Thursday, October 2, 2025

Gởi Ai Đã Và Sắp Đến Tuổi Già


Bài viết của một tác giả không nhớ rõ tên, có một nội dung quá thâm thuý, dành cho những ai trong tuổi Cao Niên nếu muốn có một đời sống hạnh phúc trong những ngày còn lại trên trần gian này, trước khi thân xác trở về cát bụi thì nên suy luận những điều được nêu ra trong bài viết này.

Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong khuôn viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già !

Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày… rồi không biết được bao nhiêu ngày nửa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xãy ra trong đời sống.

Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm : “Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…

Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái.

Ta vẫn biết khi ta ra đời, ta đâu có mang nó đến và khi ra đi, chúng ta cũng không mang nó theo. Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình. Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống.


Quãng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú .

Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình.

Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt.

Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người. Rảnh rổi đi làm những việc từ thiện xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già

Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẽ.

Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cữ thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…

Cuộc sống tuổi già thật đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gỡ bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nữa.

Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay ngh là : “Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nửa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng.


Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một liều thuốc bổ mà không bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.

Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghĩ đến đồng tiền, đừng nghĩ đến giàu hay nghèo nữa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền.

Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẫu của chúng ta.

Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già.

Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại.

Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già.


Sưu tầm

Quy Luật Âm Dương: Hiểu Để Sống Thọ, Khỏe Tự Nhiên


Một bạn gửi đến TL bài này, hỏi có chuẩn không. Câu trả lời là bài này nên đọc để tăng trưởng kiến thức và hiểu biết. Cái hình với dòng chữ thấy hơi khó chịu vì mang tính câu view.
 

TL Định thay bằng ảnh  nhưng tôn trọng người gửi nên để nguyên, lâu lắm rồi mới đọc 1 bài viết hay mà không thấy động cơ gì bên trong nó!

Bạn có bao giờ tự hỏi vì sao ngày càng nhiều người trẻ mắc bệnh? Vì sao xã hội phát triển, thuốc men đầy đủ mà bệnh lại ngày một nhiều?

Thật ra, phần lớn là vì chúng ta sống ngược lại với quy luật tự nhiên – quy luật Âm Dương.

🌙 Buổi tối là thời điểm âm hàn – cơ thể cần được giữ ấm để phục hồi và tái tạo tế bào. Thế nhưng ta lại ăn uống lạnh, nằm máy lạnh, tắm đêm, uống nước đá… khiến tế bào không đủ nhiệt để sản sinh. Khi cơ thể lạnh, máu huyết ứ trệ, tắc chỗ nào là đau chỗ đó. Lâu dần, sinh ra bệnh.

Đó không hẳn là "bệnh", mà là cơ thể đang báo động: "Tôi đang lạnh! Tôi đang thiếu dưỡng chất!"
Nhưng tiếc là ta lại không nghe. Ta đi tìm thuốc, dập triệu chứng, mà không thay đổi lối sống, cách ăn.

🔥 Cơ thể cần ấm để sống. Đôi chân phải đủ ấm (khoảng 37 độ) thì tuỷ xương mới tạo máu, tế bào mới phục hồi. Ban đêm lại càng cần bổ sung những thứ ấm nóng: một ít gia vị cay, một chút béo lành mạnh – để giữ lửa bên trong cơ thể.

🌿 Sống khỏe cần hiểu: Cơ thể cần gì để sống?
Muốn cơ thể khoẻ, tế bào cần đủ 4 nhóm chất quan trọng:

- Đạm – nuôi tế bào, tạo máu.
- Béo – giữ ấm, tạo nhiệt, giúp hấp thụ vitamin.
- Đường tốt – cung cấp năng lượng cho não, cho bạch cầu hoạt động.
- Tinh bột và khoáng chất – là nguồn năng lượng cơ bản, giúp cân bằng nhiệt trong cơ thể.

Nhiều người sợ đường, sợ béo mà kiêng khem cực đoan. Nhưng không ăn béo cũng mỡ máu, không ăn đường vẫn tiểu đường là vậy.

Điều quan trọng là ăn đúng loại, đúng cách, đúng thời điểm.

🌿 Ăn đúng không chỉ là ăn đủ chất, mà còn phải ăn đủ vị
Tạo hóa ban cho chúng ta 6 vị tự nhiên để nuôi và dẫn dưỡng chất đến đúng nơi cơ thể cần:

- Chua – dẫn lên não, thông tắc nghẽn, giúp tỉnh táo.
- Chát – dẫn xuống chân, giúp chắc xương, khỏe dây chằng.
- Đắng – làm mát cơ bắp, mát gan, rã mỡ.
- Cay – dẫn vào tuỷ xương, làm ấm cơ thể, trị lạnh đau.
- Ngọt – giúp lưu thông toàn thân, giải nhiệt, tăng đề kháng.
- Mặn – giữ nước, làm ấm thận, giúp tế bào trao đổi chất.

Không có vị nào là xấu – chỉ sai khi ta lạm dụng một vị hoặc thiếu vắng một vị trong thời gian dài.

Ví dụ: Ăn chua quá nhiều mà không ăn chát – dễ rụng tóc, nhão cơ, lạnh da. Ăn cay mà không có đắng – nóng gan, nổi mụn.

👉 Mỗi vị là một “chìa khóa” để mở cánh cửa dẫn dưỡng chất đến từng bộ phận cơ thể.
👉 Nếu chỉ ăn đủ chất mà thiếu vị, cơ thể sẽ nơi thừa nơi thiếu – sinh ra rối loạn.

🌿 Âm dương trong thực phẩm – cần biết để ăn đúng giờ, đúng mùa
- Vị cay – chát – mặn là dương → nên ưu tiên ăn buổi tối và trưa.
- Vị chua – đắng – ngọt là âm → nên ăn vào sáng và trưa.
- Củ dưới đất như khoai, củ sen, gừng… dương hơn rau lá trên mặt đất.
- Trái cây như cam, bưởi, dưa hấu… gần mặt trời – âm hơn.
- Nấu chín sẽ làm thực phẩm dương hơn ăn sống.

🌙 Buổi tối là giờ âm – đừng nạp thêm thực phẩm âm như trái cây, nước đá, rau luộc nguội. Hãy thêm gia vị cay nhẹ, chút dầu tốt, ăn món hầm ấm nóng – giúp tuỷ làm việc, tạo máu khi bạn ngủ.
💡 Bạn có thể bắt đầu ngày mới bằng một ly nước ấm để giữ ấm dạ dày và kích hoạt khí huyết lưu thông nhẹ nhàng.

🌿 Sống thuận tự nhiên – khoẻ tự nhiên
Tổ tiên ta ngày xưa không có thuốc men hiện đại, không có máy lạnh, không có đồ tinh chế – mà vẫn sống khoẻ nhờ thuận theo tự nhiên:
– Ăn đúng mùa, đúng vị.
– Dùng lửa, dùng nắng.
– Ăn đủ béo từ hạt, từ dầu tốt, từ mỡ động vật sạch.
– Dùng muối biển, đường tốt, không qua tinh luyện.

Ngày nay, chúng ta bỏ lỡ hết:
– Sợ mỡ, sợ đường → mất cân bằng.
– Ăn rau quả lạnh buổi tối → âm thịnh dương suy.
– Uống nước lọc quá nhiều mà không thêm muối → mất khoáng, mệt mỏi.

Chỉ khi hiểu quy luật âm dương, ta mới làm chủ được sức khỏe của mình.
Chỉ khi trở về với tự nhiên, ta mới sống thọ, sống khỏe và an yên.

👉 Hãy lắng nghe cơ thể mỗi ngày.
👉 Hãy nhìn lại bữa ăn hôm nay – có đủ 4 nhóm chất? Có đủ 6 vị? Có thuận giờ thuận mùa không?
Chỉ cần vậy thôi, cơ thể bạn sẽ tự sửa chữa – mà không cần đến thuốc men.

Nếu bạn thấy điều này ý nghĩa, hãy chia sẻ cho người thân yêu – để cùng nhau sống khoẻ, sống vui, sống thuận tự nhiên 🌿

 (1) Tuệ Lâm - QUY LUẬT ÂM DƯƠNG – HIỂU ĐỂ SỐNG THỌ, KHỎE TỰ NHIÊN Một... | Facebook

Chủ Vườn Chu Đáo

Cám ơn ông chủ vườn quá chu đáo 


 

From: Kim Duncan 

Wednesday, October 1, 2025

Gây Quỹ Les Perles Tại Montreal (Ngày 07 Tháng 9 Năm 2025) - Sỏi Ngọc

Riêng tặng cho các ACE ở Montreal 

Khi xe tôi dừng lại ngã tư đèn đỏ buổi sáng sớm đi công việc, đường còn vắng tanh, mây hồng của mùa thu Tháng Chín nhè nhẹ bao phủ cả bầu trời, ngày thứ sáu nên ít xe vào buổi sáng hơn mọi ngày, chắc là ngày cuối tuần nên ai cũng muốn làm việc ở nhà; nhìn qua hai bên đường chỉ có mỗi xe của tôi. 

Bất chợt hai người vô gia cư ở hai phía trái và phải nhào ra, mỗi người một cái cây dài nhúng sẵn nước xà bông, giành nhau lau kiếng xe phía trước, và hai bên cho tôi, xong lau khô lập tức. Ngồi trong xe, tôi vội vàng xua tay, đầu lắc lia lịa nói “no… no,” nhưng họ đã lau xong rồi, tội bắt buộc hạ kiếng xuống bỏ vào cái lon sắt của mỗi người 50 xu.

Đèn xanh bật lên, khi chạy được một khoảng, tôi định thần, nghĩ 50 xu bây giờ có mua được gì đâu, hồi xưa cách đây cả chục năm thì họ còn mua được 2 điếu thuốc, bây giờ chắc chỉ được nửa điếu thôi! Tôi hối hận sao cho họ ít quá, mà thực sự họ làm bất thình lình và quá nhanh làm tôi không kịp phản ứng, hai người lại giành lau một cái kiếng xe, tôi không biết phải cho ai nữa, lục trong ngăn để café trong xe, thấy còn 4 cái 25 xu nên chia đại cho hai người. 

Đến metro, tôi đậu xe để lấy metro đi vào downtown cho bớt kẹt xe.

Trời mùa thu lành lạnh, gió thổi lùa vào trong áo, tôi rùng mình, đẩy cửa metro bước vào bên trong, trên sàn đất hai ba người vô gia cư nằm la liệt, mỗi người nằm một kiểu, người thì co quắp vì không đủ quần áo lạnh, đôi lông mày nhíu lại, kẻ thì ngủ thật say, khuôn mặt thanh bình thoải mái như trên chiếc giường nệm ấm êm vậy. Lẽ ra họ không được ngủ trong metro như thế này đâu, chắc người an ninh của nơi đây đã thấy tội nghiệp nên không nỡ đuổi họ ra khi trời trở gió thu. 

Đi một khúc vào trong, tôi bắt gặp một em trai nhỏ khoảng 6-7 tuổi, ngồi bên cạnh đứa em gái 4-5 tuổi, khuôn mặt lấm lem, tóc bết vào đầu, người anh đang móc trong túi áo ra một bịch nilon nhỏ, trong đó có một chút cơm mới xin với vài miếng thịt gà, nó mở ra bốc bỏ vào miệng em với bàn tay đen òm không cần muỗng nĩa, cô bé nhỏ nhai ngấu nghiến, vẻ đói lắm, lấy tay giằng chiếc túi nilon, cho hẳn miệng vào ăn một cách thèm thuồng.

Ông đi qua, bà đi lại, mọi người bận rộn buổi sáng, đi thật nhanh, không ai để ý đến cảnh vật chung quanh, những người ăn xin hình như cũng bắt đầu làm việc vào giờ này, họ đứng giữ cánh cửa metro nặng chịch cho khách vào, ai thương thì cho 50 xu, ai bận quá, không có tiền lẻ, không cho cũng chẳng sao. Họ làm việc hối hả cũng như chúng tôi vội vàng đến sở vậy.

Nghĩ lại thấy mình đầy đủ, may mắn hơn họ nhiều quá, tôi ước mong sao có thể chia sẻ một chút gì bình thường nhưng ấm áp như một bữa cơm, một ly café, một chén soup nóng cho họ, như ông già Noel phát quà cho những em nhỏ có những ước mơ mà không thực hiện được.

***

Ở một đoạn sâu bên trong, bất giác tiếng đàn guitar hun hút vọng ra với nhạc phẩm Cô Đơn quen thuộc, gần gũi của Nguyễn Ánh Chín được một người đàn ông có tuổi, tóc muối tiêu, đeo cặp mắt kính đen của người mù, âm thanh trầm bổng réo rắt vẻ tiếc nuối, mang theo nỗi nhớ nhung của một quá khứ không nguyên vẹn. Ông ngồi trên một chiếc loa vuông, mặc bộ đồ lính của thời VNCH hồi xưa, một chân đi botte, còn một chân lủng lẳng… chỉ là ống quần không. 

… Người hỡi cho tôi quên đi bao nhiêu kỷ niệm xa xưa

Người hỡi cho tôi quên đi bao nhiêu mộng đẹp nên thơ

Tình yêu đã chết trong tôi nụ cười đã tắt trên môi

Chỉ còn tiếc nuối khôn nguôi cô đơn bơ vơ, tiếng hát lạc loài….

(Cô đơn- Nguyễn Ánh 9)

Nghe bài hát Cô Đơn quen thuộc vang lên trong metro, nhiều người Việt đã tìm đến chỗ phát ra tiếng đàn, một số đứng lại thưởng thức, một số ngắm nhìn ông thương cảm rồi nhẹ nhàng bỏ vào bao đựng đàn mà ông để trước mặt những tờ giấy 50, 20,10 cad như lòng tri ân. Lẫn trong những tờ giấy bạc khách cho trong bao đựng đàn, tôi đọc được dòng chữ ông viết nguệch ngoạc, chữ này trồng lên chữ kia vì ông nhìn không rõ, trên tấm bìa carton : 

- “Cám ơn tấm lòng tốt của quý khách cho những người lính Thương Phế Binh VNCH còn sống sót và bị lãng quên tại quê nhà.”


Đã 50 năm sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm, người dân trong nước vẫn sống đời cơ cực mất tự do nhân quyền, còn những người Thương phế binh VNCH thì ra sao đây? Họ sống bên ngoài xã hội, bị lãng quên và nghèo đói. Những cơ quan nào ra tay giúp đỡ thì bị nhà cầm quyền CS tìm cách chống đối, bắt bớ, trừng phạt; phần lớn họ đã trên 70, nhiều người đã âm thầm nằm xuống vì bệnh tật, tù đày, hoặc vì tuổi tác.

Mảnh giấy của người đàn ông trong metro, như một lời nhắc nhở cuộc sống an nhàn của chúng tôi vào thời ấy chính là do sự hy sinh của những người lính xả thân vì tổ quốc, họ đã mang trách nhiệm của người trai, vì tổ quốc lâm nguy, yêu dân tộc nên đã bỏ gia đình, làng mạc, người thân, ra chiến trường nhằm mang lại hòa bình cho những người họ yêu thương. Giờ đây cuộc chiến đã chấm dứt, họ trở về trong niềm đau bại trận, đau cả thể xác lẫn tinh thần mà cả cuộc sống tương lai không thể nào quên! 

*** 

Hai chiếc vé trong túi áo khoác mà tôi vừa mới mua của một người trong ban tổ chức để tham dự gala ngày 7 Sept 2025 của nhóm Les Perles, tại nhà hàng Tongpor gồm hai mục đích: 

- Ủng hộ làm bữa cơm tình thương cho những người vô gia cư Montreal Canada, quê hương thứ hai đang cưu mang những người Việt Nam chúng ta từ những năm 1975, ông bà cha mẹ đã nằm xuống vì tuổi cao, thế hệ tiếp nối thứ hai, thứ ba, đã rất thành công trên miền đất hứa. Họ đang lập nghiệp, sáng tạo và xây dựng, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước Canada đa văn hóa, như một đóng góp tri ân xứ sở thân yêu này.

- Gây quỹ cho những người Thương Phế Binh VNCH, thế hệ chúng tôi cũng đã chịu ơn các anh chiến sĩ trong vài năm đầu của trận chiến, được an lành cắp sách đến trường. Thực sự, giúp đỡ TPB VNCH phải là một trách nhiệm, rất nên làm thành phong trào để các anh không bị bỏ quên bên lề cuộc sống. 

Những party khác có thể bỏ qua, nhưng ủng hộ cho người đã hy sinh một phần thân thể của họ ngoài mặt trận cho cuộc sống yên lành của chúng ta… làm sao tôi có thể làm ngơ! 

Đây là năm thứ tư mà Les Perles tổ chức, chương trình rất phong phú và đặc sắc, tôi thấp thỏm chờ đến ngày để được thưởng thức. 

Khi đến hơi sớm một chút, ban tổ chức lăng xăng trang trí sân khấu, người thổi bóng, kẻ giăng hoa, sửa soạn projector cho những slideshow chiếu trên màn ảnh, tất cả rất bận rộn, nhưng hân hoan và đoàn kết. 

Ban nhạc gồm hai anh Nguyên Lộc và Hữu Thọ phụ trách keyboard, dàn loa âm thanh được bảo trợ bởi Phong Lê, trị giá 500$ do anh Sơn của nhà hàng phở Mimi ở Montreal sắp xếp. 

Phần dẫn chương trình đến 4 người MC gồm hai nam, hai nữ, cho khách tham dự thấy được sự trân trọng của ban tổ chức.

Chương trình thật đồ sộ với 350 người tham gia, chật hết cả khán phòng tiếp tân có sức chứa đến 400 người. Có sự hiện diện của ông chủ tịch cộng đồng người Việt tại Montreal, với tư cách khách tham dự; vài người khách đến từ xa như Mỹ, Úc. 

Tôi được biết Les Perles là những viên ngọc trai trắng, quý, tự nó sẽ góp nhặt sao cho bản thân sáng long lanh qua những hành động tốt, lòng nhân ái, san sẻ cho người thiếu may mắn. Chuỗi hạt trai này sẽ được kết nối dài hơn theo ngày tháng với số người thiện lành, tâm Bồ tát. 

Những nhà hảo tâm bảo trợ cho chương trình gồm: 

- Clinic LuQi therapeutique tặng 1 carte Cadeau có giá trị $300 cho dịch vụ 3 lần massage bấm huyệt. 

- Bức tranh với tựa đề Đường Về của nghệ sĩ Nhung Bùi giá $200 

- Gội đầu dưỡng sinh, một voucher 110$ của thương hiệu Lotus relaxation spa, chủ nhân là cô Huỳnh thị Xuân Hồng. 

- Chị Phan T Mai Trinh tặng hai chiếc bóp dạ hội có giá trị $100/chiếc

 - Cô Phương Võ, tiệm Ongles 4 saisons tặng một voucher, trị giá $50.

Chương trình văn nghệ thật đặc sắc với những tiếng hát hàng đầu của Montreal, các ca sĩ: Xuân Thảo-Lê Duy, Mai Thy, Miên Thúy, Phan Duy, cùng các ca sĩ địa phương rất có chất lượng. 

Ngoài ra còn có những màn xen kẽ để chương trình thêm phần nổi trội: trình diễn võ thuật Vovinam của các em trong gia đình Phật Tử chùa Quan Âm, màn thổi saxophone thật sống động, trình diễn đàn tranh, thổi sáo rất đặc biệt, nhảy hiphop của nhóm trẻ “Làm như mình hay ho” thật dễ thương, và vui tươi.

Múa võ Vovinam- GDPTQA (trái) và nhóm trẻ “Làm như mình hay ho” (Hình: Sỏi Ngọc)

 

Đặc biệt và là mục chính của chương trình gây quỹ là màn hoạt cảnh gồm ba ca khúc: anh đi chiến dịch của Phạm Đình Chương, Kỷ vật cho em, thơ Linh Phương, nhạc Phạm Duy, nhớ người thương binh của Phạm Duy, với tiếng đàn keyboard của anh Lê Đại Quang, hòa theo tiếng hát của anh Kevin Hiển, chị Kiều Sơn và anh Đào Trọng Quyền.

Tả những anh chiến sĩ VNCH từ giã làng quê, mẹ già, người yêu, dấn thân vào sa trường, bảo vệ sự an lành cho người ở hậu phương. 

…Không quên lời xưa đã ước thề

Dâng cả đời trai với sa trường

Nam nhi cổ lai chinh chiến hề

Nào ai ngại gì vì gió sương. (Anh Đi Chiến Dịch-Phạm Đình Chương)

Rồi mùa hè đỏ lửa 1972, khói lửa ngút ngàn, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống đáy địa ngục. Trước vực thẳm tử sinh, người dân miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô!

… Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại?

Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về.

Anh trở về chiều hoang trốn nắng

Poncho từng phủ kín hồn  anh

Anh trở về bờ tóc em xanh

Chiếc khăn tay ngăn dòng lệ ứa. Em ơi!

(kỷ vật cho em-thơ Linh Phương, nhạc Phạm Duy)

Các anh chiến sĩ đã làm xong bổn phận của người trai thời loạn, trở về trên chiếc nạng gỗ, trên chiếc xe lăn, kẻ cụt tay, gãy chân, đi bán vé số nuôi thân và gia đình, nhưng không nỗi đau nào bằng niềm đau bại trận luôn đeo đẳng theo các anh. Xã hội mới của những người Cộng Sản đã đẩy các anh vào hoàn cảnh thật bi phẫn.

Chàng về, chàng về nay đã cụt tay

Máu đào đã nhuốm trên thây bao nhiêu quân thù

Từ ngày chinh chiến mùa thu, từ ngày chinh chiến mùa thu 

(Nhớ người thương binh- Phạm Duy) 


Hoạt cảnh này đã làm động lòng khán giả, có người đã rút tờ $100 ra tặng, chiếc nón của anh TPB ngồi trên chiếc xe lăn, để trên đùi khi đi bán vé số đầy ắp những tiền. 

Màn văn nghệ chấm dứt trong tiếng vỗ tay vang dội, có những dòng nước mắt tuôn rơi, ngậm ngùi cho số phận của quê hương sau ngày 30/4/0975, những kỷ niệm đau thương vẫn mãi là vết thương âm ỉ, chưa lành trong lòng những người dân miền Nam tại hải ngoại.

              Vài hình ảnh tại buổi gây quỹ Les Perles. (Hình: Sỏi Ngọc)


Họ đóng rất thật, rất hay với những chiếc nón sắt, bộ quần áo rằn ri, đôi bottes de saut, chiếc thẻ bài… Lô cốt được làm bằng những bao cát như ở chiến trường thật, họ đã thuyết phục được trái tim của khán giả; có người chậm mắt kể lại kỷ niệm của những năm 1972, của 81 ngày đêm nơi chiến trường Quảng Trị, bom đạn đã xé toạc tất cả, những bức tường loang lổ máu khô, ký ức của người dân bị bứng khỏi mặt đất.

Tôi đã không ngoại lệ, cố nuốt nước mắt vào trong, rời khỏi chỗ ngồi để lên khen tặng ban tổ chức, chắc chắn họ đã phải tập dợt nhiều công phu lắm, họ đã thực hiện ngày gây quỹ này với cả trái tim, và tâm Bồ Tát!


Nhóm Les Perles không những tổ chức gala lớn này, mà còn tổ chức thêm ở những nơi nhỏ hầu gom được thêm đồng nào hay đồng đó, họ sợ rằng những người TPB VNCH không còn sống được bao lâu nữa, vì đã lớn tuổi, thêm phần bệnh hoạn, không có tiền chạy chữa thuốc men, mặt khác những người làm thiện nguyện ở trong quê hương, họ cũng đã lớn tuổi, hoặc vì một lý do an ninh nào đó, họ sợ bị làm “khó dễ.”

Vài hình ảnh tại buổi gây quỹ Les Perles. (Hình: Sỏi Ngọc)

 

Do đó ban tổ chức Les Perles muốn gửi tất cả số tiền thu được, đến xu cuối cùng về cho các anh TPB VNCH lần này. 

Chúng tôi ra về trong niềm hân hoan, hạnh phúc vì chương trình thật thành công, và chúng tôi đã đặt niềm tin đúng chỗ; những người vô gia cư sẽ có bữa cơm nóng ngon miệng như tôi hằng mong mỏi, cũng như những anh Thương Phế Binh VNCH sẽ có cuộc sống cải thiện hơn đến cuối đời.

Tôi cũng cầu mong cho những người có tâm tốt, có trái tim yêu thương san sẻ, sẽ mãi nhiều sức khỏe, bình an để có thể giúp lan tỏa ngọn lửa yêu thương rực sáng trong từng bước đi của chúng ta mai sau.

 

Montreal, Sept’25

Sỏi Ngọc – 27 tháng 9, 2025

Soi Lòng - Thích Tánh Tuệ

 

Có đôi lúc ta cần nên thận trọng
Ngồi lắng nghe dư luận nói về mình.
Không lệ thuộc trước những lời hư vọng,

Chẳng coi thường bao góp ý công minh..

Vì..'' không lửa thì làm sao có khói! ''
Nên lắng lòng xem xét lẽ thực, hư.
Và cười nhẹ, khi biết mình không lỗi
Hiểu thêm rằng.. dư luận vốn luận dư..

Khi cầm mảnh gương soi vào tâm khảm
Ta biết mình đẹp, xấu, đục hay trong?
Vườn tâm địa giăng mắc nhiều cỏ dại
Mà cũng không thiếu vắng những hoa hồng.

- Thánh nhân nào mà không mang quá khứ
Tội nhân nào chẳng thể có tương lai!
Chính vì vậy, nhủ lòng luôn khoan thứ
Kiếp con người ai thoát khỏi lầm sai ?

Sau mưa gió bên kia trời ửng nắng
Sau lỗi lầm, cay đắng, trưởng thành hơn.
Điều quan trọng là tự tri, vượt thắng.
Những đam mê, giới hạn của tâm hồn.

Thường soi bóng bên dòng sông tâm niệm
Nếu ta cười.. ảnh hiện nụ cười ta
Cùng thế ấy, luôn sống đời hướng thiện
Vững tin mai Hạnh phúc lại trao quà.

Có đôi lúc ta hãy nên nhìn ngắm
Thế gian này bằng đôi mắt trẻ thơ.
Để nghe tiếng Thương yêu từ sâu thẳm
Chỉ cái nhìn nhân thế hết bơ vơ..

 


Thích Tánh Tuệ

 

Himachal India mùa An Cư 2014

Me Chồng Tôi, Bà Thế Lữ - Phạm Thảo Nguyên

 
Bà lang, mẹ nhà thơ Thế Lữ

Khi cưới tôi về ở với gia đình trong Nam, chồng tôi chỉ có mẹ, chị, và anh thứ hai đã ra ở riêng. Bố và anh lớn của anh ở ngoài Bắc, đã mười tám năm không gập mặt.

Mẹ người tầm thước, vừa người, vấn khăn vải, ăn trầu và còn răng đen. Mẹ là người cổ kính, ăn nói nhỏ nhẹ, không thấy to tiếng bao giờ. Mẹ rất hiền và nghe theo ý của các con, nhất là ý chị lớn. Việc mẹ bằng lòng cho con trai lấy tôi, một cô bạn học của anh, theo đạo Phật, và chấp nhận tôi không phải theo đạo Chúa, được xin "miễn chuẩn dị giáo ", là do các con khuyên được. Mẹ chăm lo cho các con, dù đã lớn, từng miếng ăn, giấc ngủ. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc, ngay cả khi tiễn con cháu đi xa không biết bao giờ mới trở lại. Mẹ nói mẹ không còn nước mắt.


Hồi trước năm 1945, gia đình chồng tôi gồm cả bà nội, sống ở Hải Phòng, bố là con độc nhất của bà, bố rất có hiếu với bà. Những năm 1933-1946 bố đi Hà Nội làm báo, mỗi tháng chỉ về nhà độ một hoặc hai lần, mà mỗi lần về chỉ một hai ngày thôi. Khi bố có viêc cần, bố viết thư cho mẹ. Thư chỉ độ một trang giấy hoc trò, mẹ thường phải giấu bà, để tới tối không ai thấy, mới dám mang ra đọc. Mẹ chỉ biết đọc, không biết viết.

Mẹ sinh năm 1905, tại một làng đạo tỉnh Hà Nam. Cha xứ dạy con chiên học đọc để đọc kinh, không dạy viết. Con gái xóm quê, chưa từng đi học bao giờ, học khó quá, thì cha ra lệnh : " Không biết đọc thì không được phép thông công ", nên mẹ biết đọc. Đến khi cần trả lời thư bố, thì mẹ phải nhờ cô em nuôi trong nhà viết dùm, giấu bà. Đến mấy chục năm sau, thỉnh thoảng cô ấy lên chơi nhà, vẫn kể cho chúng tôi nghe chuyện thay mẹ viết thư cho bố. Tuy nhiên, mẹ rất thông minh, thuộc tất cả thơ của bố. Mẹ cũng chịu khó đọc thêm sách, truyện, báo chí ...

Tôi còn nhớ một chuyện xảy ra hôm đám hỏi của chúng tôi. Lúc nhà trai đến, gia đình nhà gái với đầy đủ họ hàng, bạn bè, thân thuộc đang ra tiếp đón vui vẻ, thì một bà bác tôi vì không biết bố chú rể là ai, tới hỏi mẹ chồng tôi rằng : "Thưa cụ, thế cụ ông nhà ta làm gì ạ?", và mẹ đã trả lời : "Dạ, nhà tôi đi diễn kịch".

Một người bạn thân của tôi nghe được, chạy vào nhà trong nói với hai chúng tôi rằng: "Trời ơi, sao cụ bà kỳ thế! Cụ không trả lời là nhà tôi là nhà thơ, là nhà văn,.. mà lại bảo là "nhà tôi đi diễn kịch!". Hai chúng tôi đứng yên lặng nắm tay nhau, chỉ cười không trả lời lại. Vì trong đáy lòng, chúng tôi hiểu rõ rằng, cụ bà răng đen mà ai cũng cho là nhà quê kia, đã tỏ ra rất yêu chồng và hiểu sâu xa những đam mê, những mơ ước cuả cả đời ông. Mẹ không phân biệt nhà thơ hay nhà văn hay người làm kịch, mà nói ra thật đúng điều chồng mình suốt đời say mê trở thành. Đó chính là "được làm kịch, được xây dựng nghề kịch" khi xã hội Việt Nam mới manh nha kịch nói, khi đi hát đi diễn kịch còn là "xướng ca vô loài". Trở lại thời gia đình còn ở Hải Phòng, bà nội rất khó tính, nhất là đối với mẹ. 

Bố đã giải thích cho mẹ hiểu là tại tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở, bà khổ quá, bà hành con dâu vì những điều uất ức không nói ra được... Có một lần, bố viết một truyện ngắn, mang về nhà, giả vờ là truyện của văn sĩ khác, đọc cho bà nghe, mong bà thương mà nghĩ lại cho. Đang đọc, thì bà cầm lấy cái tráp đựng trầu, dằn mạnh xuống phản một cái rầm, rồi nói :

" À, thế ra anh lại muốn dạy tôi đấy ! ".

Bố sợ quá, chạy thẳng một mạch không dám trở về nhà nữa. Và người phải chịu đựng mọi thứ chuyện ở trên đời lại vẫn là mẹ.

Ông nội người làng Phù Đổng, từ Hà Nội nhìn ra là "bên kia sông Đuống ", ông học tây học, đi làm sếp ga xe lửa (những năm đầu thế kỷ 20). Ông thuộc dòng trưởng trong họ, đi làm xa không trông nom được nhà thờ họ nữa, nên nhường lại cho dòng thứ, vẫn còn ở trong làng thờ cúng tổ tiên tới bây giờ. Do không bao giờ sống ở trong làng, bố cũng như anh lớn quên mất quê Phù Đổng, luôn luôn khai mình quê ở Hải Phòng. Văn học sử chắc còn sai chuyện đó mãi.

Hồi trẻ, bà đi buôn tơ, nên thường đi lại trên tầu hoả, gập ông sếp ga trẻ, vì thế mới nên duyên. Bà lấy ông nội trước, nhưng "vượt quyền gia đình " nên không được làm vợ cả của ông. Nghĩ lại mà coi, ngay thời bây giờ, có ai lại vui lòng cho con trai giỏi giang độc nhất của mình lấy một cô "đi đạo", hồi đó có nghĩa là "bỏ không thờ cúng tổ tiên nữa ", mà lại không đợi bố mẹ hỏi vợ cho không ? Kết cục là cụ nội cưới cho ông một bà khác làm vợ cả, mang về sống cùng gia đình.


Về sau, ông nội chúng tôi đổi về ga Lạng Sơn, ông mang gia đình tới ở đó. Bà nội vẫn sống một mình ở Hải Phòng, nuôi hai con là bố chồng tôi và một người anh. Hồi bố còn bé, bà cả chưa có con, cụ nội đã tới bắt bố mang về Lạng Sơn, cho làm con nuôi bà cả, để mong bà cả sớm có con. Sau đó, bà cả sinh được ba con trai và một gái. Trong tiểu sử của mình, bố kể lại cho thi sĩ Xuân Diệu viết, có đoạn :

" Khi lớn lên bắt đầu hiểu biết, thì thấy mình sống mà lúc nào cũng thương nhớ, thương nhớ một người gọi bằng mợ, và sống trong nhà với một người gọi bằng u..."

Thỉnh thoảng bà nội lên Lạng Sơn thăm bố, hai mẹ con rù rì nói chuyện. Đến lúc bà đi tầu hoả về, bố đưa tiễn, khi tầu đi rồi, bố cứ áp tai xuống đường ray nghe tiếng tầu chạy vọng lại, vọng lại mãi...

Thế rồi, anh lớn của bố bị bệnh mất mấy năm sau đó, lúc đó còn nhỏ tuổi. Ông nội thương bà nội quá, bà ở có một mình, nên đã ra tay "đánh tháo" cho bố trốn khỏi Lạng Sơn về Hải Phòng với bà. Từ đó, bố mới được sống với mẹ đẻ. Lớn lên, theo nghiệp văn chương, nhiều truyện bố viết còn chịu ảnh hưởng thời kỳ Lạng Sơn này. Bố cũng hay dắt các con về thăm ông và gia đình ở Lạng Sơn.

Lúc bố mới bắt đầu viết văn, ông nội thấy con trai viết được nhiều loại khác nhau, chưa nghiêng hẳn về thể loại nào, đã chọn cho bố tên Thế Lữ (cũng do tên Thứ Lễ nói lái).

Bà nội là bà lang đạo, chuyên chữa bệnh trẻ con nổi tiếng ở Hải Phòng thời đó, vì vậy thường được gọi là " bà lang ". Có lúc, bố đã định sẽ theo nghề lang của gia đình, nếu như thế thật, liệu có còn " Hổ Nhớ Rừng " cho thời niên thiếu của chúng ta không nhỉ ?

Đến khi bố được mười bảy tuổi, bà nội về một làng đạo ở Hà Nam, đi xem mặt các cô gái trong làng, bà chọn mẹ chồng tôi, một cô gái hiền lành ngoan đạo mười chín tuổi cho con trai của bà. Mẹ kể lại là trước đó, có nhiều người đến dạm hỏi mẹ, nhưng cứ có người đến hỏi, là mẹ ốm rất nặng, chỉ khi bà lang đến hỏi cho bố thì không ốm, nên gia đình bằng long gả.

Cưới con dâu về, theo tục lệ, bà nội truyền nghề " bà lang " cho. Vì vậy, mẹ vừa phải lo cơm nước cho toàn gia đình, nuôi con nhỏ, cho con bú, vừa phải làm thuốc để bán, vừa đi khám bệnh cho thuốc, khi có khách mời, (cũng có lúc, gia đình nuôi thêm người giúp việc). Vì phải làm thuốc, mẹ học được tính làm việc rất sạch sẽ, kỹ lưỡng, cẩn trọng khi nuôi trẻ, và làm cơm nước khéo léo, tinh khiết. Và cũng vì đi chữa bệnh cho trẻ con đau ốm tận nhà, nên mẹ có chút tiền dư để riêng, không phải để tiêu cho mình, mà để bù tiền chợ cho bà hài lòng.

Tính bà lang rất hay dỗi, thỉnh thoảng lại lên cơn hờn. Có lần bà hờn rồi bỏ nhà đi mất. Cả nhà sợ quá bổ đi tìm, chẳng thấy cụ đâu cả, đang quá bối rối thì bà về. Bà vào nhà, lên cái phản gỗ, ngồi vào cái võng riêng treo ngay trên đó, lấy trầu ăn, rồi nói :

- Mình ngồi ngay ở nhà ga chứ có đâu xa, mà chẳng đứa nào thèm ra đón mình về, cứ như con chó tiền rưỡi ấy thôi !

Ấy là thời xưa người dân ta hay nói ví von như thế. Có khi bà hành con dâu (mẹ chồng tôi) đủ kiểu rồi, không thấy nó khóc lóc gì, thì lại nói ví :

Nắng mãi mà hoa không héo,

Hoa cứ reo réo hoa tươi.

Mẹ sau này nghiện trầu cũng là tại bà. Mỗi khi đi đâu ra đường, thì bà gọi lại, ấn miếng trầu vào tay, dạy bảo :

- Ăn trầu đi, cho môi nó đỏ, mặt mũi hồng hào lên chứ, đàn bà ra đường mà môi thâm thế kia.

Nhiều lúc mẹ khốn khổ quá, không chịu nổi, đã trốn về gia đình mình. Nhưng về tới nhà, thì bà ngoại lập tức khóc lóc nói :

- Con đã lấy chồng, là con người ta, thì sống chết cũng phải về đó không được bỏ, nếu không, mẹ chết ngay bây giờ đây.

Rồi cụ đưa mẹ về lại nhà chồng.

Mỗi lần mẹ ốm, phải uống thuốc, thì bà nội lại ngấm nguýt :

- Mình ốm rơi răng cũng chẳng thuốc men gì, còn nó thì hơi tí đã thuốc.

Mẹ giận quá, nên đến lần ốm đó, mẹ không uống thuốc nữa, ốm luôn một mẻ vài tháng. Đang lúc đó, mẹ lại mang thai chị lớn, mẹ ốm tới nỗi thai đang lớn lại nhỏ đi, mười một tháng mới sinh, về sau chị lớn lên, rất yếu đuối. Có một chuyện mẹ hay kể cho chúng tôi nghe là :

Nhà có ba gian, ông ấy (bố chồng tôi) ngủ nhà ngoài, bà lang (bà nội) ngủ nhà giữa, còn mẹ ngủ nhà trong. Mà có xong đâu, mỗi khi bà lang đi vào trong Thanh (tỉnh Thanh Hoá) vài ngày, đi mua xương hổ nấu cao hổ cốt, thì gọi mẹ ra dặn :

- Này, nó đang ốm đấy, đừng có lộn xộn !

Thế nhưng khi mẹ có thai thì bà mừng lắm, vì bà rất thích có cháu.

Mẹ vừa cười vừa kể, lần nào cũng đúng từng câu như vậy. Mẹ kể thêm một chuyện nữa, bắt đầu bằng : - Con đã biết chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa ? Có một lần, mẹ đi tầu hoả, có nói chuyện với một người trên tầu, khi biết rằng mẹ là vợ ông Thế Lữ, người đó đã nói: "Giời ơi! thật thế à? Chị thật sung sướng quá, chị là người sung sướng nhất đời". Đấy, con đã nghe chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa ?

Mỗi lần thấy mẹ kể chuyện, chồng tôi lại ra vuốt lưng mẹ: "Mẹ lại kể chuyện cổ tích rồi ". Các con chúng tôi cũng được nghe dăm ba câu chuyện "cổ tích"như thế. Chuyện cổ tích ngày xưa này, dài mấy chục năm.  

Bố đi làm báo xa, mẹ ở nhà nuôi các con và phụng dưỡng mẹ chồng thay bố. Mỗi tháng bố về một hay hai lần. Nhiều khi bố về là bà kể tội các cháu.. Bố mệt và giận, nên lôi các con ra bắt nằm trên phản, quất cho một trận phất trần, con khóc, vợ buồn... bố lại bỏ đi...

Thế Lữ

Tuy nhiên, nhiều lúc bốn anh em cũng được bố chiều, dẫn đi chơi, có lần trời mưa không dẫn con đi xem xiếc như đã hứa được, bố đã xuất thần hoá trang làm nhân vật sân khấu, làm hề, giúp vui cả nhà...

Anh cả, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, còn nhớ có lần bố dắt anh đi xe hàng ra Đồ Sơn hóng gió biển... thấy bố dũng mãnh bế mình đứng trên xe, anh rất phục và rất hãnh diện vì bố. Anh cũng là người con duy nhất theo được nghề đạo diễn của bố, được sống gần bố lúc mới lớn, được bố nuôi dưỡng những đam mê về nghề kịch cho anh, được bố dẫn dắt anh lúc bắt đầu. Sau này, hai bố con nói chuyện, bàn bạc về kịch rất tương đắc, bố vẫn là một cố vấn theo dõi công việc đạo diễn của anh suốt đời. Có những vở kịch anh làm theo góp ý của bố, đã rất thành công. 

Bố tính hay pha trò, con cháu ai có tật gì, dáng gì không đẹp, là ông bắtchước, làm như hề, giúp trẻ hiểu cái xấu để sửa lại. Anh thứ hai là người khó ăn, anh không ăn nổi một cọng hành. Có lần, bố vẽ hình anh đang khóc bên cái bát có cọng hành... để dỗ anh ăn.

Cả nhà các con các cháu đều học được tính hay nói đùa, ai cũng thích kể chuyện cười. Hôm nào ăn cơm đông đủ là tranh nhau kể chuyện. Con gái tôi khi còn bé, cháu cũng thích kể lắm, nhưng khi cô bé kể chuyện cười thì vừa được vài câu, đến chỗ buồn cười là cô nàng cười trước, rồi càng lúc càng cười, cười đến nỗi không nói nổi nữa, cả nhà cứ nhìn nó cũng thấy buồn cười rồi, nên người nọ chỉ người kia, ai cũng lăn ra cười. Câu chuyện thì chưa kể xong! Mà có ai cần nghe xong câu chuyện đâu ! Cười là vui rồi.

Trong lá thư đầu tiên anh Nghi gửi cho chồng tôi sau mấy chục năm xa cách, không hề có liên lạc, anh viết: "Hình ảnh cuối cùng của em, mà anh còn giữ mãi, là một chú bé mươi tuổi đang lăn ra cười trên đê. Lúc đó em đang kể chuyện "Ganh đòn bá" (ba đòn gánh) cho anh nghe ở hậu phương".

Mẹ hay nhắc lại là hồi trẻ bố còn hay nóng giận, nhưng khi bố giận, bố chỉ nện giầy nặng thêm lên thôi. Mẹ nghe tiếng giầy là biết ngay, nên tránh không nói gì hết cho đến khi cơn giận của bố tan đi. 

Bố sống xa nhà, phần nhiều ở Hà Nội, bố gia nhập Tự Lực Văn Đoàn, làm thơ, làm báo, viết truyện, viết Tin Văn Vắn chuyên về phê bình thơ... Bố nổi tiếng, bố lập ban kịch, rồi đi trình diễn các nơi... Bố vẫn về thăm gia đình đều đặn hàng tháng. Nhưng rất ít bạn bè, đồng nghiệp của bố quen biết gia đình vợ con bố.

Thế rồi, chuyện phải đến, đã đến. Ngay từ những năm bắt đầu làm kịch 1937-40, bố gập một người cùng chí hướng, bà Song Kim, bà giỏi thiên bẩm về nghề kịch, có cùng những ước mơ những đam mê sân khấu như bố... Bà Kim đã cùng bố xây dựng nền kịch nói, từ đó...
Anh Nghi nhiều lúc nói với chúng tôi :
- Anh là người không có tuổi thơ, vì mới có mười mấy tuổi, đang ở Hải Phòng, nghe tin bố có "bà khác " ở Hà Nội, mẹ khổ quá, mà mẹ không có ai bàn bạc, anh là con lớn nên mẹ chỉ nói chuyện với anh.

Bà nội nghe chuyện ấy rất buồn. Tuy xã hội ta trong những năm xa xôi đó, đa thê là chuyện bình thường và hợp pháp.
Thế rồi Đảo chính Nhật, rồi Cách mạng tháng Tám. Bố cùng ban kịch đang đi lưu diễn vội trở về Hà Nội. Đến khi chiến tranh chống Pháp bắt đầu, cả đoàn kịch đã theo Kháng Chiến, đi khắp các nơi biểu diễn.

Như tất cả mọi người, gia đình ở Hải Phòng gồm bà nội, mẹ và bốn anh em cũng chạy tản cư. Vào một ngày năm 1948, đang ở nhờ trong một nhà dân vùng hậu phương xa thành phố, nghe tin có ban kịch đi qua, các anh đi tìm ngay được bố, đưa bố về gặp gia đình. Bao nhiêu lâu mới được một lần sum họp, mới có một bữa ăn đông đủ cả nhà... Nhưng, người lớn có chuyện quan trọng cần bàn ngay : Nhà đã hết tiền, không có cách sinh nhai, không thể tiếp tục sống ngoài hậu phương được mãi. Gia đình quyết định cho tất cả đàn bà trẻ con về thành, trừ anh lớn. Bố nói : " Nghi đi với cậu, con về thành sẽ bị bắt đi lính cho Pháp ".Từ đó, chia ly hai ngả.

Năm 1954, sau hiệp định Genève, bố và anh Nghi về Hà Nội, nhưng nửa kia của gia đình lại ở trong Nam. Mẹ không hành nghề "bà lang " nữa, vì ít có người bệnh tìm đến, hoặc nếu người ở xa mời đi thì không dám đi vì mẹ không biết đường... 

Thế rồi, mẹ già đi, trẻ con trở thành người lớn...

Thế Lữ và vợ xum họp sau 1975


Tuy vậy anh em chúng tôi vẫn giữ liên lạc rất tốt đẹp với bà Song Kim, tự biết mình là con, mình phải biết chấp nhận gia đình như nó là, và trân trọng những người thân của bố. Mỗi lần về thăm Hà Nội chúng tôi đều tới thăm bà và gia đình, tham dự giỗ tết, cũng như những bữa cơm sum họp... Bà rất quý chồng tôi, vẫn thường nhắc những chuyện cũ như : Ngày ban kịch Anh Vũ (?) xuống Hải Phòng lưu diễn, nhà tôi mới có mấy tuổi, bà còn bế ngồi trên lòng... Bà vẫn thăm hỏi các chú em trai của bố, mất liên lạc từ những năm 1946...Anh Nghi nói riêng với chúng tôi rằng :

Công bằng mà nói, bố sống xa gia đình rất lâu, nổi tiếng như thế, hồi đó rất nhiều các mệnh phụ đẹp như bà hoàng của Hà Nội, mê bố. Cho nên, không có người này thì có người khác. Bố đã gặp được người cùng chí hướng, cùng bố xây dựng, thực hiện những đam mê nghệ thuật, hơn nữa bố có được một gia đình an ổn, hạnh phúc để làm việc trong rất nhiều năm, nhất là trong suốt những năm đất nước chia cắt, có người săn sóc tinh thần cũng như vật chất cho bố, thật là đáng quý. Mình phải kính trọng và cám ơn bà Kim. Vả lại, đây là một chuyện đã được xã hội ngoài này trong bao nhiêu năm nay công nhận, mình nên tôn trọng việc đó. Họ hàng làng nước, ai có nói gì cũng mặc họ.

Bố chúng tôi là người không biết gì tới đồng tiền, có gì dùng nấy, không đòi hỏi. Trong bao nhiêu năm, cụ vẫn có số lương rất nhỏ, vì không biết lên xin, nên người ta quên cho cụ Chủ Tịch hội Nghệ Sĩ Sân Khấu lên lương... Tuy nhiên, khi gặp lại chúng tôi, cụ vẫn cho rằng mình sống rất thoải mái. Trong những năm tháng cuối đời, cụ vẫn giữ thói quen mê đọc sách, cụ đọc 8 tiếng một ngày, thỉnh thoảng xem truyền hình, thích nhất là xem kịch, dĩ nhiên ! Các bạn cũ, mỗi khi đi qua thành phố, đều tìm tới thăm, chúng tôi gặp được những người xưa cũ như thi sĩ Xuân Diệu, thi sĩ Huy Cận... các văn nghệ sĩ lớp sau như nhà văn Nguyễn Khải, hoạ sĩ Lưu Công Nhân... rồi các anh học trò như cac tác giả Tào Mạt, Thế Ngữ... và đặc biệt là nghệ sĩ Bảy Nam, bà rất thương cụ, nghe mấy cụ nói chuyện với nhau anh anh tôi tôi, rất hay ! Đi đâu xa, bà cũng nhớ mang quà về cho, khi thì nải chuối, khi thì ít bánh đặc sản... Đó là tôi chỉ kể được một vài.

Riêng đối với cháu trai nhỏ của chúng tôi, cụ rất yêu chiều cháu. Mỗi khi chúng tôi sắp về thăm, cụ sửa soạn trước ít truyện để kể riêng cho cháu nội nghe, chúng tôi xin ghi âm nhưng cụ không chịu. Về sau, khi cháu lớn lên, cháu hiểu được những việc làm của ông: "Ồ, hoá ra ông nội có viết về truyện kinh dị, nên hồi xưa ông kể cho con nghe những truyện lạ lắm ! ".

Những món quà chúng tôi mang về biếu, được cụ thích nhất là sách và những bó bút nguyên tử giản dị, cụ để dành để biếu bạn bè tới chơi. Hình ảnh cụ cầm cả bó bút giơ lên xuýt xoa nói: " Cậu cảm thấy giầu có quá! ", thật là đẹp. Và món quà cụ muốn được mua riêng cho mình là khăn mùi xoa giấy ! Các bạn có biết tại sao không ? Vì cụ không muốn người khác phải giặt hầu những khăn bẩn (những món này, hồi đó còn chưa mua được dễ dàng ngoài phố).

Có người than thở cho cụ, nói rằng cụ nghèo quá, nếu ở nước khác mà nổi tiếng như thế, tha hồ mà giầu có. Tôi nghĩ khác, tôi nghĩ cụ là người sung sướng nhất, vì một nghệ sĩ như cụ, vừa hơn hai mươi tuổi, ra đời, viết cái gì cũng được bạn bè, đồng nghiệp, độc giả cũng như xã hội đón tiếp rất trân trọng, nồng nhiệt, ngay lập tức: Dưới ba mươi tuổi đã được coi như thi bá thời bấy giờ, đến khi bước sang kịch nói cũng không có gì là không thành công, tuy chưa làm được hết những ước mơ của mình, nhưng không hề thất bại. Cụ đã mở đầu thơ mới, mở đầu kịch nói, đóng góp được bao nhiêu cho văn hoá nước nhà. Tư cách của cụ trước sau vẫn luôn luôn là gương mẫu cho những thế hệ tiếp theo, cụ đã truyền kinh nghiệm, dậy bảo nghề Đạo Diễn cho nhiều lớp học trò, xây dựng cho thế hệ sau với tấm lòng chan hoà hiếm có... Đó là một nghệ sĩ được hiểu, được quý trọng ngay khi vừa ra đời và suốt cuộc đời. Đó là điều hạnh phúc nhất. Văn hoá là chuyện muôn đời, đời nay chưa biết làm rõ công của cụ trong văn học thì đời sau sẽ làm. Chúng tôi tin như thế.

Riêng về mẹ chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng bố chúng tôi đã về với gia đình, với mẹ trong 12 năm cuối đời của cụ, là điều quý nhất cho mẹ. Danh tiếng, mẹ chúng tôi không cần, mẹ biết là "người đi đã trở về " là đủ.

Tới bây giờ, bố mẹ chúng tôi đã mất cả rồi, lâu rồi. Bốn anh em cũng đã ra đi hết. Những người đó chưa bao giờ cần giải thích cho ai cả. Còn tôi, tôi phải viết những dòng này vì cuộc đời âm thầm của mẹ chồng tôi, không nên để âm thầm mãi, như thế không công bằng. Và để các con, các cháu hiểu, thương và hãnh diện vì cụ.

Chúng tôi vừa nhận được tin : Cụ bà Phạm thị Nghĩa, tức Nghệ sĩ Nhân Dân Song Kim vừa qua đời, vào tháng 11 năm 2008. Chúng tôi ở xa không về được, chỉ biết vọng về thương cảm, xin cầu nguyện cho hương linh cụ bà sớm được siêu thoát, thanh thản về cõi tịnh.

Nếu chúng ta do những nhân duyên riêng đã được gần gũi, được hiểu, được sống với một vài vị thuộc thế hệ đã trở thành xưa cũ đó, ta sẽ cảm được số phận riêng của mỗi người... Những người đó sinh ra, lớn lên trong một hoàn cảnh xã hội rất khó khăn, khác của chúng ta ngày nay nhiều lắm. Mong rằng, họ không bị những thành kiến của những người ngày nay xét nét. Họ đã sống qua những vinh quang, những hạnh phúc, cũng như những cay đắng, những tủi hờn... Họ đã khai phá, đã làm việc, đã thương yêu, đã hy sinh, đã chịu đựng những ràng buộc, những khổ đau...

Thương biết bao nhiêu, kính phục biết bao nhiêu.


Phạm Thảo Nguyên

Khổ Thân Già!



Xin click vào ô vuông bên dưới để mở lớn màn hình 

Năng Lượng Của Từ Bi


- Từ bi là liều thuốc giải độc cho những bất an của con người.

- Từ bi là yêu thương những người chung quanh nhiều hơn những gì họ xứng đáng. 

- Từ bi là vẫn cho đi dù biết mình sẽ không nhận lại được gì nhiều. 

- Từ bi là khi nhận ra bình yên của người khác còn quan trọng hơn những thiệt thòi mà mình phải đón nhận.

- Từ bi là một đôi tay từ tốn tháo gỡ hết những rắc rối và thu xếp mọi thứ ngăn nắp trở lại. 

- Từ bi là đôi chân mạnh mẽ nhất mà con người có thể có được để đi qua hết khổ đau. 

- Từ bi là một ánh mắt mới, rất ấm, nhìn lại những tổn thương đã qua.

- Tâm từ bi là một nguồn năng lượng có thể tái tạo được, hôm nay đã dốc hết lòng để thương người, nhưng ngày mai vẫn còn có thể thương được người thêm một lần nữa.

- Từ bi là khởi đầu cho hạnh phúc, là nơi bắt đầu cho bình yên, và là tín hiệu cho sự tái sinh.

 

Nguồn FB