuần lễ qua mau, chúng tôi lại chia tay bịn rịn, tôi hiểu tại sao nó buồn buồn vì qua cơn đại dịch, nhân viên ở đây thay đổi, những người chăm sóc cho nó trước kia đã đi làm nơi khác, nó mất bạn để vui chơi, mặc dù chỉ nhìn thôi nhưng đã nói biết bao điều, sự chia sẻ, thân tình trong ánh mắt, cử chỉ của những chàng trai trẻ đó bây giờ đã không còn,  chỉ có các bà các cô thôi, họ cũng vui vẻ dễ thương, nhưng Vydan thích mấy tên bạn trai khi trước  vì chúng trang lứa dễ thân thiện hơn, tôi nghĩ thằng bé là đứa dễ xúc động, nhưng rất kín đáo, nó buồn mà không thể nói ra được, nhưng  bằng trái tim nhạy cảm của người Mẹ thì tôi biết thằng bé đang sống rất cô đơn trong lúc này, dù được ở một nơi mà sự chăm sóc tốt nhất của chính phủ Thụy Sĩ dành cho những người khuyết tật như nó thì không có gì phải phàn nàn, căn phòng riêng được bài trí gọn gàng ngăn nắp, mở ngăn tủ quần áo cũng đầy ắp đồ lạnh, khăn tả, giày vớ, coi bản thực đơn mỗi ngày vẫn đầy đủ chất dinh dưỡng. 

Cuối tuần trong khi mấy đứa kia có cha mẹ ở gần đón về nhà chơi thì người ta đưa nó đi xem phim ở rạp, những bộ phim hoạt hình mà mấy đứa trẻ thích thú cười vang rân, tôi cũng mua vé vào ngồi cạnh cho nó vui.

Thỉnh thoảng Vydan cũng được tham dự những trại hè dành cho người khuyết tật, tôi thấy hình nó được đăng trong Cerebral ( Association Cerebral Vaud) một tạp chí phát hành nội bộ của hiệp hội này số gần đây, họ đã tổ chức sinh nhật cho nó nhân buổi cắm trại hồi tháng 7.

Rồi cũng đến lúc phải chia tay Vydan, hôm đến trời mưa ướt lạnh, ngày đi trời cũng sụt sùi, chúng tôi hứa với thằng bé là sẽ đến thăm nó vào năm sau. Hứa mà trong lòng không chắc chắn lắm, tuổi càng ngày càng già, sức khỏe cũng mòn mỏi, tôi nghĩ đến chuyện phải để con bé thăm anh nó một lần cho biết đường đi, lỡ tôi mất rồi, ai sẽ đến với nó đây?

Mới nghĩ thôi đã thấy xót xa rồi, biết thêm tin không vui là chị bạn, cái gạch nối duy nhất giúp tôi liên lạc với Vydan sẽ dời về Việt Nam sống vào cuối năm nay, chúng tôi mất đi một địa chỉ thân quen mỗi khi qua đây thăm thằng bé, dĩ nhiên là vẫn có thể tìm cách khác được, nhưng cũng khó gặp người nhiệt tình như chị ấy. Tạm biệt con dế mèn cô đơn, thương con vô cùng .


Về lại Paris chúng tôi có nhiều bạn bè hò hẹn, hầu hết là bạn "bát thập cổ lai" của anh Sâm, đến từng tuổi này còn ngồi lại với nhau uống cà phê là quý lắm rồi, nhưng dân Paris hình như thích uống rượu hơn hay sao ấy, vào quán là phải có ly vang cầm tay như ông Kiệt Tấn,  Lê Tài Điển,  ghé thăm mấy bạn già như Ông Xuân Hy, ÔngTiểu Tử, Nguyễn Thị Cỏ May, Ông Trần thanh  Hiệp, Từ Thức...chân cẳng yếu không đi đâu được thì ngồi uống trà nhắc chuyện hồi xưa hơn nửa thế kỷ trước cũng vui, người già thường hoài cổ mà.

Mấy ngày đầu còn nhờ ông bạn dẫn đi Metroliner, sau đó thì tải cái RATP vô phone, muốn đi đâu cứ lên đó tìm,  vậy là những lúc rảnh rỗi chúng tôi lại lang thang khám phá những điểm kỳ thú của Paris, mà có tốn kém gì đâu, chỉ khoảng 5€ cho vé đi về bằng Metroline là vui cả ngày, cái tuyệt vời của hệ thống xe lửa này là nó rất đúng giờ, đi bộ vài phút là tới ngay địa điểm mình cần đến.

Đọc trên mạng nói về nhà báo Noir Victor bị em trai của vua Napoleon bắn chết hồi thế kỷ 19 vì bất đồng chính kiến, cái chết của ông như một biểu tượng cách mạng thời đó, nhưng thú vị của câu chuyện này là tượng ông được tạc nằm dài y như hồi bị bắn, dáng vẻ thong dong nhìn trời, nhưng không hiểu sao người tạc tượng lại tạc y chang (?) đáy quần ông căng phồng lúc đó, rồi người ta đồn thổi nhau về chuyện hoang đường là nếu ai đang mang thai thì đến rờ chân trái hay phải của ông để sinh con theo ý muốn còn có nhiều bà đầm lại khoái rờ chỗ căng phồng kia, hay leo lên tượng hôn môi ông, rờ cằm rờ mũi ông nên thời gian hơn trăm năm rồi, tượng đồng đã ngã màu nhưng mấy chỗ rờ thì sáng bóng. Chúng tôi đến coi vì tò mò hơn là muốn rờ, vì biết chắc không còn cơ hội trải nghiệm nữa (ha ha) Có mấy hôm vào thư viện Viễn Đông Bác Cổ của Pháp (École française d'Extrême-Orient, viết tắt EFEO) để tìm tài liệu chữ Nôm quý hiếm còn lưu trữ ở đây, mấy lần trước thì muốn xin tài liệu phải nhờ họ copy, vừa tốn tiền vừa ôm về Mỹ nặng nề, có lúc xui bể chai nước tương Maggi thì thôi rồi lượm ơi...

Lần này hiện đại hơn nhiều, cài máy scan vô phone, cứ lật qua trang là bấm nút ào ào, làm chăm chỉ,  chịu khó đứng yên cho tay khỏi run, chừng vài tiếng là xong mấy cuốn. Phải nói tuổi chúng tôi còn có cơ hội để thừa hưởng sự tuyệt vời của nền công nghệ hiện đại này, quả là may mắn.

Từ thư viện lang thang tới tháp Eiffel chừng 2 miles, lại bánh mì nước lạnh trong ba lô, chúng tôi đến đó chụp đủ góc cạnh của tòa tháp nổi tiếng này, khách du lịch lúc nào cũng đông nghẹt dù trời mưa hay trời nắng, tháp nằm bên cạnh dòng sông Seine có xe bus và tàu chở đi vòng vòng nên càng hấp dẫn khách đến viếng hơn.

Lần này thì không có dịp đi lại cây cầu mà người ta gắn nhiều ổ khóa tình yêu trên đó, nghe nói những ổ khóa bị dẹp rồi vì sức nặng của nó có thể làm hư thanh cầu, nhưng chắc cái chữ mà tôi khắc sâu trên đó sẽ còn " như tình yêu của anh và em"  Trời ơi, cải lương bắt ớn!

Chị bạn đồng hương cho vé đi coi viện bảo tàng Louvre, một điểm đến cũng không kém phần hấp dẫn vì đây là  cái rún của Paris với nhiều đền đài cổ xưa bao quanh khu trung tâm, tượng đá đặt khắp mọi nơi  trong vườn hoa,  có ghế ngồi quanh hồ phun nước hay ghế nằm đặt rải rác ở lối đi cho du khách nào mỏi chân, muốn ngắm trời trong xanh và đánh một giấc yên bình không ai quấy rầy (với điều kiện không có mang đồ đạc túi xách gì quý giá để mất, vì Paris cũng có nhiều tay diệu thủ sẵn sàng) Chúng tôi cũng sắp hàng rồng rắn để vào coi cho được bức tranh nổi tiếng của nàng Mona Lisa với nụ cười mím chi bí ẩn, tôi thất vọng khi thấy bức tranh nhỏ xíu lọt thỏm vô cái  khung tường quá lớn,  so với các bức tranh cân xứng chung quanh, hình như có cái gì đó sai sai ở đây, hay là tại nhiều người ngắm quá nên nàng co rúm lại vì mắc cỡ, khung tường phải rào chắn an toàn cách cả thước vì du khách đông quá, nên khó mà có được tấm hình đứng sát người đẹp trăm tuổi này.

Chúng tôi cứ trôi theo dòng người ngắm nghía các tác phẩm trưng bày trên tường, nhiều nhất là tượng đá khỏa thân, nam thì "cái ấy "tồng ngồng, nữ thì cặp ngực trắng tinh, nhưng chắc mình chưa đủ trình độ để thưởng thức cái đẹp của nghệ thuật siêu đẳng này nên nhìn vậy thôi, đôi khi rờ rờ để biết chắc là tượng bằng đá chớ hổng phải bằng thạch cao. Lại đưa phone lên chụp lia lịa, chụp luôn hàng chữ bên dưới  mỗi bức tượng, mỗi tấm tranh để mai mốt về nhà đọc coi nó có ý nghĩa gì.

Đang lơ mơ thưởng ngoạn thì nghe giọng nói ở sau lưng, nhìn lại thì thấy một đại gia nhà mình mặc quần short, áo vest đang chỉ trỏ gì đó, cái quần short trong khung cảnh thanh lịch nam nữ ăn mặc sang trọng này làm tôi thấy kỳ cục, dị hợm giống như thấy tên Tây nào đó bước vô Chùa miếu đền đài bên Việt Nam mà mặc quần short áo thung ba lỗ coi chướng mắt liền.

Văn hóa là chỗ này nè, nhưng biết nói sao khi người ta mặc "a la mode" như vậy, đi cứ như lấn và oang oang giọng Việt Nam nơi đông người như ở đây,  cũng có thể tánh tôi kỳ thị cố chấp.  Chỉ là chút phản cảm qua đường thôi mà.

Tuy không phải là con chiên của Chúa nhưng qua sự giới thiệu của một cha đạo ở Sài Gòn, chúng tôi đến thăm nơi chứa xương cốt của các vị Thánh tử vì đạo tại vùng Paris,  còn gọi là MEP ( Missions Etrangeres de Paris) là một học viện tôn giáo thành lập từ 1683, nơi đào tạo các cha đạo có nhiệm vụ đi truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới.

Chúng tôi được tận tay sờ vào hộc tủ đựng xương cốt của các cố đạo, đọc danh sách những người Việt Nam đã chết trên thập tự giá vì một lý tưởng cao cả, xem những tài liệu, hiện vật về cuộc trường chinh gian khổ của các cha ở khắp nơi trên thế giới để đem kinh thánh truyền bá đức tin đến mọi người và riêng Việt Nam, các cha còn có công đem chữ quốc ngữ vào đất nước mình( Alexandre de Rhodes là một trong các giám mục thời đó của thế kỷ 16) Thật thú vị khi được đến một nơi mang nhiều ý nghĩa tâm linh liên quan tới đất nước mình, với những sự kiện lịch sử tôn giáo để qua đó mình mở mang thêm kiến thức, và chắc gì các con chiên trong nước có dịp đến đây để cảm nhận Thiên Chúa trong lòng.Chỉ là duyên thôi! Chúng tôi đã không tiếc công bỏ cả buổi sáng trời mưa đi bộ vòng vòng gần 1 giờ vì lạc đường và muốn bỏ cuộc, trong khi tòa nhà rất gần trạm Metro.  Chắc Chúa đã thử thách sự kiên trì của kẻ ngoại đạo như chúng tôi chăng?

Có một gia đình hoàng tộc Việt Nam đã sống lưu vong tại Pháp mà chúng ta không thể không nhắc đến, đó là vị vua cuối cùng của  triều Nguyễn, cựu hoàng Bảo Đại, ông mất năm 1997 và Hoàng Hậu Nam Phương mất năm 1963, hai người lúc sống đã không "đồng tịch đồng sàng" nên chết ở hai nơi xa lắc, vì mộ ông được chôn  ở nghĩa trang Cimetier de Passy gần Paris nên chúng tôi có dịp viếng thăm. Đến nơi mới biết trong thời đại dịch bà vợ sau cùng của ông là bà đầm Monique Baudot đã mất hồi năm ngoái, chôn chung trong cùng một huyệt, mộ được xây dựng khang trang bằng đá hoa cương màu đen, bia khắc hàng chữ mạ vàng rất trang trọng trên cùng "Hoàng Đế Việt Nam- Bảo Đại"

Buổi sáng còn mờ sương, nhìn những ngôi mộ chung quanh thấp thoáng một thời hoàng kim lộng lẫy của những bậc vương tướng công hầu của nước Pháp đã nằm ở đây, có cái hàng trăm năm, có những bia đá tên tuổi khắc trên đó cũng mòn theo thời gian, mộ ông vua nước mình là  mới nhất vì chỉ vài chục năm gần đây thôi, có ai đó đặt nhiều chậu hoa tươi trên mộ ông, có cả nhang và hột quẹt theo kiểu rất quen thuộc ở quê nhà. Chúng tôi viếng mộ ông bằng sự thành kính của công dân Việt Nam đối với vị vua từng có một thời uy quyền của đất nước. 

Vì mộ bà Hoàng hậu Nam Phương ở quá xa nên chúng tôi hẹn dịp khác, nhất định phải đến viếng bà, một người phụ nữ Miền Nam đáng kính.

Khi viết bài này thì dân Việt Nam trong và ngoài nước đang xôn xao vụ Paris sắp sửa đem bảo vật của quốc gia ra đấu giá, đó là cái ấn bằng vàng có từ thời vua Minh Mạng, được truyền vòng vòng từ trong nước qua đến Paris và người giữ cuối cùng là ông Bảo Đại, khi ông qua đời cách đây hơn 20 năm thì bà vợ đầm của ông là bà Monique Baudot đã giữ bảo vật đó cho tới khi bà chết năm 2021,  nay gia đình của bà đầm này đem ra bán đấu giá qua công ty Millon Paris vào cuối tháng 10/2022 .

Rất xót xa khi nghe tin này. Thời thế của Việt Nam đã trải qua biết bao thăng trầm trong lịch sử , những di tích đền đài bị phá hủy phần nào do chiến tranh, những báu vật của quốc gia lần lượt bị thất thoát theo nhiều cách và hiện nay đất nước còn trong tay CS cầm quyền, một cái đảng chỉ biết cấu xé nhau vì tư lợi, chỉ biết bòn rút của công vào túi riêng của mình, xem nhẹ mọi giá trị văn hóa truyền thống thì liệu báu vật như cái ấn vàng quý giá kia có còn cơ hội quay về cố quốc?

Thật lòng tôi cũng mong có một tên đại gia tiền tỉ tỉ nào đó trong nước muốn chơi ngông, mua đem về, chắc hẳn không phải vì lòng yêu nước gì đâu, chỉ muốn lấy tiếng thôi thì cũng nên cám ơn hắn ta về hành động này, còn hơn bảo vật lưu lạc qua tay nước khác, biết khi nào thấy được, hy vọng dòng tộc Nguyễn Phước của ông vận động và thương lượng được với công ty Millon để tạm hoãn việc đấu giá bảo vật này. 

Qua Paris lần này gặp  nhiều điều thú vị bất ngờ,  khi có dịp đi coi buổi kịch thơ đờn ca tài tử tuồng Kim Vân Kiều, một tác phẩm văn học bề thế của Việt Nam được các bạn trẻ bên Paris dàn dựng và trình diễn,  nói trẻ vì tuổi đời của các em cháu ấy đều dưới 50, có em sanh ở nước ngoài, có em theo cha mẹ thuyền nhân qua Pháp định cư hồi rất nhỏ, dĩ nhiên hầu hết là các diễn viên không chuyên nghiệp, nhưng có rất nhiều sự cố gắng trong biểu diễn, hóa thân những nhân vật trong truyện Kiều một cách xuất sắc (theo cái nhìn cũng không chuyên nghiệp của chúng tôi) Khán phòng đông người, vui nhất là các em trẻ người bản xứ không biết chút gì về văn hóa nghệ thuật của Việt Nam, nhưng qua thuyết minh bằng tiếng Pháp lưu loát của một MC duyên dáng và sự trình diễn có tuồng tích lớp lang của diễn viên thì họ dễ dàng nắm bắt cốt truyện. Có thể buổi trình diễn không hoàn hảo như ý muốn của người khó tính đã từng biết qua trên sân khấu ở quê nhà, nhưng theo tôi thì các bạn trẻ đã thành công khi đem Kiều giới thiệu cho dân Paris biết một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam. Một vở kịch được dàn dựng công phu mấy năm trời, tốn nhiều thời gian công sức và tiền bạc của các bạn ấy, vậy mà giá vé rẻ đến bất ngờ( 20€ cho người lớn và 10€ cho sinh viên học sinh) chưa kể vé mời gởi tới các hội đoàn, cộng đồng người Việt ở Paris và các vùng lân cận. Trong khi đó thì có tờ rơi quảng cáo về buổi ca nhạc sắp tới của Khánh Ly ở vùng này với giá vé cao gấp 2-3 lần, không biết có đông người tham dự như coi Kiều hôm nay không, nhưng cũng cảm thấy chạnh lòng thương cho các bạn trẻ có tấm lòng với văn hóa Việt như nhóm đờn ca tài tử này, thật tình không biết họ có nguồn tài trợ nào khác ngoài việc bán vé , nhưng tôi nghĩ là họ sẽ bội thu vào những đợt trình diễn tiếp theo, nếu việc làm của họ chạm vào trái tim của dân Paris trong buổi trình diễn đầu tiên này.

Có duyên nữa là được tham dự buổi ra mắt cuốn sách "Những khuôn mặt văn hóa Việt Nam hải ngoại" do nhóm câu lạc bộ Văn hóa Paris biên soạn và giới thiệu, nhằm vinh danh những người Việt sống khắp nơi đã có công bảo tồn và phát huy nền văn hóa, văn học nghệ thuật ở hải ngoại suốt chiều dài lịch sử lưu vong gần nửa thế kỷ nay. Cuốn sách dầy hơn 800 trang, là một công trình biên soạn rất cẩn trọng của ban chủ biên với nhiều tác giả tác phẩm trong mọi lãnh vực như biên khảo, văn học, hội họa, ca nhạc...Nói chung là liên quan tới văn hóa nghệ thuật của Việt Nam đã được sắp xếp theo thứ tự khoa học và nói như Ban Biên tập là "nhằm vinh danh sự nghiệp của những người làm văn hóa đã tận tụy đóng góp công sức cho việc bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam từ trước 1975 ở trong nước và còn tiếp tục khi ra sống ở hải ngoại " Với mục đích lưu lại cho lớp trẻ về sau muốn tìm hiểu nghiên cứu về hoạt động văn hóa dân tộc của lớp người trước đây và trong thời gian họ sống ở hải ngoại , như một cách học sử chuyên đề về văn hóa xưa và nay của người Việt mình.

Theo nhận xét riêng của chúng tôi thì cuốn sách đầy nhưng chưa đủ vì có thể còn thiếu sót nhiều khuôn mặt sống thầm lặng ở đâu đó hoặc do bản tánh khiêm tốn ẩn dật nhưng sự đóng góp của họ cũng có chiều sâu đáng kể mà chúng ta chưa khám phá ra hết. Chắc sẽ còn nhiều cuốn sách biên tập như vậy nữa để bổ sung và làm phong phú thêm cho nền văn hóa hải ngoại. Mong lắm thay! Buổi ra mắt sách có khá đông người tham dự, có nhiều tên tuổi nổi tiếng của Paris cũng có mặt như ca sĩ Bạch Yến, nhà văn Thụy Khuê, học giả Trần văn Tích, giáo sư Nguyễn đăng Trúc...Nhưng ấn tượng nhất là màn trình diễn của  ban nhạc FAVIC ( France Amerique ViệtNam Inter Culture Contact) tốp ca không có người Việt Nam nhưng chỉ hát nhạc dân ca VN, gồm nhiều anh chị ở 8 quốc gia khác nhau và đặc biệt hơn nữa là họ đi hát  "chùa" ở khắp mọi nơi, trong tinh thần vui vẻ tự nguyện. Nam mặc áo dài khăn đống và nữ thì mặc áo tứ thân rực rỡ, nghe cái giọng thật chuẩn " Tôi yêu quê tôi, yêu lũy tre dài đẹp xinh" mà thương hết sức luôn. Cám ơn các bạn đã yêu thích tiếng Việt của chúng tôi mà cố công học hỏi.

Trong sự quen biết văn nghệ văn gừng và mối duyên kết nối dây mơ nào đó mà lần này chúng tôi có dịp gặp được nhiều bạn trẻ, rất trẻ, họ có kiến thức văn học khá tốt, biết quan tâm tới tình hình trong nước, biết yêu thương quê hương và gắn bó với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, họ là lớp trẻ kế thừa mà tôi nghĩ mình sẽ không thất vọng khi tự hào về các bạn trẻ này, họ đã ở khắp nơi trên thế giới theo dòng đời lưu vong với cha mẹ trong thảm họa đau buồn của đất nước, họ viết văn,làm thơ, sáng tác nhạc đấu tranh cho Tự do dân chủ ở Việt Nam, biên kịch đạo diễn những tác phẩm văn học nổi tiếng xưa của Việt Nam như nhóm diễn Kiều vừa rồi, các bạn đã khiến tôi có cái nhìn khác đi khi nghĩ lớp trẻ hiện đại chắc chỉ lo cuộc sống hưởng thụ, và vô tư.

Cám ơn các em các cháu còn tấm lòng thiết tha với Việt Nam dù biết chắc máu mình đã bị pha loãng, nhưng đó là giọt máu đào đầy ơn nghĩa.

Cũng dịp chúng tôi biết thêm 2 khuôn mặt Tây rặt nhưng nói tiếng Việt như gió, họ đều là Thầy trò trong những ngôi trường danh giá của Paris nhưng dạy tiếng Nôm cho người Pháp  nên khi gặp " sư phụ NVS" thì không bỏ cơ hội mời Thầy đi uống cà phê và hỏi nhiều câu thơ ẩn dụ trong bản Nôm mà họ không thể hiểu hết được.

Quý thay trong thời buổi này còn có người quan tâm tới thứ ngôn ngữ xưa cũ đó, lại là dân Tây mới ghê chớ, ngưỡng mộ thiệt.

Thời gian rong ruổi ở Paris rồi cũng qua mau, đi lần này có nhiều cảm nhận thật thú vị, biết được nhiều nơi nổi tiếng, gặp được nhiều bạn bè rất thân tình, riêng tôi thì tìm lại được một kỷ vật sau 40 năm lưu lạc,  dĩ nhiên không phải ấn vàng của vua rồi, nhưng cũng rất quý giá, đó là cái ca nhựa tầm thường dùng để đựng cơm trong thời gian ở tù.

Ông đồ già NVS thì có những cuốn sách Nôm quý hiếm dù chỉ là bản scan, nhưng không dễ gì tìm được ở nơi khác. 

Đêm cuối cùng Paris by night trong ngôi nhà nhỏ ấm áp tình thân, nghe anh bạn trẻ ca bài  "Tiễn em "với tiếng đàn guitar dìu dặt,

thấy lòng mình như chùng xuống " lên xe tiễn em đi , chưa bao giờ buồn thế, hôn nhau phút này, vai em ướt mèm, em ơi khóc đi em ... 

Nơi em có trăng soi, anh một mình rét mướt..." Tự dưng thấy xao xuyến gì đâu. Cái thói quen tệ hại của tôi là hát mà không nhớ tên tác giả dù trong đời đã trải qua rất nhiều cuộc chia ly mà lần nào cũng ư ử " lên xe tiễn em/anh đi, chưa bao giờ buồn thế" nhưng bây giờ thì nhớ tên ông ấy rồi, bài Tiễn Em thơ Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy phổ nhạc và bây giờ biết cảm nhận cái chữ "buồn thế " miên man, sâu lắng trong tim.

Những ngày ở Paris, trời mùa thu nơi đây có nhiều hôm mưa ẩm ướt se lạnh, khiến người lữ khách như tôi chợt bâng khuâng hoài cảm, chạnh lòng nhớ kỷ niệm nào đó đã xa, "tay nương giọt nước mái nhà, nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn" ( thơ của ai đó lại quên rồi),

Đi lang thang qua từng con đường ngập lá vàng, trên sân ga Lyon lúc nào cũng nhộn nhịp buổi sáng và ngơ ngác đèn vàng buổi tối, hay bước dọc bờ sông Seine dưới cơn mưa lất phất đủ ướt áo vai gầy, có cái gì đó lãng mạn rất Paris, có lẽ do dư âm những ca khúc trữ tình của người thi sĩ tài hoa vừa mới mất, khiến trời thu Paris thêm nồng nàn màu sắc hơn chăng.

Đêm cuối cùng ở Paris, một chút lắng đọng thổn thức, nếu ngày mai tôi trở về thành phố nhỏ  thân thương quen thuộc của mình ở California, để nghe ai đó hỏi "Paris có gì lạ không em?" Chắc là tôi sẽ nói " Ở đó có người vừa bỏ quên con tim!"


Bài viết này thay lời Cám Ơn đến tất cả bạn bè thân quen ở Paris đã dành cho chúng tôi sự ấm áp thân thiện trong những ngày "ngộ cố tri" ở đất khách quê người.


Ngọc Ánh

Tháng 10/2022

Halloween - Đỗ Công Luận

 

Có Một Ngày Nào Đó

 

Có một ngày nào đó, bạn bỗng nhận ra mình đã già!

Đó là khi bạn không còn hứng thú với những thứ lòe loẹt, những cảnh sắc rực rỡ, những nơi náo nhiệt và ồn ào thanh âm. 

Già, là khi bạn thức dậy lúc 4 giờ sáng, chỉ để nghe tiếng gà gáy ban mai và nằm đợi ánh bình minh lóe sáng sau rèm cửa… 

Già, là tối tối pha một ấm trà vừa đủ đặc, bật đài nghe những bài hát xưa cũ, đọc những cuốn sách cũ, chiêm nghiệm về cuộc đời, nửa gần nửa xa. 

Già, là khi bạn thích lang thang trên đường phố một mình, thích nhìn những bức tường loang lổ, những gốc cây rêu phong, những mái nhà cũ kỹ, thích những quán cổ, bàn ghế phủ bụi, không gian mốc thếch và mặt người trầm tư sau lớp sương thời gian.

Già, là khi bạn thích cảm giác được yên tĩnh một mình, chỉ một mình chìm trong những hoài niệm. Dạo này, thường nhắc đến những chuyện cũ. Có lẽ bởi thời gian đã gấp quá rồi!

Già, là khi bạn thấy mình ngày càng kiệm lời. Kiệm lời với chính bản thân, nhiều khi nghe tiếng nói của mình vang lên cũng giật mình. 

Già, là khi bạn bắt đầu tìm kiếm một nơi thật sự để đến, để sống và cất giữ tuổi già. Không phải để an dưỡng mà là để tách khỏi những ồn ào, thị phi.

Già, là khi bạn thôi không bận tâm những yêu thương, ghét bỏ, để lòng mình tha thứ cho qua hết giận hờn, buông bỏ bớt những nhạt nhòa, nghi kị. Chỉ giữ lại cho mình những niềm tin và đích đến, sống lặng lẽ và nhẹ nhàng, tự do trong khoảng trời riêng của chính mình. 

Già, là sống chỉ đủ cho mình, cho những người mình yêu, thế thôi…

Còn lại thì cứ như mây trời, lang bạt qua đời nhau, đã từng vui, đã từng buồn rồi mỗi người đôi ngả. Năm tháng đã qua ấy, tôi gọi tên là thanh xuân.


Sưu tầm

Hoa Vàng Tươi Đẹp - Minh Lương


Từ Thời Còn Trẻ… Đến Lúc Về Già - Nguyễn Ngọc Chính



Đời người thường được gói gọn trong một câu thật đơn giản: “Từ thời còn trẻ… đến lúc về già”. Nói như vậy nhưng không đơn giản chút nào vì những suy nghĩ phức tạp của từng thời kỳ, qua đó thể hiện quan niệm sống khác hẳn nhau, nhiều lúc đến độ mâu thuẫn, xung đột gay gắt. 

Thời còn trẻ bao gồm các giai đoạn từ thơ ấu, tiến dần đến tuổi vị thành niên và rồi trở thành thanh niên vào lứa tuổi từ 19 đến 24. Đây là khái niệm của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhưng chưa được thống nhất vì còn tùy thuộc vào từng khuôn khổ xã hội của từng quốc gia. Chẳng hạn như ở Trung Cộng, tuổi thanh niên là 29, trong khi tại Bangladesh là 34 và ở Malyasia thậm chí đến 40 tuổi!

Tuổi trẻ

Những người được gọi là “cao tuổi”, “cao niên” hay “người già” thường có độ tuổi từ 60 trở lên như tại Việt Nam. Tại một số nước quy định tuổi của người già được căn cứ vào những gì họ cống hiến cho gia đình và xã hội. Thuật ngữ “senior citizen” dùng tại Anh và Mỹ ám chỉ những người đã hưu trí (retiree), thường là những người từ 65 tuổi trở lên. Tại Mỹ, ngày 21/8 là ngày toàn quốc tôn vinh những công dân lớn tuổi, ngày đó được gọi là “National Senior Citizens Day”. 

Tuổi già

Bài viết này không có ý tôn vinh tuổi già và cũng chẳng đề cao tuổi trẻ. Tôi chỉ có tham vọng đặt vấn đề về những cảm xúc của con người thay đổi theo tuổi tác. Những điều được nêu ra dưới đây có thể mang phần nào ý nghĩa chủ quan vì người viết thuộc về lứa tuổi “gần đất xa trời”, nhưng thiết nghĩ, người trẻ cũng như già nên đọc để chiêm nghiệm những cái đúng và cả những cái sai.    

Đề tài từ cổ chí kim được nói đến nhiều nhất là “Tình yêu trai gái”. Một triết gia nào đó đã phân tích: Cảm xúc về Tâm hồn tạo ra Tình Bạn; Cảm xúc về Tri thức tạo ra lòng Kính Trọng và Cảm xúc về Thể xác tạo ra lòng Ham Muốn. Nếu cả ba cái này cộng lại, người ta sẽ có Tình Yêu (!). Cụ thể hơn, “Tình yêu Nam-Nữ” được thể hiện qua công thức:  

Tình yêu Nam & Nữ = Tình bạn + Tôn trọng + Ham muốn 

Lúc trẻ, tưởng yêu là tất cả, là mọi thứ trên đời... nhưng khi lớn tuổi, trải qua nhiều cuộc tình, mới biết sau yêu còn có… chia tay. Không phải chỉ một lần mà rất nhiều lần, cứ lập đi lập lại… Điều mà người trẻ tuổi không bao giờ hoặc ít khi nào nghĩ đến! 

Lúc trẻ, vẫn nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi, tình yêu là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời. Khi có tuổi mới biết tình yêu “đến đó rồi đi, có đó rồi mất”. Từ những cảm nghĩ lạc quan của tuổi trẻ người ta lại bước sang tư tưởng bi quan của người già!    

Lúc trẻ, cứ tưởng “yêu một người thì dễ, quên một người mới khó”. Người trẻ khi yêu hình như đã mặc nhiên công nhận vị trí “khó quên” của người bạn tình. Đến khi tuổi tác ngày một cao đã chứng minh điều ngược lại: người lớn tuổi thấy mình đã quên đi nhiều người mình đã từng yêu, quên một cách dễ dàng! 

Lúc trẻ cứ tưởng tình yêu luôn dựa theo nguyên tắc “bình đẳng” qua triết lý “yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại”. Về già mới chợt nhận ra bài học kinh nghiệm đầy bất công của tình yêu: “có những yêu thương chỉ cho mà không nhận”. Nhà thơ người Anh, Abraham Cowley (1628-1667) đã phải thốt lên: 

“Of all the pain, the greatest pain

It is to love, but love in vain”

Tạm dịch là: 

“Trong mọi khổ đau, niềm đau vĩ đại,

Là trót yêu người… không hề yêu lại”

Lúc trẻ cứ tưởng rằng “yêu một người là sống chết vì người đó”, giờ mới biết “yêu một người là phải biết tự yêu lấy mình”. Đây không phải là lòng “tự ái” của con người khi về già mà là những điều mà nhiều người có tuổi rút ra được sau những cuộc tình “mù quáng” của thời thanh niên và thiếu nữ.

Lúc trẻ cứ nghĩ “sau tình yêu sẽ là hôn nhân”, đến khi về già mới nhận ra: “vẫn có những cuộc hôn nhân không cần tình yêu”. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Tình yêu là Bình Minh của hôn nhân, hôn nhân là Hoàng Hôn của tình yêu” và với kinh nghiệm bản thân, Socrates khuyên nhủ mọi người: 

“Bằng đủ mọi cách, hãy lập gia đình. Nếu lấy được người vợ tốt, bạn sẽ hạnh phúc. Nếu lấy phải người xấu bạn sẽ trở thành một triết gia” (By all means: marry. If you get a good wife: you’ll become happy. If you get a bad one: you’ll become a philosopher).  

Ngay từ lúc còn trẻ nhiều người cũng đã trở thành “triết gia” vì yêu. Họ thích định nghĩa tình yêu với những mỹ từ, mỹ ý… Nào tình yêu là X, là Y, là A,B,C,D… khi lớn tuổi lại cuống cuồng vì hoang mang, không biết tình yêu thật sự là gì cả. Tại sao ư? Vì, “tình yêu thật khó định nghĩa: nó đến bất chợt, đi bất ngờ, và để lại một vết thương lòng muôn thuở”!

Tình yêu quả là… rắc rối 

Lúc trẻ cứ tưởng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm, về già mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản là những thứ bình dị xung quanh, có chăng là mình đã không nhận thấy. Người trẻ chỉ thấy hạnh phúc trong hôn nhân khi được sống bên người tình yêu mến, về già hạnh phúc đó lan tỏa đến con cháu qua một thứ không còn là tình yêu trai gái mà là tình ruột thịt, máu mủ. 

Khi còn trẻ, phạm vi giao tiếp thường mở rộng, bạn bè giao thiệp rất đông. Đến lúc ở vào tuổi về hưu bỗng thấy mình cô đơn vì cuộc sống thu hẹp và người già thường “ẩn mình” trong phạm vi gia đình. 

Tuy nhiên, cũng có người vẫn hăng say hoạt động xã hội để khỏa lấp sự trống rỗng, có người tìm một thú vui cho bản thân như chăm sóc cây cảnh, viết lách… Chỉ tội nghiệp những ai không tìm cho mình một hướng đi lúc về già trước khi bị bệnh tật tấn công để trở về với cát bụi. 

Lúc trẻ tưởng “nói quên là có thể quên được”, giờ mới biết có những chuyện càng muốn quên thì nó lại càng ở mãi trong lòng. Điều này cho thấy người lớn tuổi hướng về cuộc sống “nội tâm” trong khi người trẻ giữa cuộc sống tất bật ngoài xã hội, luôn… “hướng ngoại”. 

Lúc trẻ, tưởng cô đơn ở đâu xa lắm vì chung quanh toàn là người, về già mới hiểu những giây phút bên người thân quả là một sự ấm áp nhưng lại rất mong manh, trong khi đó, “nỗi cô đơn luôn ở bên cạnh”.

Cũng vì thế cho nên khi còn trẻ cứ tưởng việc đóng một cây đinh vào tường thật đơn giản vì không thích thì có thể nhổ đi. Về già mới thấy: đinh có thể nhổ nhưng vết lõm trên tường vẫn còn đó. 

“Hai mươi bốn năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau.

Đôi cái đầu đều bạc.

Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.

Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,

Con mắt còn có đuôi”

Đó là những lời kết trong bài thơ Tình Già của Phan Khôi đăng trên báo Phụ nữ Tân văn năm 1932. Bài thơ này có thể coi như tác phẩm thơ tự do đầu tiên, mở đường cho phong trào Thơ Mới ở Việt Nam. Về phương diện tình cảm, bài thơ thể hiện “một vết lõm trên tường” sau khi cái đinh được nhổ từ thời trai trẻ.

Hạnh phúc tuổi già 

Theo lẽ tự nhiên, người ta khóc khi buồn nhưng một khi có tuổi mới thấy điều buồn nhất là…“không thể khóc được”. Xem một cuốn phim, đọc một cuốn truyện người trẻ và người già thường có những cảm xúc khác hẳn nhau! Có thể vì đã từng trải nhiều nên tình cảm của người già đã trở nên… “chai lì”? Phải chăng tuyến lệ cũng đã bị “lão hóa” nên không còn hoạt động?

 Giọt nước mắt 

Ở một thái cực ngược lại, cười là vui nhưng nhiều khi người lớn tuổi lại thấy “có những giọt nước mắt còn vui hơn tiếng cười”, chẳng hạn như trường hợp gặp lại người thân sau một thời gian dài xa cách, “mừng mừng, tủi tủi”. 

Những lúc tình cảm đạt đến “cực điểm”, người ta thường nhớ đến câu thơ đầy mâu thuẫn của Xuân Diệu:  

“Cười là tiếng khóc khô không lệ

Người ta cười trong lúc quá chua cay” 

Người ta cũng có thể “cười ra nước mắt” hay như Nguyễn Du trong Kiều đã vẽ nên cảnh oái ăm “Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Suy cho cùng, chuyện Khóc-Cười là lẽ thường tình nhưng rõ ràng là mức độ Khóc-Cười thường bị ảnh hưởng phần nào vì tuổi tác.

 Khóc & Cười 

Lúc trẻ tưởng chỉ có kẹo là ngọt, giờ lớn mới biết có những thứ còn ngọt ngào hơn cả kẹo. Người cha già trên giường bệnh nhận từ con viên thuốc đắng nhưng sao vẫn thấy ngọt. Người mẹ già ăn bát canh khổ qua nhưng không cảm thấy đắng vì sự hiếu thảo của con. Ông cha ta thường nói: “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới” là vậy.

Lúc trẻ tưởng tượng rất nhiều, về già mới nhận ra: “chuyện cổ tích không bao giờ có thật”. Lúc trẻ, tưởng mình có thể thay đổi cả thế giới, khi tuổi tác đã cao mới thấy thay đổi chỉ một người cũng khó, có chăng vẫn chỉ là tự thay đổi mình.

Lúc trẻ cứ tưởng một khi thành “người lớn” là lớn, bây giờ mới thấy có nhiều người đã lớn mà vẫn chưa thành người lớn. Đến khi thật sự thành người lớn thì người ta mới hiểu: “không bao giờ bé trở lại được”. Đó là sự thật khiến cho nhiều người lúc bé cứ mong mình chóng lớn, giờ đây lớn rồi lại ước gì mình bé lại. 

Lúc trẻ cứ mơ ước lớn lên sẽ trở thành người này người kia. Về già mới biết: “được trở thành chính mình mới là hạnh phúc nhất”. Lúc trẻ tưởng rằng “những gì đến rồi sẽ đi”, giờ mới biết: “khi niềm vui đến thường qua mau, còn nỗi buồn đến thì cứ ở bên ta mãi mãi”.

Lúc trẻ cứ nghĩ: “Tiền bạc, Tình yêu rồi mới đến Sức khỏe”, về già mới khám phá sự đảo ngược: “Sức khỏe, Tiền bạc, Tình yêu”. Lúc trẻ rất sợ phải chết, nhưng về già “sự lãng quên còn đáng sợ hơn cái chết rất nhiều”. 

Cuối cùng, lúc trẻ cứ tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm. Về già mới hiểu nó chỉ cách nhau một lằn chỉ mong manh. Johann Von Goethe đã từng nói: “Cái chết, ở một mức độ nào đó, là một điều vô lý bỗng trở thành hiện thực” (Death is, to a certain extent, an impossibility which suddenly becomes a reality).

  

Nguyễn Ngọc Chính

Nói Chuyện Với Ấn - Lê Xuân Cảnh

 

Thưa các anh chị quí mến, 

Theo tin Reuters, ông Rishi Sunak (người gốc Ấn) trở thành Thủ-tướng của nước Anh sau khi giành được chiến-thắng nắm quyền lãnh-đạo Đảng Bảo-thủ vào hôm thứ hai 10/24/2022. 

Nhân tin thời-sự nóng này, tôi xin được tặng quí anh chị một bài thơ vui nói về ngôn-ngữ.
VUI LÀ CHÍNH ! 
NÓI CHUYỆN VỚI ẤN
Cả nước Ấn-độ vui mừng,
Thủ-tướng Anh quốc người cùng màu da,
Việt Nam gọi là Chà Và,
Họ nói tiếng Mỹ nghe ra chết liền, (*)
Chắc phải cần thông-dịch viên,
Mỗi khi Thủ-tướng họp riêng với mình, 
Mới thấy người Việt giỏi kinh,
Phát-âm tiếng Pháp tiếng Anh dễ dàng,
Accent đâu đó rõ- ràng,
Gặp Pháp, gặp Mỹ sẵn sàng nổ ngay,
Nhưng gặp ông Cari Cay,
Ông Việt chỉ biết đứng ngây người nhìn!  🙄
Nói chuyện với Ấn mệt kinh ! 😀
(*) Quí anh chị nào chưa “may mắn”,
Được nói tiếng Mỹ với người Ấn,
Cứ can-đảm thử một lần,
Nếu còn tần-ngần, lưỡng-lự thì thôi !
Chúc quí bạn một ngày vui ! 😊
Lê Xuân Cảnh 

Have a wonderful day, seniors !

***********************************************

THƯA CÁC ANH CHỊ QUÍ MẾN, 

Bài thơ này được viết ra,

Để bổ-túc chuyện hôm qua buồn cười,

Gần hai trăm mails góp lời,

Đa-số thông-cảm chuyện người Indian,

Mà Anh, Chị là nạn-nhân,

Ít nhất một lần khi nói qua phone,

Có vị cúp điện-thoại luôn,

Chạy ngay vào buồng đập phá lung tung, 😀

Nhưng có vị may mắn hơn,

Được nói chuyện thường với giới tinh-hoa,

Như là Bác-sĩ, chuyên-gia,

Accent như là Anh chính gốc luôn,

Ấn là nước mà Anh thương, 😀

Chỉ bảo tận tường, dạy dỗ công-phu,

Nhất là về mặt an-cư,

Dặn: Dân càng ít càng thư-thả nhiều,

Nay dân-số Ấn bao nhiêu ?

Một tỷ tư ! Cũng có nhiều gì đâu !😀

Lắm thổ-ngữ, khó hiểu nhau,

Họ dùng Anh-ngữ làm cầu cảm-thông,

Nên toàn Brrr Brrr Brrr không ! 

Hôm nay không dám dài giòng,

Chỉ xin được kể chuyện trong nhà mình:

CÁI WI-FI VÀ HẢNG AT&T U-VERSE !

Tự-nhiên trong nhà mất Wi-Fi,

Customer Service gọi ngay,

Nghe thấy bên kia đầu dây,

Brrr Brrr Brrr Brrr, kiểu này chết tôi,

Ước gì mình là Ấn thôi,

Để có thể đấu tay đôi với người,

AT&T chắc chọn kỹ rồi,

Phải thật giỏi chủ mới mời vào đây,

Cho phụ-trách công việc này,

Hướng-dẫn kỹ-thuật suốt ngày không ngơi,

Nhưng tớ chỉ muốn hỏi thôi,

Tại sao lại tuyển những người Brrr !?

 Câu trả lời đến ngon ơ,

Vì bố phỏng-vấn là vua Brrr 😀

Ấn nghe Ấn rõ lắm cơ, 

Chỉ có chết customer (*) như mình,

Kỹ-sư Ấn-độ giỏi kinh,

Nhưng nếu cứ Brrr chắc mình chia tay,

Rẻ cách mấy cũng đành bye (*)!

Bực mình quá có thể die (*) bất ngờ,

Brrr Brrr Brrr Brrr Brrr Brrr 😀

Lê Xuân Cảnh 

PS: Nhờ ông Sunak lên ngôi,

Chúng ta dựng chuyện để cười với nhau,

Chớ ông này tiếng Anh ngầu,

Brrr thì có ma bầu cho ông ! 

(*) Dùng tiếng Mỹ, nhớ ơn bác Lai,

Đã từng khuyến khích cũng hai ba lần,

Làm thơ mà kẹt vận, vần,

Chữ Việt không có, ta dùng tiếng Anh !  😊

Đã vừa dễ lại vừa nhanh 🙏

27-28/10/2022

Lê Xuân Cảnh

Tình Xa Có Buồn - Đỗ Công Luận

Friday, October 28, 2022

Con Đỉa Hai Vòi - Nguyễn Văn Sâm

 

Chú Tám cầm tấm giấy đi lãnh đồ mà nước mắt rưng rưng. Vợ chồng Chú từ ngày đổi đời tới giờ cứ trông đứng trông ngồi tin tức của đứa con gái độc nhứt của mình. Mình già rồi, biết sống nay chết mai gì, mà sao sống cơ cực quá. Mình như mặt trời xế bóng mà con cái thì biền biệt tăm hơi. Cầu mong cho nó còn sống nó gởi thơ dìa để mình mừng, để coi bầy cháu ngoại bây giờ ra sao. Nếu nó có dư giả gửi dìa chút đỉnh thì cũng tốt, bằng nó chưa khá, mà có lòng tưởng tới mình thì gởi thơ cho biết tin tức không cũng được. Chú luôn luôn nói với Thiếm như vậy, rồi ngày lại ngày hai vợ chồng ngóng thơ con. Mà ác ôn, Cô Hai, con chú gần hai năm sau mới có điện tín về, gồm vỏn vẹn chỉ có hai câu: “Cháu gởi lời thăm chú thiếm được bình yên. Tụi cháu luôn luôn nhớ chú thiếm.” Dưới có ký tên thời con gái của cô Hai: . Gặp Ông Bảy Năm Trên, chưa kịp chào hỏi, chú Tám đã khoe mặc dầu trong cách nói chú làm ra vẻ trách móc thở than: “Anh Bảy coi con Lê tui nó ác hông? Ai đời ra đi bỏ cha mẹ không tin tức gì hết mấy năm trời, bây giờ gởi thư dìa cũng hà tiện chữ. Viết có hai câu mà lại kêu bằng chú nữa.” Rồi chú chép miệng: Nó sợ cái gì kỳ cục vậy hỗng biết! Con cái người ta thơ từ tin tức rần rần, nó thì không ơ. Mình muốn biết tin tức của nó mà nó làm cái mửng nầy thì cũng như không.

Ông Bảy hỏi lại, coi bộ ông cũng mừng lây:

-Bộ con Lê nó gởi thơ về thiệt hả? Vậy tốt quá trời rồi.

Rồi ông nói luôn không để chú Tám kịp trả lời:

-Mà nó bây giờ ở đâu vậy. Bên Mỹ hả? Anh phục tài tui chưa? Hồi đó tui quả quyết nó đi Mỹ mà hổng tin tui, anh cứ bán tín bán nghi. Hồi đó tui nói như vậy cũng có lý do, hổng lẽ tụi nó chết mất xác cả hai vợ chồng với mấy đứa con?

Chú Tám phân trần:

- Thì ai biết đâu nè! Sau vụ ngàn cân treo sợi tóc đó mà mình hổng thấy tăm hơi gì tụi nó hết, thì nghĩ một là tụi nó chết hai là nó di tản rồi mà không kịp báo cho mình. Anh nhớ không, hồi đó cách mạng pháo kích căn cứ nó nát nhừ mà. Tui nghi tụi nó bị chết mất xác, anh nghi tụi nó đi Mỹ cũng hợp lý thôi. Hổng lẽ anh trù ẻo con tui. Còn tui ngày nào cũng van vái cho anh nói đúng. Bây giờ nó ở Mỹ, điện tín gởi từ bên đó dìa nè.

Chú Tám đưa cái điện tín ra để làm chứng. Tấm điện tín đã nhàu nát vì chú móc ra móc vô nhiều lần. Ông Bảy liếc sơ qua rồi gật gù:

-Nó viết như vậy là nó khôn dàn trời rồi, nó sợ liên lụy cho anh đó. Đời bây giờ cẩn thận là phải. Lỡ một cái là chết. Con nhỏ tính kỹ thiệt.

Ông Bảy khen không tiếc lời. Chú Tám nghe con được khen khoái trong bụng, vỗ vai ông Bảy:

-Thôi dầu hèn gì cũng thể. Chiều nay anh qua nhà tui. Mình lai rai ba sợi với đế quốc doanh chơi. Chút nữa tui về bẻ sẵn một mớ me dốt để đưa cay. Cha, cây me sau nhà năm nay đậu quá, hổm rày tui nói dèm với bả hoài mà bả làm thinh, bây giờ mình có cớ rồi: nhậu để mừng đoàn tụ.

Ông Bảy Năm Trên chặt ngang không vị nể:

-Đoàn tụ khỉ gì, mới có thơ chớ bộ nó dìa đây sao mà nói đoàn tụ.

Chú Bảy không giận trái lại còn vui vẻ:

-Thì mình nói bậy vậy mà, thấy thơ cũng như thấy người.

Rồi chú triết lý:

-Chết mới hết chứ còn sống là còn gặp. Trái đất tròn mà!

Chiều hôm đó ông Bảy Năm Trên được dịp khề khà ly rượu đế quốc doanh đưa cay với me dốt để kể chuyện năm trên về thời con gái của cô Lê với chú Bảy, làm như chú Bảy không phải là cha của cô Lê. Kể chuyện đã đời, ông Bảy ngâm thơ ngang xương:

Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa

Mai sau cha yếu mẹ già

Chén cơm ai đỡ, chén trà ai bưng?

Rồi ông chép miệng:

-Hồi đó tới giờ tui ít thấy ông bà mình nói trật, mà từ hồi kẻ khôn đi học, thằng ngu dạy đời tới giờ sao tui thấy nhiều chuyện ngược đời quá. Lấy chồng xa vậy mà cha mẹ được nhờ. Nay gởi thơ mai gởi đồ. Cơm nước chè cháo gì cũng có. Còn lấy chồng gần thì hi hi…

Một lúc sau ông nói thêm:

-Thằng cha Mỹ Phước chủ nhà thuốc Tây đằng chợ gả con cho khỉ rừng xanh. Con lấy chồng gần mà có giúp đỡ gì được nó đâu. Vẫn bị đánh tư sản như thường, nhà bị đuổi lên đuổi xuống nên nhờ thằng con rể. Nó lên mặt dàn trời. Ai đời nó nói với ông già vợ mà nó nói trổng không. Con mình thì nó ngủ, mình thì nó khi dễ. Thằng chả tức cành hông. Lâu lâu nó còn nẹo tiền sau khi bòn rút đã đời tiền của con gái thằng chả. Đúng như ông bà mình nói vừa bị cướp ngày, vừa bị cướp đêm.

Chú Tám vừa nhâm nhi vừa gật gù đồng ý. Chú thỏa mãn quá trời. Con mình thì biệt tăm biệt tích vậy mà có thớ quá, mình được nhờ, mà không bị mang tiếng gì hết. Như vậy là có phước dàn trời rồi còn gì. Hổng hơn mấy thằng cha tính non tính già, đem con dâng cho tụi nó còn bị dằn vặt, bòn rút? Rồi chú tự thưởng mình thêm một ly nữa. Rượu đế quốc doanh bậy bạ vậy mà khi vui uống cũng bắt đáo để! Cắn vô nửa trái me dốt thì còn sướng hơn làm vương làm tướng. Chú còn đang miên mang tận hưởng khoái lạc thì ông Bảy đập mạnh vô vai:

-Như vậy anh là người có hạng trong xóm mình đó nhé. Năm ngoái thằng trưởng phòng công an phường với thằng tổ trưởng an ninh còn hăm he mấy người có con di tản ra nước ngoài chớ năm nay thì hết rồi. Bây giờ nhà nước cần những người như anh đó anh Tám. Tui nói rồi để anh coi. Hổng chừng rồi đây anh được giấy ban khen cho mà coi.

Chú Tám thiệt thà không hiểu kịp lời ông Bảy Năm Trên nên hỏi lại:

-Bộ anh nói giả ngộ sao chớ, tui có biết cách mạng cách miết gì đâu mà anh nói vậy! Đánh Tây thì tui mới hụ hợ có vài ba năm gì đó rồi thấy mấy chả chèn ép quá trời tui bỏ dìa đây tới giờ. Đánh Mỹ thì tui còn bù trất hơn nữa, có theo mấy chả hồi nào đâu, đã vậy mà con Lê….

Nói tới đây chú Tám nín ngang, ý chừng chú muốn nói con Lê với chồng con đang ở Mỹ nhưng chú sợ vạ miệng nên thôi.

-Ấy, tui nói rồi anh coi hổng trúng phóc anh lấy cây anh đập lên trên đầu tôi.

Ông Bảy Năm Trên xác nhận:

-Nhà nước bây giờ sau chiến tranh nên nghèo, lại bị tụi phản động quấy phá trong nước không còn cho tiến lên xã hội chủ nghĩa. Phía Bắc thì bị bọn bá truyền Trung Quốc hăm he, phía Nam thì bọn tay sai bạo quyền phát động chiến tranh tiêu hao nên cần tiền ngoại tệ. Đâu có ngoại tệ để canh tân. Những người như con Lê gởi tiền bạc, hàng hóa về không phải giúp nước thì là gì. Mà không có anh thì sao nó gởi? Hỏi hổng phải anh có công sao? Không cấp bằng khen anh thì cấp cho ai?

Chú Tám nghe có lý nên gật gù:

-Anh nói tui mới thấy. Vậy mà thằng tổ trưởng an ninh cứ nói mấy thằng già tụi mình không còn lao động sản xuất được chỉ là tụi ăn bám. Tụi nó ăn bám thì có. Lớ quớ tui thà chịu nghèo biểu con đừng gởi đồ dìa thì Nhà Nước trơ mỏ. Tui nói dậy anh thấy phải không?

Tuy nói vậy, cái nghèo vẫn khiến chú Tám chờ đợi hằng ngày quà của con gái gởi về. Từ đó một vài tháng chú nhận được một lá thơ của con. Mỗi lần như vậy chú thiếm vui mừng hết cỡ, hết khoe người này lại khoe người kia. Và hôm nay chú nhận được giấy báo nhận quà. Trong giấy ghi rõ chú lên Tân Sơn Nhứt đúng tám giờ sáng để lãnh, và phải cầm theo sổ hộ khẩu.

Thiếm Tám phân vân hơi trỏng:

-Hổng biết con Lê gởi gì dìa đây? Vái trời nó khôn vong gởi mình mấy thứ bán được kha khá tiền để mình xoay sở, chớ đừng gởi bánh trái, mắc công đi lãnh hổng lợi ích gì.

Chú Tám rầy vợ:

-Bà sao nói năng hổng nghe lọt lỗ tai chút nào hết. Chuyện này mà cũng vái cái gì. Đồ tới đây rồi đang nằm chình ình ở Tân Sơn Nhứt mà bà mới vái thì bộ ông Trời ổng đổi được sao. Mà tui biết con Lê nó hổng đến nổi ngốc để gởi dìa mấy thứ đồ mắc dịch mắc ôn đâu. Tui nói rồi bà coi có trúng phóc không cho biết! Nó ở xứ văn minh chứ đâu phải xứ mạt rệp như mình vậy!

Thiếm Tám mỉm cười chịu đựng. Thiếm quá quen thuộc với cái tính làm ông hoàng ông trắm với vợ của chồng từ ngày mới cưới tới giờ.

* * *

Chú Tám xuống xe lam lúc trời mới còn tưng bửng sáng. Cảnh vật chung quanh vẫn còn ngái ngủ sau một đêm dài. Mấy năm trước chú có đi qua đây; chợ trời Lăng Cha Cả nhộn nhịp người mua kẻ bán, xập hàng tùm lum tà la mà bây giờ coi trống trơn, lạnh lẽo làm chú khớp ngang, phân vân không hiểu mình tới trúng chỗ không. Chú hỏi người tài xế xe lam cổng vô chỗ lãnh đồ từ ngoại quốc gởi về.

-Bây giờ còn sớm, bác lại đằng đầu hẻm kia.

Anh vừa chỉ vừa cười:

-Chỗ đó trước đây là đường vào động của mấy chú GI ngơ ngác, chỗ có mấy đứa nhỏ đi ra, đi vô đó đứng đợi, tới giờ sẽ có xe vô trỏng lãnh.

Chú Tám lững thững đi về phía có ánh đèn nơi anh tài xế xe lam chỉ. Mấy đứa nhỏ chạy ra mời níu một cách thân thiện:

-Ông Hai ngồi đây đi ông Hai. Ăn miếng mì thịt nghe?

-Bác ngồi nghỉ đây, uống cà phê đi bác. Chưa tới giờ đâu!

Vài người đã tới trước giờ tò mò nhìn chú. Chú hỏi bâng quơ không để ý tới lời mời mọc:

-Hổng biết chừng nào mới được vô hé?

Một bà nhanh nhẩu:

-Độ tám giờ thì có xe nhà nước cho vô, mỗi người góp ngàn rưởi tiền tổn phí xăng nhớt.

Chú Tám nghĩ thầm:

-Bộ đây vô trỏng xa lắm sao cà? Từ Gò Đen lên đây mấy trận xe lam mới hết năm ngàn. Ở đây vô trỏng nhà nước ăn ngàn rưởi thì chắc Tân Sơn Nhứt này rộng lắm. Ừ mà phải rộng như vậy mới đủ chỗ chứa đồ gởi về. Biết bao nhiêu người đi. Họ gởi đồ dìa, nếu chỗ nhỏ lấy đâu mà chứa?

Nhưng tánh tiếc tiền làm chú đặt câu hỏi:

-Mà bận ra có tốn tiền hông?

Chú chỉ thắc mắc về tiền phải trả chớ không thắc mắc về tiền có thể trả. Tiền ăn uống là tiền có thể không cần xài. Chú nghĩ thầm: Mình ráng nhịn lát nữa dìa ăn cho ngon.

Có tiếng một đứa nhỏ nào đó chẩu mỏ vô giọng đểu cáng.

-Hổng tốn cũng được nếu ông già chịu khó đi bộ, cha hà tiện hoài. Mỗi lần lãnh được cả chục ngàn đồng, có vài đồng mà cũng tiếc!

Chú Tám giận cành hông nhưng chú làm thinh. Mình có nói gì đâu mà nó dằn vặt mình vậy cà? Lại còn kêu bằng ông già này ông già nọ. Bộ mình không đáng tuổi cha nó sao? Rồi chú lảng ra chỗ khác để lại sau lưng những tiếng léo nhéo của mấy đứa nhỏ mất dạy:

-Hừ! Hà tiện gắt máu. Bữa nào cũng gặp mấy ông già nầy mở hàng thì mắc phong lông hết trọi. Xui hôm qua tới giờ còn xui. Chắc phải đốt phong lông mới được!

Chầu chực tới bốn giờ chiều Chú Tám mới được kêu tới nhận hàng. Chú đang đói bụng dữ tợn. Từ sáng tới giờ có gì dằn bụng đâu. Chờ hoài chờ hủy. Củ khoai mì ăn trước khi lên đường đã tiêu đâu mất rồi, làm cho chú thấy sự chờ đợi là cả một cực hình. Chú nhớ tới lời ông Bảy Năm Trên: Ở nước xã hội chủ nghĩa mình phải xếp hàng cả ngày. Đừng mất bình tĩnh, phải kiên nhẫn. Khi nghe đến tên mình chú đâm lo. Hộp quà bự xộn được đẩy ra trước mặt chú, nó đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng có dấu mở ra và dán lại ở bên hông. Chú phân vân. Ai mở ra trước vậy cà? Mình tính đem dìa vợ chồng cùng mở ra để cùng đoán coi con Lê nó gởi gì dìa. Cho bả mừng vậy mà. Vợ chồng già lâu lâu chỉ nhờ có chuyện này để hủ hỉ với nhau.

Tiếng người cán bộ, giọng Bắc, lạnh lùng trống không:

-Ký tên vào đây xác nhận đã nhận đủ và không có gì thắc mắc khiếu nại!

Chú Tám cầm cây viết lên tính ký bỗng chú hỏi.

-Gói này của tui hả? Mà ai mở ra trước vậy?

Tên cán bộ trả lời quẹo đeo:

-Nhà nước! Bộ không muốn cho nhà nước xét hả? Biết đâu tụi nó nhân mình cho gởi quà về cho vào đấy những món hàng phản động, chống phá cách mạng, tuyên truyền sách động hay văn hoá đồi trụy.

Rồi hắn đánh đòn thực tế hơn:

- Thắc mắc hử? Ký vào chỗ này. Đi về chờ giải quyết sau. Chừng nào ở đây giải quyết xong sẽ có giấy báo trở lại nhận hàng.

Chú Tám không dè câu hỏi của mình coi chơi chơi vậy mà đưa đến cái khó khăn chú không lường trước được, có thể không nhận được quà hay có thể mang tội tày trời nào chắc, chú bèn thả bàn toán Tàu trong đầu. Chú giả lả:

-Đâu có! Tui hỏi cho biết dậy mà! Đâu.. ký ở đâu?

Tên cán bộ vẫn không đổi thái độ:

-Chỗ này. Nhưng phải đóng thuế đã. Thuế bảy trăm tám mươi nhăm đồng. Tiền thuế chín mét hàng hai trăm bảy mươi đồng, mười hộp kem Hoa Lan hai trăm, hai gói bột ngọt bốn chục, ba hộp sâm cao ly trăm rưỡi. Cộng với tiền thuế thuốc linh tinh và tiền tồn kho sáu mươi nhăm, vị chi là sáu trăm sáu mươi nhăm đồng. Có đem theo tiền không­?

Chú Tám như rớt từ cung trăng xuống, chú chặc lưỡi:

-Chết hôn. Lúc đi mình cẩn thận đưa tiền bả giữ, mình chỉ cầm có mười ngàn đủ tiền xe cộ bây giờ tiền đâu mà đóng thuế. Chú nặn trán suy nghĩ và thất vọng. Giấy bảo lãnh chỉ biểu đem theo sổ hộ khẩu, đâu có nói đến tiền bạc thuế má gì đâu. Chú đứng tần ngần mặt thộn ra.

Tên cán Bộ hỏi, giọng bực bội:

-Không có tiền hả. Khi nào có tiền trở lại. Phải đóng thuế mới lãnh hàng ra được.

Rồi hắn đẩy gối hàng ra một bên, sửa soạn kêu tên người khác.

Chú Tám nhìn gói quà mà lòng đau như xé. Nó đó mà mình không nhận được. Đúng như ông bà mình nói: Cơm đưa tới miệng còn chưa chắc được ăn. Nghe kêu tên mình mừng thấy ông bà ông vải mà bây giờ phải xách đít về không hổng biết chừng nào mới lãnh được. Chú đứng như trời trồng, nhìn chầm bẩm cái tên và địa chỉ của mình trên gói hàng. Đúng là chữ của con Lê rồi. Bỗng nhiên Chú muốn ứa nước mắt sống.

Tiếng tên cán Bộ kêu tên người khác rồi người khác làm Chú đau lòng hơn. Họ kế tiếp nhau lấn Chú xa dần. Chú không còn biết đói bụng là gì. Mắt Chú như bị gói quà thôi miên. Giờ đây nó đang từ từ cách rời xa Chú như lúc nhỏ Chú chơi thả tàu ở ao, tàu bị nước đánh ra xa Chú chỉ biết nhìn mà không biết làm gì khác hơn. Lúc đó Chú ước ao phải chi có ông tiên nào đi qua hóa phép cho tàu Chú trở vô bờ lại. Bây giờ Chú lớn rồi, Chú không còn ước ao có ông tiên nữa, nhưng cũng chỉ biết đứng nhìn thôi. Chú chớp chớp nước mắt để nước mắt khỏi trào ra. Lê ơi, con có biết cảnh nầy?

Có ai vỗ nhẹ vào lưng Chú:

-Chào Bác, Bác đi nhận hàng từ ngoại quốc gởi về hả?

Chú Tám không trả lời, Chú khinh khỉnh quay đi. Thằng hỏi dị hợm! Ai vô đây chơi được? Ai ở không mà vô đây chơi?

Người thanh niên không giận vì thái độ giận cá chém thớt của Chú, tiếp tục thân thiện:

-Cháu cũng đi lãnh quà mà chưa tới tên. Chú bị chuyện gì trục trặc vậy?

-Họ biểu đóng thuế, mà tui không có đem theo tiền.

-Vậy hả? Mắc công quá há. Cháu cũng bị cảnh đó 6 tháng trước. Họ biểu về đợi giấy báo lại lần nữa. Chờ 6 tháng nay mới nhận được giấy báo lãnh hai ngày hôm qua. Họ bỏ hồ sơ mình xuống cuối.

Chú Tám làm mặt lanh:

-Bộ giống như đi mua hàng hợp tác xã vậy hả? Họ kêu tên mình không có ở đó, họ để hộ khẩu xuống dưới chót. Bộ ở đây cũng làm như vậy hả?

Người thanh niên cười vui vẻ:

-Dạ Bác nói đúng? Ở đâu cũng làm vậy mà thôi. Nhiều quá họ đâu có thì giờ làm giấy đi làm giấy lại hoài.

Rồi anh ta hỏi nhỏ:

-Mà Bác bị đóng thuế bao nhiêu?

-Tui nhớ không rõ, đâu hơn bảy trăm đồng mới, hổng biết bao nhiêu đồng tiền mình. Tiền mới cũ tui lộn xộn lắm, tính không ra.

-Mà Bác có nghe Bác được gởi gì về?

Chú Tám buồn buồn:

-Nghe đâu như có 9 thước hàng và 10 hộp kem Hoa-Lan. Tui hổng biết kem Hoa-Lan là kem gì. Hổng biết phải cà lem hông. Mà chắc hông phải đâu. Chảy hết còn gì?

Người thanh niên bật cười:

-Đó là kem thoa mặt cho đàn bà. Nó là đồ mỹ phẩm. Thứ nầy đóng thuế nặng nhưng bán ra chỉ có 2, 3 đồng thôi. Ai gởi cho Bác mà kỳ vậy? Sao Bác không biểu họ gửi thứ gì về ít bị đóng thuế mà bán ra được khá khá tiền phải có lợi hơn không?

-Vậy hả? Tui đâu có biết. Mà tui với bả đâu có cần thứ kem đó làm gì? Bả già rồi. Hồi nào giờ Bả đâu có xức kem xức kiết gì đâu.

Rồi Chú từ giã:

-Thôi Cậu ở lại, tui dìa. Chờ sớm mơi tới giờ đói bụng muốn rã ruột mà phải dìa tay không.

Người thanh niên chận Chú lại nói nhỏ:

-Cháu thấy Bác tội nghiệp cũng muốn giúp, nhưng mà số tiền nhiều quá, gần bốn trăm ngàn lận. Mà Bác ở đâu?

-Tui ở Gò Đen. Xin giấy phép đi đường cũng hết một buổi. Chỉ đi được có một ngày.

-Cháu ở Nhà Bè lận. Phải chi ở gần cháu đưa Bác mượn đỡ rồi một hai hôm xuống thăm Bác nhận lại sau. Mình phải giúp đỡ nhau khi khó khăn túng ngặt. Nhưng mà…

Anh ta chắc lưỡi, làm bộ suy nghĩ rồi ấp úng:

-Cháu đề nghị như vầy Bác nghe có phải không rồi quyết định sau. Cháu đưa tiền Bác đóng thuế. Bác trả cháu bằng 5 thước hàng và mười hộp kem Hoa Lan. Bác cho cháu một vài món thuốc tây. Cũng như cháu bán đồ dùm Bác vậy mà. Bác hổng biết chứ đem ra chợ trời tụi nó mua rẻ mạt mà nhiều khi con bị gạt lấy mất đồ nữa. Tụi làm ăn ở chợ trời hổng tin nổi đâu.

Chú Bảy suy nghĩ thật nhanh: Mình còn lại 4 thước vải, kem thì mình hổng cần rồi, thuốc tây thì mình đâu biết thuốc gì trị bịnh gì. Thôi chịu đại cho rồi. Nói qua nói lại hết thì giờ. Hổng biết chừng nào mới được kêu trở lại lần nữa. Mỗi lần đi là mỗi lần khó.

* * *

Thiếm Tám mặt mày tươi rói ra mừng chồng!

-Dữ thần hông, đi lâu quá trời. Chờ muốn rục xương sống từ lúc 5 giờ sáng tới giờ.

Rồi Thiếm ước thầm trong bụng:

-Ưng ai nó gởi đồ dìa nhiều nhiều để vợ chồng già qua khỏi cơn túng ngặt này.

Thiếm vừa đỡ gói đồ trên tay người chồng vừa nhìn Chú Tám áy náy:

-Ông đi sao lâu dậy? Có mệt lắm hông? Cơm nước gì chưa?

Chú Tám không thèm trả lời, Chú quạu quọ bước vô nhà nhìn xéo về cái lồng bàn đậy mâm cơm. Đói muốn rã ruột mà còn gặp chuyện buồn. Đồ con gái gởi về bị chúng lấy hết phân nữa vì tiền thuế. Không biết thuế gì mà mắc dàn trời, gần bốn trăm ngàn đồng bạc. Thiếm Tám lẽo đẽo đi theo chồng. Chú Tám nói mà không quay lại:

-Đó Bà mở ra coi. Tui mệt quá rồi.

Thiếm Tám vừa cười mỉm mỉm vừa lắc gói hàng. Bỗng Thiếm kêu giựt ngược:

-Ông ơi, sao lỏng lẻo vậy nè?

Thiếm Tám trả lời luôn:

-Bộ họ ăn bớt hả?

Chú Tám biết chuyện này rồi, Chú bực mình quay lại chưa kịp trả lời thì có tiếng khàn khàn của tên trưởng phòng công an xã trước cửa:

-Có Chú Tám Thiếm Tám ở nhà không?

Chú Tám nói thầm thì với vợ:

-Không biết có chuyện gì mà thằng này nó kiếm mình giờ nầy?

Mấy thằng công an mà kiếm thì chắc là không có chuyện tốt lành gì.

Chú nói lớn:

-Dạ có!

Hắn đon đả:

-À Chú Tám về tới rồi à!

Rồi hắn bước vào nhà không cần đợi mời. Mang tiếng trưởng phòng công an như hắn mà phải lên tiếng trước khi vào nhà là nhẹ thể quá rồi. Hắn liếc mắt lên gói quà nói giọng tấn ơn:

-Hôm qua Chú xin phép xin đi thành phố Hồ Chí Minh, thông cảm lắm mới cấp giấy phép sớm. Bà con mình mà. Chớ người khác thì phải đợi cả tuần. Lúc nầy công việc nhiều quá mà nhân viên thì bận công tác đột xuất hoài.

Chú Tám và Thiếm Tám trao đổi cái nhìn với nhau. Chú chỉ biết vuốt đuôi trong khi chờ đợi nó muốn gì.

-Dạ tui xin cám ơn ông trưởng phòng.

Tên công an ngồi xuống cạnh đó, không kịp mời. Tự nhiên như thanh niên Hà Nội. Hắn nói giọng chậm rãi vừa cố làm thân, vừa nói giọng của kẻ cầm quyền ra lệnh.

-Lát nữa 7 giờ rưỡi, mời Chú đi họp tổ. Bữa nay có một đồng chí trên quận xuống thuyết trình đề tài rất hấp dẫn: Đế Quốc Mỹ là con đỉa hai vòi. Xin Chú đến đúng giờ. Tôi cũng có ở đó nữa.

Chú Tám cố nén cái thở dài, nói nhỏ xụi lơ:

-Dạ, ăn cơm xong tui sẽ đến.

Hắn làm bộ đứng dậy.

-Thôi tui về để Bác xơi cơm. Mà gói hàng đây à? Bác có thể mở ra xem tí được không? Hàng bên Mỹ không tốt và bền bằng hàng của Liên Xô ta, tuy vậy nó có cái mã bề ngoài đẹp đẽ. Tui muốn xem để chúng ta cùng chia vui vậy mà. Mình ở trong một xã như ở trong một gia đình lớn.

Chú Tám ngần ngừ, đưa mắt hỏi ý kiến vợ. Thiếm Tám làm bộ không thấy cứ tiếp tục đủng đỉnh sửa soạn lại hai đôi đũa trong mâm cơm. Hắn nói tiếp:

-Tụi Mỹ nó đểu lắm. Mình đánh với nó hơn hai chục năm nó mới chịu cút đi mà vẫn chưa chịu bỏ cuộc, vẫn tìm cách phá hoại cách mạng. Tụi nó gởi tài liệu chống phá cách mạng về mãi à! Tụi tui ở đằng cơ quan nhờ quần chúng giác ngộ chỉ điểm đã phát hiện nhiều lần rồi.

Vợ chồng Chú Tám xanh mặt, thằng nầy muốn gì ở đây mà giở giọng doạ nạt nói xa nói gần. Nếu người khác thì dễ đối phó. Chú tuy thiệt thà, nhưng cũng đủ miệng lưỡi để đối phó, đằng nầy nó là xếp công an chỗ mình, đời thiệt éo le. Lúc mình làm cách mạng thì nó chắc còn mũi dãi lùm tùm, ở truồng dòng dõng tắm nước mưa. Mình đã thấm thía cái cách mạng đó nên rã hùn không chơi nữa. Bây giờ nó nhơn danh bảo vệ cái cách mạng mình chối bỏ để dòm hành, bắt chẹt mình… Chú không thèm dấu diếm tiếng thở dài, quay lại nói với vợ:

-Đâu Bà nó mở ra coi con nó gởi gì dìa, sẵn có ông trưởng phòng đây đến chia vui với mình. Tui ăn qua loa ba hột cơm tối rồi còn đi họp.

Thiếm Tám trả lời hập hực, một thái độ ít thấy từ ngày cưới nhau đến giờ.

-Thì ông mở hổng được sao, phải tui mới được?

Hắn ngó Thiếm rồi quay lại ngó Chú, chắc hắn giận lắm nhưng cố nén. Hắn châm điếu thuốc Phù Đổng, hút một hơn dài để dằn cơn giận và lấy lại vẻ tự nhiên.

Để không khí khỏi ngột ngạt, Chú Tám giả lả phân bua:

-Ông trưởng phòng thấy đó, nhiều khi bả chướng vô lý hết sức, tui chịu đựng mấy chục năm nay rồi lận.

Hắn đỡ lời:

-Có lẽ Thiếm muốn dành cho Chú danh dự mở quà vì Chú có công lao đi nhận lãnh về. Vậy cũng tốt thôi. Ta tranh thủ thời gian để còn đi họp. Buổi họp tối nay quan trọng lắm ta không thể trễ được.

Gói hàng được mở ra, ba cái đầu chụm lại. Nhìn xuống đáy hộp khi tất cả mọi thứ đều được lấy ra đặt lên bàn: xấp vải mỏng dánh, mấy gói thuốc thông thường, 2 gói bột ngọt, 2 gói thuốc dán, mấy chai dầu xanh, một bao rau câu, 2 gói sâm Cao Ly, một lá thư, 2 hộp kem Hoa Lan.

Hắn cầm hộp đựng quà lên xăm soi:

-Cái hộp này chẳng có gì đặc biệt, chắc chẳng có gì dấu trong đó. Hai hộp kem này tui đem về cơ quan nghiên cứu. Đời bây giờ gián điệp tinh vi lắm. Gì cũng có thể ngụy trang được hết. Nhiều khi họ dấu dưới đáy hộp đồ quốc cấm hay chuyển về đây hóa chất bí mật ngụy trang dưới hình thức mỹ phẩm. Khi nào nghiên cứu xong, cơ quan sẽ gởi giấy mời Chú đến lãnh về.

Thiếm Tám bực mình nói cho hả tức:

-Tôi chắc chắn không có gì bất hợp pháp. Sau khi nghiên cứu xong, ông trưởng phòng cứ liệng vô thùng rác, đừng tính chuyện gởi lại làm gì cho mất công mất linh. Lần sau tui biểu nó gởi món gì có thể nhìn thấu qua được để khỏi nhọc lòng ông trưởng phòng.

Hắn cố tình không hiểu:

-Vứt chi cho phí của giời, ta có thể cho vào hộp trở lại nếu khi lấy ra ta chứa trong cái gì sạch sạch. Thứ nầy để đàn bà thoa mặt rất tốt. Hắn vừa nói vừa cho hai hộp kem vào túi quần xùng xình của hắn. Ta phải tận dụng phế thải và phát huy sáng kiến, đó là lời chỉ dẫn sáng suốt của Đảng và nhà nước.

Chú Tám nói điều ơn nghĩa:

-Thôi coi như vợ chồng tôi biếu bà nhà. Bà nhà tui cũng không cần thứ quỷ quái đó làm gì. Chú nhìn về phía vợ thật mau vừa kịp bắt gặp tia sáng bất mãn trong ánh mắt bà vợ. Chú làm bộ ngầy ngà Thiếm:

-Thôi Bà đem cất mấy thứ lỉnh kỉnh này đi, lấy chỗ rót nước mời ông trưởng phòng. Rồi dọn cơm tui ăn để còn đi họp.

* * *

Tên cán bộ trên bàn thuyết trình viên nói thật hăng say. Hắn vung tay bên nầy, quơ tay bên kia bọt mồm vung vãi tùm lum tà la hai bên mép:

-Bác Hồ thật sáng suốt khi ví đế Quốc Mỹ với con đỉa hai vòi. Thật không còn hình ảnh ví von nào đúng hơn. Đỉa hai vòi hút máu người bằng cả hai đầu. Đế Quốc Mỹ hút máu nhân dân thế giới cũng bằng hai vòi. Một vòi nó bóc lột nhân dân trong nước. Nó làm cho nhân dân Mỹ ngày càng nghèo đói. Một vòi nó hút máu các dân tộc nhược tiểu khiến cho các dân tộc nầy ngày càng đói khổ, cơ cực, tài nguyên ngày càng khô kiệt. Bác Hồ vô vàn kính yêu của nhân dân ta đã nhận định rất cao siêu và chí lý rằng…

Mặc cho tên thuyết trình viên nói nhăng nói cuội, trên trời dưới đất. Dưới nầy Chú Tám tâm sự với ông Bảy Năm Trên:

-Từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ tui mới nghe con đỉa hai vòi. Hồi trước tới giờ tui chỉ nghe đỉa con, đỉa mẹ, đỉa mén, đỉa trâu chớ có nghe chuyện con đỉa hai vòi đâu. Bây giờ tui mới hiểu nghĩa con đỉa hai vòi là tụi cầm quyền. Tụi ở Mỹ bị đỉa hai vòi hút máu quá nên nghèo không thể gởi đồ dìa cho mình nhiều hơn. Ở xứ mình trước khi nhận quà từ ngoại quốc gởi về mình bị vòi đỉa thuế hút máu. Sau khi đi tới nhà còn bị vòi công an hút thêm lần nữa.

Rồi Chú cười:

-Sau khi bị con đỉa hai vòi hút máu, gói đồ của con Lê, ốm nhom, ốm nhách, nhẹ hều nhẹ hểnh.

Ông Bảy Năm Trên thêm:

-Chưa hết đâu, thằng mà anh nói giúp đỡ anh ở Tân Sơn Nhứt cũng là một vòi đỉa thôi. Vòi mới mọc ra sau nầy. Vòi ăn theo. Nó chịu ăn với tụi trong đó để bắt chẹt anh đó chớ. Lúc nầy ai mà ở không vô đó làm chuyện bao đồng. Chúng ta, nhân dân Việt Nam mình bây giờ không bị nạn con đỉa hai vòi mà con đỉa cả chục vòi, cả trăm vòi lận. Bác Hồ của tụi nó là thánh cũng không thể nào tưởng tượng được con đỉa cộng sản một trăm vòi đang hút máu nhân dân Việt Nam.

Rồi ông hỏi nhỏ:

-Anh nói thằng đó lấy hết mười hộp kem Hoa Lan sao lại còn hai hộp cho thằng công an bợ hay vậy?

Chú Tám cười gượng ngạo, rồi nói bằng một giọng thật cảm động:

-Tui năn nỉ nó lấy một hộp sâm cao Ly chừa hai hộp kem lại để bả thử bôi coi sao. Mấy tháng sau này bả lao động xã hội chủ nghĩa nhiều quá nên da mặt xần xùi đen đúa quá.

Ngưng một lúc lâu Chú nói như tâm sự:

-Mà hồi đó tới giờ tui có mua được cho bả một thứ mỹ phẩm nào đâu. Mỹ phẩm sang nhứt của bả là xà bông Cô-Ba, bồ kết với dầu dừa thôi.

Ông Bảy Năm Trên vỗ đùi cái chách vừa ngó chừng lên bàn thuyết trình vừa kề tai Chú Tám nói nhỏ:

-Tôi hiểu rồi, ông bạn già muốn cho chỉ ở nhà, trắng da dài tóc chứ gì?

Rồi Ông nói một câu khó hiểu:

-Nhưng trước khi muốn cho bả trắng da dài tóc thì anh phải chặt đầu mấy con đỉa đi.

Ông nói phần cuối câu thật lớn.

Mấy người lối xóm ngồi gần nhìn hai ông bạn già, ngơ ngác.

(Trích Câu Hò Vân Tiên)

Nguyễn Văn Sâm