Tuesday, November 4, 2025

Có Một Người Phụ Nữ Như Thế - Hoàng Thị Bích Hà

Hình minh hoa: Hoàng Thị Bích Hà

Tôi gặp chị trong một dịp tụ họp cà phê ăn sáng với nhóm thi hữu văn chương tại thành phố HCM. Đó là chị Ngọc Mai với khuôn mặt đẹp, dáng người nữ tính, đôi mắt long lanh sáng đẹp như hút hồn người đối diện. Tên đẹp, người đẹp, nụ cười duyên dáng và giọng nói êm ái, ngọt ngào là ấn tượng đầu tiên của tôi về chị. Tôi nhìn chị đoán cỡ khoảng chưa ngoài tứ thập. Chị cười dịu dàng bảo:

-Em cộng thêm ba mươi năm nữa mới gần đúng tuổi thật của chị!

Tôi ngạc nhiên và không thể ngờ trước việc chị trẻ hơn tuổi nhiều đến thế! 

-Ôi vậy à! Nếu thế thì chị quá trẻ so với tuổi. Nếu chị không khai, khó ai mà đoán ra tuổi thật của chị!

- Nhìn chị, em biết chắc chị hạnh phúc lắm mới trẻ được như vậy, chắc là lúc nhỏ được ba mẹ cưng, lập gia đình thì được chồng cưng, chị mới có dáng hình trẻ trung, gương mặt xinh tươi ánh lên vẻ yêu đời lạc quan đến vậy.

-Ồ cảm ơn em! Nhưng chị thì không được như em nghĩ đâu!

       Thế rồi chị bắt đầu kể tóm tắt cuộc đời của chị cho tôi nghe, chị ngược dòng thời gian đưa tôi về miền ký ức của chị trong những năm tháng khói lửa chiến tranh.

       Chị sinh ra và lớn lên tại quận 3 Saigon xưa. Những quận 1-3-5-4- 10,… là những quận xem như những quận trung tâm của thành phố này.        

        Dĩ nhiên chị có điều kiện sống tốt, như những bạn cùng trang lứa trong vùng. Mặc dù bố chị đi tập kết ra Bắc theo lệnh khi đang làm việc tai cơ quan, chưa kịp về từ giã gia đình. Mẹ chị một mình vẫn lo được cho chị ăn học đàng hoàng. Thi xong tú tài chị học tiếp ngành ưa thích và đi làm. Với nhan sắc như chị tôi đoán được chị có khá nhiều sự lựa chọn cho cả công việc lẫn người thương. Chắc chắn chị sẽ chọn cho mình một ý trung nhân trong vô số các chàng đẹp trai, con nhà giàu học giỏi trong thành phố. Duyên số đưa đẩy chị chọn anh! Sau khi lập gia đình, cơn lốc chiến tranh cuốn anh vào con đường binh nghiệp theo lệnh tổng động viên. Và anh chị cũng đã kịp có một đứa con xinh xắn! 

        Cuối tháng 3/1975, thời gian này tiếng súng nổ ùng oàng đâu đó, ngoài đường những toán lính VNCH đã buông súng theo lệnh của tổng thống Dương Văn Minh, người người dáo dác ngược xuôi. Người dân kẻ thì tràn ra đường chào mừng quân giải phóng, người thì tìm đường rời khỏi thành phố. Người thì tìm kiếm trong đoàn quân vào thành phố xem có cha, anh mình đi tập kết trở về không? 

        Lúc này, bé Bảo Ngọc được 9 tháng tuổi. Chị cũng ôm con ra bến tàu Bạch Đằng đi tìm chồng. Hi vọng anh sẽ trở về. Chị thấy một con tàu neo đậu, người chen chúc lên, trên đó cũng thấp thoáng những bộ đồ lính của binh chủng chồng chị. Chị bồng con bươn bẩy hòa và dòng người đang xô đẩy nhau cố chen cho được chân lên tàu. Bỗng tiếng súng nổ chát chúa ngay bên hông tàu. Thế là tàu chìm, mọi người hỗn loạn rơi xuống nước, kẻ bám vào thành tàu trong sự hoảng loạn đến tột cùng. Run rủi sao chị lạc mất con. Khi tỉnh dậy chị thấy mình nằm trên sàn một chiếc tàu khác đậu cách đó một quảng. Không biết ai đã đưa chị lên đây. Chị mở mắt ra, áo quần còn ướt sũng, hoảng loạn. Ôi con tôi đâu rồi! Bảo Ngọc ơi! Con đâu rồi! Chị lấy hết sức bình sinh gọi con trong tiếng nấc nghẹn ngào. 

        Bỗng chị chợt thấy anh (chồng đây rồi!): Chị như người sắp chết đuối vớ được phao cứu sinh: Anh Tùng! Mình ơi! Em đi tìm anh mà lạc mất con rồi! Mình thấy con mình Bảo Ngọc đâu không? Súng nổ, tàu chìm, không hiểu ai đã vớt em lên đây, còn con mình đâu rồi! Con ơi! Vừa mừng gặp được chồng, nhưng chưa tìm thấy con. Chị òa lên khóc nức nở trong nghẹn ngào! 

        Anh không nói gì, anh cũng ngạc nhiên và bất ngời không kém nhưng nét mặt không lộ vẻ vui mừng. Tia nhìn cũng thiếu ấm áp như ánh nhìn dành cho chị trước khi anh đi lính. Đoạn anh quay lại nói gì đó với người phụ nữ bên cạnh anh. Hóa ra đây là chuyến tàu người ta chuẩn bị vượt biên bao gồm cả sỹ quan, lính và gia đình người thân của họ. Như đã tính toán trước, chuyến tàu anh đi không ngờ lại gặp chị trong hoàn cảnh này. Người anh chọn để cùng đi với nhau không phải chị và con gái mà là một người phụ nữ khác. Họ trốn chị. Còn chị lạc lên đây, số phận trêu ngươi cho chị thấy tận mắt anh và người khác đi cùng nhau, cho chị nếm cảnh đời đắng chát của sự phản bội. Thực ra thì phản bội có lẽ đã xảy ra trước rất lâu rồi mà chị không biết. Chỉ đến khi trong tình cảnh éo le, khốc liệt này số phận lại bắt chị chứng kiến cảnh tượng không còn lời nào để nói. Sau những giây phút ngỡ ngàng, sững sờ rồi rơi vào câm lặng. Dù xung quanh vẫn hỗn độn, vẫn ồn ã. 

        Như hiểu ra tình thế! Chị bất giác nhận ra, anh không còn là của chị nữa, anh không thuộc về chị nữa, anh đã thuộc về người khác. Từ vui mừng gặp anh, đến thảng thốt mất con, đến thái độ thờ ơ dửng dưng khi gặp chị, đến cử chỉ ánh mắt không còn dành cho chị nữa mà sự vỗ về âu yếm anh đã dành cho người khác ngay trước mắt chị. Tất cả trong một vài khoảnh khắc rất ngắn, vội vã và trớ trêu của thời gian. Chị mất con và mất luôn cả chồng. Giữa họ bây giờ đã có bức tường vô hình ngăn cách. Dù anh đang đứng đó, trước mắt chị, không xa mà khoảng cách xa vời vợi không với tới được. Trong lúc này đáng lẽ chị cần anh nhất để cùng chị đi tìm con: “Níu đời đời đá mưa thương/ Níu em em đẩy chẳng nương tay nhờ/ Có than ngửa mặt lên trời/ ông ơi ngó xuống đầy vơi nợ nần” (Quỳnh Tiên) 

       Thôi thì: “Vết thương ứa máu đủ rồi!”. Chị biết nơi đây không dành cho mình. Chị không chọn ra đi vì chị còn phải đi kiếm con, chị cũng phải ở lại thành phố để chờ cha trở về sum họp nữa. Chị quay mặt, tìm ra cửa mò mẫm tìm đường rời khỏi con tàu. Xuống bến, người người hỗn loạn đang tất tả ngược xuôi và gọi nhau í ới. Bỗng chị thấy bên đường có một người phụ nữ (có lẽ là một người mẹ) đã chết, ngồi bên cạnh là đứa con đang cố ôm lấy mẹ và khóc. Chị tất tả nhào đi để may ra tìm được con mình. Đi tới đâu chị gặp ai chị cũng hỏi, thấy đứa trẻ nào lạc ở đây không?       

       Mọi người giúp tôi với, tôi lạc mất con rồi! Bỗng có một chị bảo quay lại đằng kia, chỗ người phụ nữ nằm, bên cạnh có đứa bé tầm tuổi con chị, cứ cúi xuống xem biết đâu là con mình.          Chị quay lại cúi xuống lay gọi và nhìn mặt cháu bé. Ôi đây rồi! Hóa ra đây là con chị. Trong lúc bom rơi đạn lạc, chị phụ nữ này bồng được con chị rơi xuống nước và khi chị lội vào bờ thì trúng đạn, chị cố lết thêm vài mươi bước nữa thì gục xuống và tắt thở, trong khi đứa bé hoảng loạn không biết mẹ mình đâu, chỉ biết người vừa ẵm em dưới nước sông Sài Gòn lên! 

        Chị ôm lấy con mừng khôn xiết tả, và tưởng như tim mình vừa sống lại sau những gì đã xảy ra.

***

        Mới đó mà nửa thế kỷ trôi qua! Chị vừa lo kinh doanh, kiếm tiền nuôi dạy con cái một gánh hai vai thay cho cả người cha của bé. Bé có cha cũng xem như không, vì cha đã thuộc về nơi khác, gắn bó với những con người xa lạ khác, không phải mẹ con mình. Trong gian khó, chị làm lụng nuôi con vượt qua thời kỳ hậu chiến, rồi bao cấp, rồi hội nhập,… Con gái chị nay đã trưởng thành, cháu cũng đã thành đạt và có mái ấm gia đình. Xem chị như đã hoàn thành nhiệm vụ làm mẹ thiêng liêng cao cả của mình. Nay chị đã thảnh thơi, bên cạnh vẫn duy trì công việc kinh doanh thường nhật. Chị đến với thi ca, sinh hoạt với các nhóm bạn cùng sở thích như picnic, khiêu vũ hay những hoạt động lành mạnh rèn luyện sức khỏe về thể chất và tinh thần. Bởi vậy chị không cô đơn, Dẫu thiếu đi một người tình tưởng là trăm năm nhưng lại bội bạc thì chị vẫn còn cha mẹ, con cái và bạn bè tri âm. Chính vì thế chị không gục ngã. Bởi vì con cần chị, cha mẹ chị cần chị. Chị không thể buông xuôi theo số phận nghiệt ngã mà đứng lên, vượt lên nỗi đau để tiếp tục tìm cho mình lẽ sống có ý nghĩa. Chị cũng không oán hờn người cũ nữa.

        Một đôi lần, “người ta” trở về Saigon thăm quê hương, chị tình cờ gặp lại cũng xem như gặp một người quen cũ, không vui cũng không buồn. Bình thường như một người bạn cũ từng quen biết rồi thôi!

        Chị buông bỏ những gì không đáng dằn vặt hay tiếc nuối. Chị làm chủ cuộc sống của mình, mặc dù khi người ấy đành đoạn rời đi chị mới ngoài hai mươi tuổi. Mẹ đơn thân, lại xinh đẹp có thừa. Xung quanh chị không thiếu đàn ông vây quanh tán tỉnh. Nhưng có lẽ chị đã thấm đòn tình ái và hôn nhân. Đau một lần đã đủ! Chị nói rằng: “Cứ ngồi yên đó, không cần đi đâu cả, tri kỷ sẽ tìm em!”. Và đúng vậy những người bạn hiểu lòng nhau sẽ chia ngọt sẻ bùi tâm sự đôi điều cho với buồn đau, và ai có cuộc sống nấy rồi mọi thứ sẽ ổn. Rồi chị đến với thi ca. Xem thi ca như một cuộc sẻ chia tâm tình, nâng đỡ tâm hồn con người.

        Ngẫm lại trong cái rủi có cái may. Dẫu phải chứng kiến hiện thực phủ phàng nhưng đau một lần rồi thôi! Nếu ngày đó, chị không lạc lên con tàu ấy, không biết anh đã thay lòng để trốn chạy cùng với một phụ nữ khác thì cả đời còn lại chị cứ khắc khoải và canh cánh không yên: “không biết giờ nay anh ở đâu? Còn sống hay đã chết, mất tích? Rồi chị lại lặn lội đi tìm hết trại cải tạo này đến trại cải tạo khác để tìm anh, không tìm ra thì nghĩ rằng anh đã tử trận bị bom rơi đạn lạc buổi giao thời, rồi lại về nhà lập bàn thờ năm tháng lo cúng cấp, cầu siêu này nọ,… trong lúc người ta đang sống phây phây cùng người khác. Thôi thế cũng là may!

         Như vậy có phải là chị mất đi thứ này thì trời bù cho chị thứ khác. Con cái giỏi, ngoan, công việc trôi tròn, sức khỏe bình an. Và thế là chị cứ tươi trẻ, cứ tràn đầy sức sống, đầy năng lượng làm việc và vẫn xinh đẹp không khác xưa là mấy. Có chăng đậm đà, chín chắn hơn xưa mà thôi! Người ta nói dù ai đó lúc trẻ căng tràn sức sống, trắng trẻo, đẹp nhưng nhạt duyên thì nhan sắc sớm phai tàn còn ngược lại nếu trời phú cho có nét duyên ngầm thì vẻ đẹp mặn mà đó không phai mờ dẫu đi qua thời gian. Nếu biết giữ gìn sức khỏe thể lực và sức khỏe tâm hồn tốt, đảm bảo chế độ ăn uống và tập luyện đúng cách, sức khỏe và dáng người vẫn ít thay đổi. Qua mỗi mốc thời gian tám mươi chín mươi đi nữa vẫn nét duyên trời cho đó vẫn ánh lên sau lớp bụi thời gian ghi dấu trên khuôn mặt. Và chị là một người phụ nữ như thế dù đã đi qua mùa thu của cuộc đời!


Saigon, ngày 23/9/2025

Hoàng Thị Bích Hà

Có một người phụ nữ như thế!

Nhỏ Xưa - Trầm Vân

Monday, November 3, 2025

Bệnh Thận Dưới Cái Nhìn Của Một Bệnh Nhân - Vũ Minh Ngọc


Ðến lúc tôi hiểu được sự quan trọng của Thận trong bộ máy tuần hoàn của con người do Tạo Hoá xếp đặt ra … thì đã quá muộn … Hai trái thận của tôi đã teo lại như hai trái táo tàu … khô! Và những gì đã xảy ra? Một câu hỏi mà các bạn bè của Việt Times tại Toronto đã hỏi tôi, nhân dịp tôi về thăm lại thành phố xưa, một thời đã lội tuyết thức khuya, dậy sớm lo kinh doanh . …

Tôi không phải là một Bác sĩ, cũng không rành gì về Y học để trình bày một cách rõ ràng về những triệu chứng về bệnh Thận, nhưng những gì tôi viết ra đây, là kết tụ của những năm tháng dài đau khổ vì Thận hư … và dưới cái nhìn của một bệnh nhân, với những xúc cảm vui buồn của căn bệnh .

Khoảng 15 năm trước đây, lúc tôi còn ở Montreal, tôi lúc nào cũng tự hào về sức khỏe của mình, bung mình như cánh chim bay lộng gió khắp đó đây… coi thường mưa nắng… Rồi bỗng một hôm, cảm thấy mệt mỏi, con đường dốc gần Parc Lafontaine bỗng trở thành một ngọn đồi Ðồng Long của An Lộc ngày nào, từ văn phòng đến ngân hàng tự nhiên thật xa và mệt mỏi, tim đập mạnh… vượt qua khoảng 300 mét mà mệt nhoài… tôi tự hỏi, sao sức mình yếu thế này nhỉ?

Phải chăng những cơn khủng hoảng của việc gia đình tan vỡ là nguyên nhân chăng ?

Tôi đến gặp Bác sĩ An, người Trưởng Ty Y Tế tại Bình Long ngày nào, một thời cùng nhau tử thủ trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 72, BS An lắc đầu vì áp huyết lên quá cao 200/120… À ra thế, tôi đã bị cao áp huyết… một triệu chứng đầu tiên của căn bệnh .

Chưa kịp chữa trị thì tôi dọn về Vancouver, bỏ lại thành phố Montreal đầy kỷ niệm… con đường thật dài, trên 5000 km đã nuốt trọn sau 4 ngày lái xe, hầu như không ngừng nghỉ… và những triệu chứng gần như dồn dập… những viên thuốc Adalat từ 20, chuyển sang 30 rồi 60 được thay thế tuỳ theo diễn tiến của mỗi lần đo áp huyết.

Tôi được giới thiệu đến một  Bác sĩ  chuyên môn khám nghiệm, cuộc biopsie Thận không kết quả vì hai trái thận … teo mất rồi… Quá trễ rồi !

Kết quả thử máu cho hay, chất creatinine lên cao … Creatinin là độ dơ còn lại trong máu mà Thận không lọc được, trung bình độ dơ khoảng 110 là bình thường đối với một người đàn ông lúc đó, độ creatinin của tôi lên cao hơn 300 tức là gấp ba lần bình thường . Cho đến một hôm, lên cao khoảng 450 thì Bác sĩ  Lien, một vị Bác sĩ người Tàu chuyên khoa về thận đã thảo luận và quyết định cho tôi đi lọc máu .

Ông ta phân tích, có hai loại : lọc máu và rửa thận : lọc máu có nghĩa là phải vào bệnh viện để dùng máy - thận nhân tạo để lọc chất nước dư trong người ra, đồng thời lọc chất dơ trong máu … danh từ chuyên môn gọi là hemo-dialysis và lọc 3 ngày một tuần mỗi lần khoảng 6 tiếng kể cả việc chuẩn bị và cách thứ hai là rửa thận mà danh từ chuyên môn gọi là Peritoneal Dialysis, cách thức này không phải đến bệnh viện có thể tự làm lấy tại nhà và mỗi ngày thay nước rửa 4 lần, khoảng 45 phút/ lần và 7 ngày trong tuần …

Nghe đến đây, tôi xin chọn cách đi lọc máu - hemo-dialysis và Bác sĩ Lien gửi tôi đi gắn ông fustila .

Cuộc đời tôi bắt đầu … khốn nạn từ đây !

Ống Fustila và Catheter là gì ?

Ðể lọc máu, bệnh nhân phải qua một cuộc giải phẫu để gắn ống cao su vào các động mạch và mỗi lần lọc máu, phải dùng hai cây kim dài khoảng 10cm, như cây kim đan nhỏ và cắm vào ống cao su, gắn trong mạch máu, để một kim hút máu ra, và một kim đưa máu vào .

Cuộc giải phẫu kéo dài khoảng 2 tiếng và bệnh nhân trở về trong ngày, sau đó bệnh nhân phải tập với những trái banh cao su, làm sao cho ống cao su nổi lên trên cánh tay  như những con rắn nhỏ lượn trên cành cây …

Trung bình, sau khi gắn ống fustila khoảng 6 tuần đến 4 tháng thì ống mới sẵn sàng để dùng lọc máu … Do đó, Bác sĩ khi thấy độ creatinie khoảng 400 là cho đi gắn ống fustila ngay … vì nếu không sẽ chậm trễ việc lọc máu .

Trong trường hợp khẩn cấp sau khi gắn Fustila mà chưa dùng được mà bệnh nhân cần lọc máu ngay thì bệnh viện sẽ gắn một ống tạm gọi là Catheter, tức là nối hai ống cao su có khoá đậy và gắn tại cổ để nối liền với động mạch từ tim … Cách này cũng được dùng một khi không lấy được máu từ các ống Fustila tại cánh tay .

 

Peritoneal Dialysis ?

Ðây là một phương thức rửa thận, bệnh nhân phải đục một lỗ ở bụng và gắn vào đó một bộ phận để rửa thận … Mỗi ngày , cứ cách nhau 6 tiếng, phải bơm vào trong bụng một dung dịch để rửa thận và lấy chất dơ ra … Ống này được nối làm hai ống nhỏ, một ống để làm thoát các chất nước dơ và một ống để bơm dung dịch rửa thận, trông giống như bịch nước biển …

Cách này có thể làm bất cứ nơi nào, trong phòng làm việc, trong xe hay ở nhà … Muốn đi đâu xa, chỉ cần mang theo các bịch dung dịch đủ dùng …

Khi Bác sĩ Lien hỏi tôi tại sao không chọn phương thức Peritoneal Dialysis này, vừa không phải lệ thuộc với bệnh viện, vừa rẻ tiền thì tôi trả lời, phương thức này khiến cho tôi cảm tưởng như một người tàn phế, suốt ngày làm việc này … tôi là boss của một Công Ty mà lúc nào trong văn phòng cũng đeo bịch nước thì không tốt cho tôi, thà rằng tôi vào bệnh viện 3 lần một tuần , không ai biết … và để trả nợ đời …

Hemodialysis ?

Ðây là một Thận nhân tạo được chế ra với tác dụng là lọc nước và chất dơ dư trong cơ thể con người bệnh .

Mô hình sự chuyển vận của máy lọc máu

Và cuộc đời tôi bắt đầu … khốn nạn với căn bệnh, mỗi tuần 3 ngày hai, tư, sáu, tay cầm cái giỏ đựng mấy miếng trái cây, vài cái bánh, cuốn truyện … lẽo đẽo lên xe bus dành riêng cho người tàn phế, chở đến bệnh viện và đón về … Ôi những ngày tung hoành ngang dọc, nay Âu mai Á… còn đâu nữa, mang tâm trạng tàn phế của một cánh chim bị gãy cánh, đang cố lết về một nơi để tìm chỗ sống cho hết kiếp người, mà tạo hoá đã an bài …

Trước khi vào ghế lọc máu, theo thông lệ, bệnh nhân phải cân, vì khi bị thận hư, việc đi tiểu cũng sẽ bị hạn chế, có người cả tháng không đi tiểu được, chất dơ, sẽ đọng trong máu, nước dơ, sẽ hòa trong máu và làm bệnh nhân sẽ lên cân trông thấy… sự lên cân này, chính là độ nước dơ không thoát ra ngoài và nhờ máy lọc, sẽ rút số lượng nước ra tương đương với trọng lượng của nước dư ra … 

Thí dụ lúc đó, bình thường tôi cân nặng 75 kg và khi đi lọc máu, thì thành 79 kg, nghĩa là có 4 kg nước dư và Y tá sẽ setup máy để rút ra 4 kg nước dơ trong vòng 4 tiếng và sau 4 tiếng lọc, khi cân lại, sẽ chỉ còn khoảng 75 kg đúng với trọng lượng thật của mình .

Những ngày đầu, tôi… ngoan ngoãn “thành thật khai báo”, cho Y tá biết đúng cân lượng của mình … nhưng chính vì sự thật thà đó đã hại tôi vì vào những phút chót của lần lọc máu, đôi khi nước dơ chỉ khoảng 3,9 kg mà Y Tá setup là 4 kg, nên 100 gr nước dơ đó, được rút ra với bao đắng cay … là vì rút quá độ nước trong máu, khiến cho trong máu có những khoảng trống và hậu quả là những cơn vọp bẻ khủng khiếp kéo đến, tôi quặn mình rên la mà Y tá không giúp được gì …

 Với sự hướng dẫn bằng kinh nghiệm đời mà các bệnh nhân khác truyền lại, khuyên tôi nên khai bớt một chút để tránh vọp bẻ và một khi đã bị vọp bẻ thì pha ngay một gói bột chicken broth với nước nóng, uống một ly nhỏ thì cơn vọp bẻ sẽ tan đi … 

Tôi nhớ đời với những cơn quằn quại này … và sợ hãi việc lọc máu như một cơn ác mộng …

Vì bệnh viện không thể cung cấp đủ chỗ cho việc lọc máu nên đã có một chương trình lọc máu tại nhà, và bệnh nhân phải có một người thân phụ giúp và được huấn luyện. Bệnh nhân lọc máu khi họ ngủ, máy sẽ chạy chậm hơn và lâu hơn … Khi được chấp thuận theo chương trình này, sẽ có chuyên viên đến tận nhà để gắn hệ thống điện riêng, gắn ống thoát nước riêng … và căn nhà sẽ được thông báo là … không bao giờ bị cúp điện, cúp nước .

Khi đi lọc máu có phải uống thuốc không ?

Bên cạnh đó vẫn phải dùng thuốc, vì Thận hư, sẽ làm cao máu … thì một viên thuốc cao máu thêm vào … và nếu thiếu calcium thì trước mỗi bữa ăn, phải nhai 2 - 3 viên Tumb, calcium nếu không, cơ thể sẽ hút chất calcium trong xương và tạo bệnh mòn xương … Chưa hết, khi Thận không hoạt động, chất hemoglobin -  hồng huyết cầu bị giảm thì phải chỉnh bằng những mũi chích thuốc Aranesp  mà mỗi mũi chích giá vào khoảng 500$00 . 

Tựu chung, khi đi lọc máu sẽ tốn kém rất nhiều, giá trung bình khoảng 600$00 cho mỗi lần lọc máu, chưa kể tiền thuốc … tính ra khoảng gần 100,000$00 mỗi năm, riêng cho việc lọc máu và khoảng 25,000$00 cho tiền thuốc mà Chính phủ tài trợ … trong khi cá nhân tôi chỉ phải trả có 600$00 tiền bảo hiểm sức khoẻ cho mỗi năm …

Ôi Canada ơi! nền Y tế của Bạn thật tuyệt vời, nếu không … còn gì để sống tiếp nữa …

Trước vấn đề này, Cơ Quan Y Tế Canada đã khuyến cáo là bệnh nhân nên đi thay Thận … và đây là giấc mơ của những người đi lọc máu … Nếu thay Thận, vừa giúp cho bệnh nhân có một cuộc sống bình thường, vừa giúp cho cắt giảm chi phí y tế mỗi năm khoảng 100.000 đô  mà trong khi, chi phí thay Thận, chỉ tốn kém khoảng 75.000 $ cho một lần Thay thận …

Nhưng vấn đề chính là lấy Thận ở đâu để thay … ?

- Chờ Thận người chết …

Những người đi lọc máu, đều được xếp vào một danh sách chờ đợi, khi có người chết mà họ lúc sinh thời, muốn hiến các bộ phận trong cơ thể như tim, gan , phổi, thận lá lách … thì ngay sau khi người đó chết, các bộ phận trên được lấy ra và bỏ vào trong dung dịch cất giữ … một trái Thận cắt ra như vậy, để được 48 giờ … và trong 48 giờ đó, phải đi tìm coi trái thận đó match với ai trong danh sách chờ đợi … Danh sách được xếp theo các loại máu và theo thứ tự thời gian, ai vào danh sách trước, người đó ưu tiên … 

Và người nào được chọn, phải vào ngay bệnh viện để giải phẫu ghép Thận . Thường thường, bệnh viện giấu kín các chi tiết cá nhân về chủ nhân của trái Thận, không cho biết thận đó là của nam hay nữ, sắc dân nào … Riêng tại tỉnh bang BC, danh sách chờ đợi cho việc ghép thận khoảng 500 người  và trung bình chờ đợi từ 8 năm … thì may ra được gọi …

Xin Thận của người sống …

Ðây là hy sinh của một người để cứu mạng một người … và chương trình này gọi là living donor và được Chính phủ khuyến khích … Người cho Thận, dù chỉ còn 1 thận, họ vẫn sống một cuộc sống bình thường …

Sau 2 năm lọc máu, tôi tưởng cuộc đời sẽ tàn theo bóng đêm thì bà Chị thương yêu từ Việt Nam qua thăm, thấy Cậu Em tàn tuỵ đã hy sinh và cho Em một trái thận và cuộc ghép thận thành công …

Thủ tục khá chi tiết, từ lúc bảo lãnh từ Việt Nam sang, thử rất nhiều test để bảo đảm trái Thận thật hạp và tốt thì Bác sĩ  mới nhận, quan trọng nhất là hạp loại máu và các cell … và Bác sĩ  phải bảo đảm về mọi mặt Y khoa để người cho Thận không bị trở ngại về sau … 

Muốn được bảo lãnh từ Việt Nam hay từ bất cứ nước nào sang, việc đầu tiên , người cho phải đi khám tại nơi mình trú ngụ, nhờ Bác sĩ  chuyên khoa về Thận và cho biết ý định của mình, sau khi có kết quả khám Thận, gửi kết quả cho cơ quan phụ trách việc ghép Thận, như tại BC Canada là BC Transplant Society, nơi đây Họ duyệt xét xem kết quả và coi có hạp với người nhận không  một cách tổng quát, nếu hội đủ điều kiện. 

Họ sẽ cấp cho người cho một thư mời qua Canada để khám nghiệm. Họ không tin kết quả khám nghiệm tại Việt nam, mọi chi phí di chuyển, đều do thân nhân chịu, ngoại trừ chi phí khám nghiệm tại Canada .

Sau khi khám xong về mặt Y khoa, người cho Thận phải trải qua hai phần test, một với Bác Sĩ  Tâm lý, Họ muốn chắc rằng, nguyên nhân cho Thận đến từ đâu? Vì tình thương? Vì sự ép buộc? Hay vì mua bán trao đổi … Nếu lý do không rõ ràng, sẽ bị loại ngay … Và còn gặp một chuyên viên xã hội nữa - Social worker) cũng với những câu hỏi … vớ vẩn, Họ muốn biết tâm trạng của người cho Thận là thế nào, hoàn cảnh xã hội ra sao? Tất cả buổi phỏng vấn này đều riêng tư và không có một người thân liên quan tới người nhận hiện diện, để bảo đảm người cho không bị một áp lực nào …

Sau khi thủ tục hoàn tất, việc giải phẫu được sắp xếp cho cả hai, cùng ngày, người cho mổ trước, lấy Thận ra khoảng 3 tiếng và mổ người nhận để ghép Thận vào trong cuộc giải phẫu kéo dài khoảng 6 tiếng .

Trước đây, vết mổ người cho rất lớn, vết mổ dài 26 cm, chỗ ba sườn để cắt thận ra … và phải đánh thuốc mê bằng cách tiêm vào tuỷ sống … nhưng ngày nay, khoa học tiến bộ hơn, chỉ cần đục 3 lỗ nhỏ và rạch một đường nhỏ nơi bụng dưới và cho máy hút trái thận ra … và người cho chỉ nằm bệnh viện 2 ngày , so với 5 ngày như các trước đây, trong khi người nhận phải nằm trong bệnh viện khoảng 7 ngày … ngày đầu tiên, theo dõi rất kỹ, cứ mỗi tiếng lại lấy máu một lần để theo dõi độ creatinine lên xuống như thế nào …

Ghép Thận

Trái Thận mới ghép vào, nằm ở vị trí nào trong cơ thể ?

Xin thưa, vết mổ rất nhẹ, ở cạnh háng và quả Thận mới ghép sẽ nằm giữa Thận cũ và bọng đái - bladder), hai trái Thận cũ vẫn để nguyên, không lấy ra …

Việc ghép Thận xong, không phải là hết … Và cả cuộc đời còn lại, vẫn phải uống thuốc để chống lại sự thải ra của cơ thể. Vì trong cơ thể con người, chất bạch huyết cầu hay chất kháng tố luôn luôn chống lại các vật lạ xâm nhập để bảo vệ cơ thể … Và cơ thể sẽ tìm cách thải trái Thận mới ra, vì nghĩ đây là vật lạ …  Do đó, người được ghép Thận mới suốt đời phải uống các loại anti-reject, mục đích của loại thuốc này  là làm yếu bạch huyết cầu, để bạch huyết cầu không thể đánh phá trái Thận mới ghép … 

Ðôi khi, cơ thể yếu, trái Thận ghép vào có thể bị thải ra … Ngày nay, khoa học đã tiến bộ, có thể dùng thuốc để giữ Thận lại … Có thể nói, việc ghép Thận khó 1 thì việc giữ Thận khó 10 và tốn kém thuốc rất nhiều …

Vị trí trái Thận mới trong cơ thể người nhận

Sau khi ghép Thận, hàng tháng người ghép Thận phải đi thử máu và đến trung tâm y khoa dành riêng cho người ghép Thận để được Bác sĩ theo dõi … và uống thuốc rất nhiều, đặc biệt là các loại thuốc để chống lại sự đào thải của cơ thể .

Thận ghép sẽ giữ được bao nhiêu lâu?

Tuỳ theo từng người, có thể bị reject sau 1 năm, có thể giữ được 20 năm … trung bình 7- 8 năm tuỳ theo người đó bị hư Thận vì lý do gì? Một trong những lý do làm hư Thận là chất kháng tố IGA , tự tiêu huỷ Thận mà đến nay khoa học chưa tìm ra thuốc trị …

Bệnh Hư Thận sẽ đưa ra một phản ứng và sinh ra Bệnh Tiểu Đường thì bệnh thận này không đến nỗi nguy, chứ còn vì Bệnh Tiểu Đường mà làm hư Thận, sẽ đưa đết hậu quả nặng hơn là mù mắt …

Trái thận mà tôi ghép cách đây 8 năm lại hư … chất creatinin lại cao rồi … bây giờ lại quay lại con đường cũ  và bắt đầu lại từ đầu … Ôi! cái hạn của tôi sao cứ kéo dài … có lẽ sao bệnh tật năm nay chiếu cung Mệnh chăng? ? ?

Để kết  

Tôi viết bài này trong những ngày chuẩn bị thay Thận lần thứ hai trong đời … có người bảo là số tôi hên, tìm được Thận để thay … nhưng tại sao hên mà lại bị … hư Thận. Tôi hên? ? Xin thưa là không ! Nhưng đây chỉ là tình thương mà giữa loài người thương loài người. Nhiều khi người Việt chúng ta không hiểu được là cơ thể chỉ cần 1 trái Thận cũng sống còn. Bà Chị Tôi cho tôi trái thận khi 60 tuổi, 15 năm trôi qua, dù ở Việt Nam, nhưng cơ quan Y Tế Canada vẫn gửi giấy đi khám Thận hàng năm để theo dõi và bảo đảm người cho Thận không bị ảnh hưởng …

Viết bài này, trong cái nhìn của một bệnh nhân, tôi mong mỏi đem lại cho Quý Độc Giả của một cái nhìn rõ hơn về những việc lọc máu, ghép Thận  cho Thận để Quý Vị hiểu và thông cảm cho những bệnh nhân về Thận, để hiều rằng việc cho một trái Thận của mình cho một người thân  hay một người chưa quen để cứu giúp họ thoát qua một căn bệnh hiểm nghèo là điều Y Khoa bảo đảm không ảnh hưởng đến sức khoẻ của Quý Vị .

Thận hư, phải đi lọc máu … bệnh nhân vẫn sống còn … nhưng với thời gian sẽ không thoát khỏi số mạng .

Xin hãy mở rộng tình thương nhân loại để cho người Thân, Bạn bè hay cả người chưa quen … món quà cho sự sống .

 

Vũ Minh Ngọc 

Posted by GLN

Mảnh Vụn - Vĩnh Quyền


Đang đọc lại “Mảnh vỡ của mảnh vỡ”, cho lần tái bản tới. Tiểu thuyết này viết từ điểm nhìn “thế hệ mất mát” (chữ nhà văn Hemingway). Họ, thanh niên trí thức đô thị miền Nam, sống sót qua cuộc chiến, rồi nhặt nhạnh “mảnh vỡ” thanh xuân, chập chững trên những nẻo đường gập ghềnh, phác thảo chân dung bản thân trong vận nước thời bình. Khi đọc, tôi thấy mình đã dừng lâu bất thường ở những “nhân vật thoáng qua” của tiểu thuyết, những con người âm thầm luân lạc bên lề lịch sử. Và, tôi muốn chia sẻ những “mảnh vụn” ấy.

****

[ Đường phố một sớm mai ]

“Chiếc jeep quân đội Mỹ với hình sao trắng trên mui chạy chầm chậm qua những đường phố chính trong nắng mai nhạt chưa đủ sưởi ấm khí lạnh đêm qua còn vướng vất trên mặt đất. Kính xe còn nguyên vết đạn lỗ chỗ như bản vẽ chòm sao mới phát hiện nhưng người ngược xuôi trên đường không bận tâm câu hỏi ngày thường là liệu có ai bị thương bị chết vì loạt đạn đó không. Chết không còn là chuyện ghê gớm. Trên gương mặt người đầy chật cảm xúc. Với người này là giấc mơ hào hùng bừng hiện, với người kia là thảm họa đổ ập xuống đầu, đè lên ngực chỉ sau một đêm. Hai nhóm này phân lập hai cực của số phận, trong khi hàng chục triệu người khác lừng khừng đâu đó ở giữa, không chắc chắn chi ngày mai. (tr. 9)

****
[Đêm trước hòa bình]

“Cuối tháng ba năm bảy lăm, bệnh viện quân y của tôi phục vụ quá tải. Suốt ngày đêm chúng tôi tiếp nhận thương binh chuyển về từ các mặt trận vùng ven. Gần một phần ba đã chết trên đường di chuyển. Nhà xác bệnh viện không đủ cho tất cả, “ai” đến sau phải xếp trên hành lang. Chẳng mấy chốc mọi người không còn thấy buồn nôn hay khó thở bởi máu rỉ từ xác chết, đọng thành vũng tanh tưởi.

Ngày trước ngày thành phố thất thủ, giám đốc bệnh viện ra thông báo kêu gọi thân nhân tử sĩ đến nhận xác đưa về chôn cất, việc chưa từng có. Ông biết xe tăng Bắc Việt có thể xuất hiện bất cứ lúc nào ở cửa ngõ thành phố, không còn thời gian cho thủ tục hành chính hay nghi thức truyền thống.
Những người vợ, những bà mẹ lính nghe được thông báo trên sóng phát thanh, truyền hình hoặc tin đồn liền đổ đến. Người tìm thấy xác chồng xác con, khóc than ký nhận đưa về. Người không tìm thấy xác, khóc trong hy vọng mong manh. Lính bị thương nhìn cảnh tượng chung quanh, khóc theo. Hỗn loạn và tang tóc. Mải đến chín giờ tối, bệnh viện mới trở lại yên ắng.

Đêm đó tôi trực nhà xác, từ mười giờ đến hai giờ sáng. Rốc-két rít ngang đầu. Tiếng nổ giòn dễ nhận của tiểu liên AK-47 cũng đã văng vẳng. Vậy mà tôi không mở mắt nổi, cứ chực ngủ gật. Gần một tuần liên tục phẫu thuật tôi hoàn toàn kiệt sức, không nhớ mình đã ăn lúc nào, ngủ lúc nào.

Thế rồi tôi bị kéo khỏi cơn ngủ gật bởi một tiếng thở dài. Hình như nó phát ra từ góc xa của nhà xác. Tôi cố mở to hai mắt nặng như chì nhìn về hướng đó, nhưng chỉ thấy những xác chết chưa được thân nhân nhận về nằm dưới khăn liệm ố vàng. Đến lượt tôi thở dài, như vừa nuốt trôi cục nghẹn trong cổ.
Sau đó cơn buồn ngủ mất hẳn, tôi nhặt tờ báo ai bỏ lại trên bàn trực, đọc vu vơ tin này tin khác chỉ để giết thời gian. Tin chiến sự vừa lên báo đã lạc hậu so với diễn biến thực tế. Nhưng tôi vẫn đọc, kiên nhẫn chờ ngày mới đang đến gần. Đêm thật dài nếu phải ngồi canh những xác chết còn rỉ máu. Tôi tự hỏi tại sao mình chờ ngày mai khi mọi chuyện đã quá rõ. Có lẽ tôi tin điều tệ hại nhất chưa xảy ra.

Tiếng thở dài lại vẳng vào tai tôi, lần này rõ hơn, và không thể là nghe nhầm. Tôi rời mắt khỏi tờ báo, nhìn về góc xa của nhà xác, nơi phát ra âm thanh.
Một xác chết đội khăn liệm đang từ từ ngồi dậy.
Tôi dụi mắt, hy vọng thứ quỷ quái đó chỉ là ảo ảnh, là hậu quả của những đêm thức trắng bên bàn mổ. Nhưng không có gì phủ nhận được sự thực là trước mắt tôi xác chết đã đứng lên. Vẫn trùm khăn liệm, hắn cất những bước chậm, nặng nhọc và liêu xiêu đi về phía tôi.
Tôi đứng lên, bước lùi ra phía cửa, tay đặt lên súng ngắn đeo bên hông. Lúc ấy tôi nhận ra mình không còn đủ khí lực để rút súng khỏi bao. Hai chân tôi bắt đầu run, hầu như không đỡ nổi sức nặng của tôi nữa. Nỗi khiếp sợ đã hoàn toàn đánh sập ý chí của tôi.
“Quỷ nhập tràng! Quỷ nhập tràng!”

Tôi bất ngờ bật lên được tiếng kêu báo động. Sự kết nối thành công với thế giới người sống giúp tôi hồi phục phần nào sinh lực. Tôi quay người lao ra cửa, chạy vào sân lớn của bệnh viện. Hắn lập tức đuổi theo, cho đến khi tôi trượt té nằm chỏng gọng trên sân thì hắn dừng lại.
“Cứu! Cứu tôi với!”
Tiếng kêu đánh thức cả bệnh viện. Đèn ngoài sân, trong phòng liên tiếp bật sáng và có vài người chạy về phía tôi.
“Ôi trời đất! Quỷ nhập tràng!”
Ai đó kêu lên khi trông thấy hắn khiến những người khác dừng lại. Thay vì đến cứu tôi, cả bọn vội tháo lui.
“Quỷ nhập tràng!”
“Quỷ nhập tràng tấn công!”

Tất tật, từ bác sĩ đến thương binh, người trông thấy quỷ cũng như người chẳng thấy gì chạy tán loạn, thậm chí người bị cưa chân cũng lết tìm chỗ trốn.
Tiếng người la hét cuống cuồng, tiếng sập cửa phòng rầm rầm bỗng như một đòn giáng mạnh vào đầu tôi, kéo tôi khỏi trạng thái khiếp nhược. Cuối cùng tôi cũng rút được súng khỏi bao, lần đầu tiên trong đời, giương thẳng vào đầu con quỷ cách tôi vài bước chân. Trước khoảnh khắc tôi quyết định bóp cò, một cơn gió mồ côi cuốn tấm khăn liệm bốc lên, phơi lộ một thiếu phụ trẻ đứng ngơ ngác trên mặt đất với mái tóc rối bù. Tôi nhận ra đó là vợ của một người lính tử trận.

Về sau, tôi có thêm thông tin về người đàn bà bất hạnh. Trước khi có thông báo của bệnh viện, nhà chị đã thành tro trong một trận pháo kích. Điều duy nhất chị có thể làm là trốn dưới khăn liệm để được ôm ấp chồng đêm cuối trên dương thế…” (tr. 216-219)

Căn cứ Khe Sanh

[Cam và Quýt, của mẹ cả]

“Làng quê tôi nằm trong vùng chuyên canh cam và quýt. Dân làng có cái ăn cái mặc, con cái được học hành đều trông vào hai loại cây này. Từ chỗ dân làng biết ơn cây, bọn trẻ chúng tôi nhiều đứa trùng tên, Cam-Cam, Quýt-Quýt. Nhà tôi hai con trai, tôi là Cam, em tôi là Quýt.

Từ năm sáu lăm máy bay Mỹ bắt đầu rải chất độc khai quang vùng quê tôi, những vườn cây mất mùa liên tiếp, cả làng lâm cảnh nghèo đói. Hơn nửa trẻ con phải nghỉ học. Phần tôi gặp may. Chú ruột tôi, một trung sĩ quân đội Sài Gòn, đưa tôi vào Huế nuôi ăn học.

Hai năm sau, chú chết trận Mậu Thân. Lúc đó làng tôi đã thuộc quyền kiểm soát của "Mặt trận", còn tôi học năm cuối trung học. Tôi không muốn quay về nhà trước khi thi tú tài, nhưng ở lại Huế thì biết nương tựa vào ai.

Trong rủi có may, một sĩ quan chỉ huy của chú tôi trước đó giúp tôi bằng cách thuê làm gia sư. Nhờ vậy, tôi có thể tiếp tục việc học và thi đỗ. Gần như ngay sau đó tôi bị động viên, đeo lon chuẩn úy, rồi được điều đến một tiểu đoàn đóng ở nam Quảng Trị.

Thời gian đó quân đội Sài Gòn đã chiếm lại khu vực có làng tôi, nhưng chỉ kiểm soát được vào ban ngày. Dầu sao, tôi đã có thể về nhà vào ngày giỗ cha. Những lần như thế, tôi thường đưa vài chiến hữu cùng về, trên một chiếc jeep súng ống sẵn sàng.

Lần nào cũng vậy, mẹ tôi chia con gà cúng làm đôi, một nửa dọn riêng cho bàn bọn tôi. Gà cúng là con được chọn kỹ, thơm ngon nhất trong số gà phục vụ đám giỗ. Vì vậy, có lần mấy người bạn sau khi nếm thử gà "loại hai" nói muốn ăn nốt nửa con gà cúng mẹ tôi để dành trên bàn thờ. Tôi nhìn đồng hồ nói muộn rồi, bọn mình phải về đơn vị trước khi Việt Cộng xuất hiện, tới chợ Đông Hà muốn nhậu gà ngon mấy con tôi cũng ô-kê.

Thật ra tôi không thể nói toạc rằng nửa con gà cúng kia là phần của em tôi, thằng Quýt, chỉ huy du kích xã, và tôi luôn tôn trọng luật không thành văn của mẹ. Đó là một bí mật, nó có thể hủy hoại tương lai tôi. Trong hồ sơ cá nhân, tôi khai Quýt chết hồi mười ba tuổi bởi bệnh đậu mùa.
Mẹ tôi ngày nào cũng thắp hương bàn thờ cha tôi, lâm râm khấn cầu ông phù hộ cho thằng Cam được bình an vô sự, xong, cầu ông phù hộ cho thằng Quýt cũng bình an vô sự. Một lần tôi đùa "mẹ ơi, đừng đặt cha tụi con vô thế khó xử".

Rồi một năm tôi về làng giỗ cha, vẫn với chiến hữu tháp tùng yểm trợ. Mẹ tôi dọn cho bọn tôi nguyên con gà cúng. Tôi bật khóc, biết em mình bị giết. Nhưng tôi phải lu loa trước mọi người là tự nhiên nhớ ông già. Sau đó tôi gặp riêng mẹ.
“Lúc nào?”
“Đêm qua.”
“Xác đâu?”

Mẹ tôi đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Tôi nhìn theo. Vườn nhà tôi vẫn còn là bãi tha ma của loài cây cam-quýt chết trắng, nhưng lúc đó tôi bất ngờ bắt gặp một cây quýt non chưa kịp bén đất mới, cành lá rũ mềm.
Mẹ tôi thì thầm: “Mẹ lén chôn em con trong vườn, không dám đắp mộ. Nó là thằng Quýt, thì trồng cây quýt lên chỗ nó nằm làm dấu.”
Sau cái chép miệng, mẹ tôi tiếp: “Đang lo không biết sau chừng đó năm thuốc khai quang có còn làm chết cây không nữa…”

Rồi mẹ tôi im lặng, mắt không rời cây quýt.
Tôi đau đớn nhìn vai mẹ rung nhẹ. Đó là lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là khóc trong lòng.
Mẹ tôi không bao giờ biết Quýt rồi sẽ được truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang và hài cốt của nó được quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ của xã sau năm bảy lăm, bà đã mất trước đó.

Khi bốc hài cốt em tôi ở vườn nhà, dân quân xã đào bật gốc quýt. Sau năm năm ở trại học tập dành cho sĩ quan chế độ cũ, tôi về thấy gốc quýt dẫu nằm nghiêng sát mặt đất vẫn sống như một phép mầu. Nghĩ đó là một phần máu thịt của đứa em, tôi đưa về đây, tạo dáng bon-sai để được gần gũi, chăm sóc. Hai mươi năm rồi đó…” (tr. 210-215)

****
[Giọng Bắc giọng Nam]

“Mình trở về Quảng Trị giữa mùa khô. Nó làm mình nhớ mùa khô năm bảy hai, thời điểm quân đội Sài Gòn bị đánh bật khỏi thành cổ Quảng Trị. Hôm ngồi trên xe đoàn MIA chạy qua cầu Mỹ Chánh đi Khe Sanh, mình bồi hồi nghĩ về ba, một thượng sĩ già liều mạng dưới hai làn đạn chạy về nhà gần cầu, đưa vợ con tản cư vào Huế, nơi mình đang theo học đại học, rồi quày quả trở lại cùng đơn vị. Thật khó tả tâm trạng khi đi trên cây cầu tuổi thơ mà nhiều năm rồi mình không dám tin sẽ có ngày trở lại.

Khi còn sống ba mình thường bảo đã làm người thì phải cố quên đi một vài góc tối trong ký ức để tiếp tục sống. Mình đã làm như vậy, nhưng rồi nghiệm ra con người không thể kiểm soát được ký ức, còn quá khứ thì không hoàn toàn mất đi mà có thể hồi sinh vào lúc bất ngờ nhất. Ký ức chiến tranh cũng vậy. Những người sống sót qua cuộc chiến thường trào nước mắt mỗi khi nhớ nghĩ về quá khứ. Lần đầu nhìn thấy cầu Mỹ Chánh sau chừng ấy năm và sau bao vần xoay con tạo nước mắt mình đã chảy.

Đó là nước mắt thật sự. Nói vậy vì mình đã hỏng mắt trái trong một tai nạn giao thông bên Mỹ, từ đó, mỗi sáng tối nước mắt mình lại chảy khi mang vào tháo ra con mắt giả. Nhưng mình không gọi đó là nước mắt, bởi nó không chảy ra từ hạnh phúc hay khổ đau. Còn lúc gặp lại cây cầu gần mái nhà xưa, dù nay không còn dấu vết, thì nước mắt mình là một hỗn hợp cảm xúc của niềm vui lẫn cay đắng. Như mạch mồi mùa khô hạn, nước mắt mình ráo nhanh đến mức khó tin là nó đã chảy ra. 

Cầu Mỹ Chánh

Hôm sau, khi kết thúc phiên trực, mình đi bộ từ điểm khai quật tìm hài cốt ra Đường Chín, nơi có thể đón xe xuống Đông Hà uống bia lạnh và vui vẻ với mấy em. Trước chuyến đi mình không thể hình dung có gái mại dâm hoạt động gần như công khai trong một thị xã bé nhỏ tại một đất nước xã hội chủ nghĩa như nước mình.

Đứng chờ đến lúc mặt trời sắp lặn vẫn không đón được xe, mình đành bước vào cái quán lụp xụp bên kia đường.
Khi vào, mình thấy ba người đàn bà đang ngồi dưới mái hiên. Mình đoán người lớn tuổi nhất, khoảng năm mươi, là chủ quán vì chị này đặc sệt giọng Quảng Trị mình. Hai người còn lại, chừng ngoài ba mươi, trông còn duyên lắm, và ra vẻ thị dân. Mình đoán hẳn họ là khách qua đường. Rồi nghe họ nói, mình biết một người từ ngoài Bắc vào, còn người kia trong Nam ra. Nhưng mình không thể nghĩ được điều gì đã đưa họ đến nơi heo hút này, ngồi nói cười bên nhau.

Trong khi đó ba người đàn bà không giấu được ngạc nhiên khi mình xuất hiện, như thể cái quán không dành cho loại khách như mình. Tuy nhiên, mình đã được phục vụ theo một cách không nhà hàng nào trên thế giới có được: cả ba chị đàn bà xúm lại, người quạt lò, người nướng khô mực, người lấy bia bỏ đá lạnh cho khách.

Xong việc, họ lại ngồi bên nhau trên chỏng tre phía trong, nhường cái bàn duy nhất dưới mái hiên cho mình. Quay lưng về họ, mình ngắm phong cảnh bên ngoài và thưởng thức bia. Dẫu không cố tình dõi theo, chuyện của họ cứ lọt vào tai, nhập vào mình, và mình dần dần biết được đôi phần về họ.

Mười năm trước, hai người đàn bà mà mình đoán là khách vãng lai, một từ thị xã Thái Bình một từ thành phố Cần Thơ, tình cờ gặp nhau ở Ga Quảng Trị. Cả hai đều trên đường tìm kiếm hài cốt thất lạc của chồng, hai người lính tử trận tại chiến trường Quảng Trị năm bảy hai. Một người là bộ đội miền Bắc và một người là lính miền Nam, cả hai nằm lại đâu đó trên Đường Chín. Sau những lần tình cờ gặp nhau, hai góa phụ thành hai người bạn, họ có chung nỗi đau quá khứ cũng như chung mục đích khi đến chiến trường xưa Quảng Trị. Họ rủ nhau trọ ở quán này vào mỗi mùa khô, mùa họ dành cho việc tìm hài cốt chồng.

Mình bỗng giật mình bởi tình huống mới trong câu chuyện.
Người đàn bà giọng Bắc buồn bã nói từ năm sau cô không thể tiếp tục vào Quảng Trị. Kinh tế gia đình mỗi năm mỗi sa sút, cô phải chắt chiu từng đồng cho con vào đại học. Hơn nữa, sau chừng ấy năm tìm kiếm cô gần như mất hết hy vọng. Chính quyền địa phương đã giúp đỡ nhưng không kết quả.

Tình cảnh người đàn bà giọng Nam phức tạp hơn. Trên đất nước này chẳng có tổ chức nào lưu giữ thông tin tử sĩ của quân đội Sài Gòn, như trường hợp chồng cô. Và người chồng sắp cưới đang sống bên Mỹ vừa hoàn tất thủ tục định cư cho cô, nên không biết khi nào cô mới có thể quay về đây tiếp tục tìm kiếm hài cốt người xưa. 

Người đàn bà giọng Nam đột ngột cắt đứt câu chuyện vào hồi bế tắc, nói với người đàn bà giọng Bắc:
“Chị ơi, lấy chồng đi.”
“Ôi dào, quá lứa làm chuyện đó rồi.”
“Để xem... Ôi, săng dầy vầy thiếu gì đàn ông mê!”
“Nhột, bỏ tay ra nào!”
Người đàn bà giọng Bắc cười nắc nẻ.

Bà chủ quán cười theo nhưng nhắc:
“Hai đứa bây, có đàn ông đàn ang trước mặt tề, dị òm!”
Ba người đàn bà ôm nhau cười rúc rích sau lưng mình. Tiếng cười phá vỡ tĩnh lặng hoàng hôn Đường Chín, nhưng nghe ra không hẳn là vui.
“Tao đi nấu cơm.”
Chủ quán bảo. Mình nghe tiếng bước chân bà đi xuống bếp, chỉ lát sau đã tất tả quay lên.
“Coi nè, hai đứa bây!

Mình bất giác quay lại. Trên tay chủ quán là mẩu báo cũ dùng gói hàng, nhưng giọng bà phấn khích lạ:
“Đọc đi, có tin cho hai đứa bây đó!”
Người đàn bà giọng Bắc đón mẩu báo và đọc lên, những người còn lại lắng nghe, cả người ngoài cuộc là mình.
Bản tin viết về một nhà ngoại cảm ở Quảng Nam có khả năng tìm được hài cốt thất lạc dưới mặt đất, và đã thành công với một số trường hợp liệt sĩ cũng như nạn nhân chiến tranh.

Mọi người lặng đi chốc lát.
Mình xúc động kỳ lạ bởi bản tin đang nhen lại hy vọng cho hai góa phụ. Trong khoảnh khắc ấy mình hoàn toàn quên mất mình là một kỹ thuật viên đoàn MIA đang tìm hài cốt lính Mỹ bằng thiết bị điện tử hiện đại. Chủ quán gợi ý:
“Hay hai đứa bây thử một phen cuối?”
Im lặng kéo dài trong quán nhỏ.
Mình cũng nín thở chờ câu trả lời.

Rồi người đàn bà giọng Bắc lên tiếng trước, câu trả lời kèm nấc nghẹn gần như không nghe được, nhưng ai cũng hiểu.
“Dạ có…”
Người đàn bà giọng Nam tiếp lời:
“Em cũng vậy.”
Hai góa phụ ôm lấy nhau, nương vào nhau mà khóc.
Mình không phân biệt được đâu là giọng Bắc, đâu là giọng Nam trong tiếng khóc của họ.
Bà chủ an ủi và giục:
“Hai đứa đừng khóc nữa, đi thắp hương rồi về ăn cơm.”
Hai người ngoan ngoãn nghe lời. Khi đi lướt qua chỗ mình ngồi, họ để vương mùi thơm của hương trầm và của đàn bà.

Chủ quán chia sẻ với mình:
“Chưa biết hài cốt chồng nằm đâu, hai đứa cứ thắp hương dọc Đường Chín, là nơi nghe tin chồng lần cuối. Tội nghiệp…”
Điều hiếm hoi xảy ra với mình lúc đó. Nước mắt mình ứa lần thứ hai trong ngày. Và mình có thể nói chắc, rằng mình chảy nước mắt không vì khói hương…” (tr.226-232)

VĨNH QUYỀN

Niệm Khúc - Đỗ Công Luận

Người Được Dạy Tử Tế, Nhìn Là Biết

 

Không phải ai học giỏi cũng là người có giáo dục. 

Không phải cứ giàu có, thành đạt là sống đàng hoàng. 

Người được dạy tử tế không phải ở cái miệng hay nói đạo lý, mà nằm trong từng cách họ cư xử mỗi ngày.

Và thật ra, nhìn một người có được dạy tử tế hay không, chỉ cần quan sát vài điều sau.


1. Gặp chuyện không vừa ý, họ vẫn không làm người khác tổn thương

Ai cũng có lúc tức giận. Nhưng người được dạy đàng hoàng sẽ không trút giận lên người khác, không mắng nhân viên, không đổ lỗi lung tung.

Họ chọn cách giải quyết trong im lặng, nói chuyện đàng hoàng, giữ cho người khác thể diện. 

Họ không cần phải hơn trong lời nói. Họ chỉ cần không khiến ai phải đau vì mình


2. Họ biết tự làm, không ỷ lại

Người được dạy tử tế không chờ ai sai bảo mới làm. Họ biết rửa bát, biết thu dọn, biết lau cái bàn dính bẩn mà không phải trách: “Cái này của ai?” 

Lớn lên trong một mái nhà dạy điều hay lẽ phải, họ hiểu rõ: sống đâu phải để người khác phục vụ mình mãi. 

Một người biết dọn nhà, biết cất chăn gối sau khi ngủ dậy – cũng thường là người biết dọn dẹp cuộc sống của mình cho gọn gàng, tử tế.


3. Không lên giọng với ai – cả khi có quyền 

Người tử tế không cần chứng minh mình là ai.

Càng có địa vị, họ càng khiêm nhường. Gặp người yếu thế hơn, họ không nói kiểu dạy đời. Với người lớn tuổi, họ vẫn lễ phép.

Đi làm, không chèn ép cấp dưới. Đi mua hàng, không xem thường người bán. Gặp nhân viên bảo vệ, họ vẫn cúi đầu chào.

Vì họ được dạy rằng: không có ai nhỏ đến mức đáng bị khinh.


4. Họ biết ơn và nhớ ơn

Người sống tử tế không quên người đã giúp mình lúc khó. Không quay lưng khi đã khá hơn. Không lên tiếng chối bỏ quá khứ.

Họ không nói “tôi tự cố gắng nên mới được như hôm nay” – vì họ biết, một chén cơm ăn nhờ ngày xưa cũng là cái ơn phải nhớ.

Biết ơn là nền móng của đạo đức. Người vô ơn, sớm muộn gì cũng tự phá mình.


5. Ở cạnh họ – thấy nhẹ lòng 

Người sống tử tế không khiến người khác mệt. Họ không lên mặt, không chen ngang, không soi mói, không làm bạn phải phòng bị. 

Nói chuyện với họ thấy dễ thở. Nhờ họ giúp việc gì thấy yên tâm. Không gặp thường xuyên, nhưng nghĩ đến là thấy quý. 

Vì họ sống không bon chen. Không làm người khác khó chịu. Không cố gắng chứng minh điều gì. 

Họ hiện diện, là một sự bình yên. 

Người học cao, chưa chắc đã sống có giáo dục. Nhưng người sống tử tế chắc chắn đã từng được dạy bằng yêu thương. 

Không cần đạo lý cao siêu. Chỉ cần dạy một đứa trẻ biết tự gấp mền, biết nói cảm ơn, biết xin lỗi khi sai – là đủ để lớn lên thành một người không làm ai phải khổ.


Xã hội này không thiếu người giỏi. Chỉ thiếu những người biết sống sao cho người khác thấy ấm lòng.

 

Cre: Hoàng Nguyên Vũ 

( lượm trên FB.TN

Cuồng Phong Bão Tố

 


Mời click vào ô vuông bên góc phải để mở lớn màn hình.

Sunday, November 2, 2025

Nghề Bẻ Cổ Thiên Hạ - Đào Văn Bình


 

Đại Quan họ Đỗ, quê cha đất tổ ở Huyện Nho Quan, Tỉnh Ninh Bình, một vùng núi non hùng vĩ, sơn thủy hữu tình nhưng nghèo. Ninh Bình là vùng đất hẹp, người đông cho nên đất đai quý hơn vàng. Tổ tiên bao đời sống bằng nghề nông, đổ mồ hôi nước mắt trên vài mẫu ruộng, sống chết với ruộng đồng nhưng cuộc đời vẫn không khá. Đấy là nói về hàng trung nông, còn bần nông thì đời sống còn cơ cực gấp bội; Đã thế lại còn sai dịch, sưu thuế, đóng góp với làng nước nữa. Chỉ có tầng lớp quan lại là giàu sang, phú quý. Các quan bóc lột, bẻ đầu bẻ cổ dân ghê quá. Tới cụ cố tổ đời thứ tư, nhân có Cụ Tả Ao là bậc thánh tổ địa lý, có thể cải số Trời cho nên mới nảy ra ý định thỉnh cụ về nhà để nhờ cụ để mồ để mả cho, may đâu con cháu sau này sẽ khấm khá hơn.

 Ba tháng trời sống cung phụng  “cơm gà, cá gỡ”, Cụ Tả Ao sáng xách gậy trúc đi thăm thú khắp vùng để “tầm long, tróc mạch”, chiều tối mới về. Một ngày kia cụ ngồi giữa phòng khách, nghiêm trang hỏi gia chủ:

- Thế ông bà muốn cái gì?”

Ông bà cố tổ chắp tay, khép nép đứng bên cạnh, trong thâm tâm thì muốn nói xin cụ để mồ để mả cho con cháu sau này làm quan, nhưng nói ra thì sỗ sàng quá cho nên bẽn lẽn thưa:

- Xin cụ để sao cho con cháu sau này có thể bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ.

 Dường như hiểu thâm ý chủ nhà và cũng là để đền ơn, Cụ Tả Ao nói:

- Tôi đã tìm được một mảnh đất tốt, con cháu sau này sẽ bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ, tuy nhiên...

 Tới đây cụ dừng lại rồi nói tiếp, “Phúc phần đều do Trời định, kết phát hay không còn tùy thuộc vào âm phần phước trạch nữa.”

Nghe nói thế ông bà cố tổ mừng quá, run run nói: 

- Cảm ơn cụ. Thật phúc đức quá. Cụ dạy thế nào thì chúng con theo vậy.

Sau khi chọn được ngày giờ tốt, ngôi mộ của cụ cố tổ đời thứ năm, tức là thân phụ của ông tổ đời thứ tư được bốc lên rồi cải táng trên một gò đất cao, hai bên có hai hàng cây chạy dài xuống mà Cụ Tả Ao nói rằng đó là Tả Phù, Hữu Bật khiến nghề nghiệp của cháu con sau này rất bền vững cho dù thời thế có đổi thay thế nào đi nữa.

Cải táng xong và tin tưởng vào tài năng xoay chuyển quyền Tạo Hóa của Cụ Tả Ao, trong lòng đầy phấn chấn, ông bà cố tổ cho bán bớt đi hai sào ruộng để cho cậu con trai theo học một cụ Cử nổi tiếng hay chữ ở Nam Định với hy vọng con mình đỗ đạt ra làm quan. Thế nhưng sau sáu năm dùi mài kinh sử, hai lần thi Hương không đậu, ông con phẫn chí trở về quê ngậm ngùi nối nghiệp cha ông khi cụ cố tổ qua đời.

Cụ cố tổ đời thứ ba mà Đại Quan gọi là cụ, lớn lên trong một giai đọan mà đất nước đầy biến động...từ việc Vua Gia Long dẹp yên nhà Tây Sơn rồi tới Quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất cho nên bút nghiên, thi cử là điều không tưởng. Khi ông tổ đời thứ hai mà Đại Quan gọi là ông nội ra đời thì Thực Dân Pháp đã áp đặt được một nền cai trị vững vàng trên đất nước An Nam. Muốn ra làm quan lúc bấy giờ phải học Trường Hậu Bổ hoặc Trường Thông Ngôn. Nhiều nhân vật tốt nghiệp Trường Thông Ngôn đã trở thành Phụ Chính Đại Thần hoặc Thượng Thư cũng chỉ nhờ khả năng thông dịch tiếng Pháp cho quan lại Thực Dân. Cụ cũng muốn cho con lên Hà Nội theo học trường này, vì một khi tốt nghiệp, dù học thức chỉ là một anh thông dịch viên tầm thường nhưng chuyện làm quan Tổng Đốc là chuyện dễ dàng khi được quan Tây cất nhắc. Khi đó thì tha hồ bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ. Thế nhưng muốn được tuyển vào học phải có sự tín cẩn và giới thiệu của các quan Thực Dân hoặc quan lại An Nam thân Tây cho nên cụ đành bỏ cuộc.

Ông nội của Đại Quan sinh được hai người con trai. Người con đầu lòng chính là thân phụ của Đại Quan, ở lại làng quê để nối nghiệp tổ tiên. Theo đuổi giấc mơ con cháu làm nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” cho nên ông đã cho người con thứ- tức chú của Đại Quan lên Hà Nội để theo đuổi việc bút nghiên vì ông này lúc bé rất thông minh. Thế nhưng dù cố gắng hết mình, ông chú cũng chỉ đậu nổi bằng Thành Chung rồi làm thư ký cho một hãng buôn mà thôi. Nghe bố kể lại chuyện để mồ để mả năm xưa, khi Đại Quan chào đời, ông thân sinh ra Đại Quan vừa tức, vừa cay cú cho nên nhất quyết đặt cho đứa con trai một cái tên để thể hiện giấc mơ của giòng họ. Mới đầu ông định chọn cái tên Đỗ Quan Lớn nhưng sợ làng xóm chê cười - nghèo mà ham, cho nên đổi thành Đỗ Đại Quan. Đại Quan cũng là Quan Lớn, nhưng nho nhã và kín đáo hơn. Như vậy cái tên Đại Quan là cả một giấc mơ mà giòng họ đã ấp ủ bao đời nay.

Khi Đỗ Đại Quan được ba tuổi thì Đệ Nhị Thế Chiến nổ ra, rồi Nhật chiếm Đông Dương, rồi Nhật đầu hàng, rồi Việt Minh cướp chính quyền, quân Lư Hán tràn vào, rồi Pháp trở lại. Việt Nam giống như một thân thể bầm nát bị đủ thứ loại ngoại bang giày xéo. Trong bối cảnh đất nước tràn đầy binh đao, khói lửa, đói kém, đủ thứ quan quyền đè đầu và bóc lột người dân thì một thị trấn nhỏ như Nho Quan, trẻ con được ê a hai chữ i, tờ đã là khá lắm rồi.

Vào năm 1953 chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh trở nên khốc liệt. Nho Quan là vùng trái độn. Nếu Pháp bình định được Nho Quan thì Liên Khu Tư của Việt Minh lâm nguy. Ngược lại nếu mất Nho Quan thì Pháp không sao giữ được Ninh Bình. Khi Ninh Bình không giữ được thì Nam Định sẽ rơi vào tay Việt Minh và cả vùng đồng bằng Bắc Bộ sẽ mất. Chính vì thế mà Pháp quyết đánh chiếm Nho Quan còn Việt Minh thì quyết tử thủ tại Nho Quan. Do đó có thể nói Nho Quan là nơi hứng chịu nhiều bom đạn nhất trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh. Người dân ở đây một cổ hai tròng. Thanh niên lớn lên nếu không theo Việt Minh thì cũng bị Pháp bố ráp để bắt lính. Trong một gia đình, có khi người anh đi bộ đội trong khi người em lại đi lính cho Pháp và cũng là lúc Đại Quan mười bảy tuổi. Trước tình thế nguy ngập đó, ông cụ thân sinh không còn cách nào khác là cho Đại Quan lên tá túc tại nhà người em ở Hà Nội.

Nhận nuôi Đại Quan, ông chú không biết tính sao khi nhìn cháu mình đã lớn mà không nghề nghiệp, không chữ nghĩa giữa tình thế khó khăn của Hà Nội trong thời chinh chiến. Hơn thế nữa cũng không thể để Đại Quan lêu nghêu mãi. Một ngày kia ông nghiêm trang nói với Đại Quan:

-Không phải chú thím không thương cháu nhưng cháu đã lớn tuổi. Một là đi học, hai là đi làm. Đi học thì trễ quá. Làm sao cháu có thể vào trung học trong khi chưa xong bậc tiểu học? Vả lại cháu cũng không thể sống không nghề nghiệp như thế này và có thể bị Tây bắt lính bất cứ lúc nào.

Ông chú dừng lại rồi sau giây phút trầm ngâm, ông  nói tiếp:

-Chú khuyên cháu là nên đi làm. Chú có quen biết một ông chủ hiệu hớt tóc. Cháu có thể học nghề tại đó một thời gian rồi sau này chú sẽ tính kế khác.

Là một câu trai quê mới lớn, ngơ ngác giữa lòng đô thị, lại mang thân phận ăn nhờ ở đậu, Đại Quan không còn lựa chọn nào khác hơn là nghe lời ông chú. Vả lại học nghề hớt tóc cũng có cái lạ, ít ra là bớt khổ cực hơn những ngày cày sâu cuốc bẫm ở làng quê.

 Sau hai tuần lễ học cầm tông-đơ, dao, kéo tương đối đã thành thạo, ông chú bỏ tiền mua cho Đại Quan một chiếc xe đạp, một bộ đồ hớt tóc, một chiếc ghế xếp để Đại Quan vừa thực tập mà cũng vừa hành nghề hớt tóc dạo cho trẻ em ở các ngõ hẻm hoặc ở vùng ngọai ô. Dĩ nhiên trẻ em là “địa bàn” lý tưởng để các ông thợ cúp mới ra nghề thực tập. Trẻ em, nhất là bọn trẻ con nhà nghèo thì đầu tóc quá lắm chí hớt trọc hoặc húi court (1) chứ đâu có kiểu cọ như mấy công tử Hà Nội cho nên mấy ông thợ tập sự tha hồ tung hoành. Chắc chắn đã có khá nhiều chú nhóc là nạn nhân của ông thợ Đại Quan này, nhưng đó là chuyện nhỏ, nhằm nhò gì. Rủi chú nhóc nào bị cạo béng đi một mảng tóc thì chỉ biết nếu máo chứ ăn vạ ai bây giờ?

Sau ít tháng, thấy nghề nghiệp của Đại Quan tương đối thành thạo, ông chú năn nỉ một chủ nhà ở Phố Hàng Thiếc để cho phép Đại Quan đặt một chiếc ghế hớt tóc ở ngòai bờ tường, bên dưới một tàng cây hoa đại. Thế là anh chàng Đại Quan nhà ta đã có một “cơ ngơi” để hớt tóc cho thanh niên, người lớn, ông già chứ không còn là trẻ em như mấy tháng trước nữa. Kể từ giờ phút này Đại Quan rủng rỉnh đồng ra đồng vào, không còn phải xin tiền chú thím như trước.

Trong lúc lo âu, vội vã tìm cách ổn định đời sống cho Đại Quan, ông chú không để ý chi cả, thế nhưng một hôm tình cờ ghé ngang chỗ “hành nghề” của cháu mình, nhìn Đại Quan nắn đầu, bẻ cổ khách hàng trong khi hớt tóc, cạo râu, nhớ tới việc để mả năm xưa ông giật mình, mồ hôi ông vã ra. Tối hôm đó, sau bữa cơm, ông thận trọng kể lại từng chi tiết về cuộc cải táng mộ cụ tổ bốn đời cho Đại Quan nghe. Kể xong ông nói với giọng lo lắng:

-Theo lời truyền tụng, được Cụ Tả Ao để mả cho, chậm lắm là hai đời sẽ kết phát. Cũng có khi “phát dã như lôi” tức là kết phát ngay đời thứ nhất. Thế nhưng chú không hiểu sao tới đời thứ ba vẫn chưa kết phát…và tới đời thứ tư tức đời cháu thì…cháu lại làm cái nghề …bẻ hầu bẻ cổ thiên hạ như thế này! Hay dòng họ ta phúc bạc? Hoặc cũng có thể ông bà cố tổ làm Cụ Tả Ao phật ý điều gì cho nên cụ mới chơi sỏ, hoặc Cụ Tả Ao chọn lầm đất chăng? Thật tình chú không hiểu nổi.

Nghe ông chú kể lại như thế, là một thanh niên sinh ra ở thập niên 1940, Đại Quan cũng tỏ vẻ buồn nhưng không tin tưởng lắm vào việc để mồ để mả như các thế hệ trước cho nên chàng ta nói cứng:

-Việc để mồ để mả có khi chỉ là truyền thuyết, tuy nhiên cháu chỉ làm cái nghề này một thời gian rồi chuyển qua nghề khác - vừa để cải số vừa để cho vong linh các cụ khỏi tủi thân vì có thằng chắt bốn đời phải làm nghề hớt tóc.

Nghe Đại Quan nói thế ông chú dù trong lòng vẫn còn rầu rĩ, nhưng cũng yên tâm phần nào.

Thấm thoắt thời gian qua đi rất nhanh. Chiến sự chẳng những không lắng yên mà mỗi lúc mỗi trở nên ác liệt. Rồi đùng một cái Điện Biên Phủ thất thủ, Hội Nghị Genève ra đời và đất nước chia đôi. Phân nửa người dân Hà Nội bỏ nhà bỏ cửa lên máy bay hoặc xuống Hải Phòng đáp tàu xuôi Nam. Trong tình thế hoang mang tột cùng như thế, ông chú không còn chọn lựa nào khác khi hãng buôn cũng di chuyển vào Nam. Khi gia đình chuẩn bi bán đổ bán tháo đồ đạc, giường tủ, ông chú hỏi Đại Quan là có muốn theo gia đình vào Nam hay trở về quê. Là một thanh niên mới lớn sẵn máu phiêu lưu mạo hiểm, ngòai ra cũng muốn thay đổi mệnh số, sau khi gửi thư về cho bố mẹ mà không thấy bố mẹ phản đối gì, Đại Quan quyết định vào Nam với ông chú. Để bày tỏ quyết tâm cải số, trước ngày lên máy bay, Đại Quan đem cả thùng đồ nghề hớt tóc ném xuống Hồ Tây, thề độc là sẽ không bao giờ cầm lại cái dụng cụ để  bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” nữa.

Theo gia đình chú di cư vào Nam, tá túc ở Khu Bàn Cờ, Đại Quan choáng ngợp bởi Sài Gòn - Hòn Ngọc Của Viễn Đông. Trong lúc rảnh rỗi, chưa công ăn việc làm, Đại Quan lang thang ở các khu Chợ Vườn Chuối, Phan Đình Phùng, Trần Quý Cáp, Lê Văn Duyệt để tìm hiểu cuộc sống mới và do méo mó nghề nghiệp, chàng la cà tới mấy ông thợ hớt tóc để làm quen. Đại Quan thấy Miền Nam sao dễ thương chi lạ. Của cải thì phong phú, đời sống thì dễ dãi, tác phong thì bình dị. Khách hớt tóc không trả gía, kỳ kèo như ngòai Bắc mà còn cho tiền pour bois.(2) Buổi trưa các ông thợ cũng như các ông đạp xích-lô, tác phong như Tây, gác chân lên đọc báo nghỉ ngơi chẳng thèm làm.  Một ông thợ hớt tóc, dù tá túc ở dưới hàng hiên, một ngày kiếm năm mươi đồng dễ như chơi.

Với hy vọng tràn trề là xã hội mới, hòan cảnh mới sẽ đưa tới cuộc đời mới, từ đó giã từ cái nghề oan nghiệt “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ”. Thế nhưng mang thân phận của một kẻ di cư xa lạ, tìm kiếm một việc làm thích hợp không phải chuyện dễ dàng. Đạp xích-lô hay lái taxi thì đường xá phải thuộc làu. Phu khuân vác bến tàu thì đòi hỏi sức khỏe và vô cùng cực nhọc. Xin làm thư ký thì không đủ khả năng. Buôn bán thì phải có vốn và dù có vốn rồi nhưng biết buôn bán gì đây? Còn đi học thì lớn tuổi quá. Dù đã cố gắng hết mình và cả với sự trợ giúp của ông chú, Đại Quan cũng sao tìm ra được một nghề để mưu sinh. Thấm thoắt thế mà ba tháng đã qua. Số tiền dành dụm nhỏ nhoi nhờ làm nghề hớt tóc ở Hà Nội cũng đã cạn. Nhiều đêm trằn trọc, nghĩ tới việc kiếm tiền thỏai mái của mấy ông thợ hớt tóc, nghĩ tới lời thề độc năm xưa khi quẳng thùng tông-đơ, dao, kéo xuống Hồ Tây, mồ hôi trong người Đại Quan rịn ra. Tự ái, lo âu và bực tức giằng co dữ dội trong tâm trí khiến Đại Quan muốn phát bệnh cho đến một ngày nọ, có thể Đại Quan cũng đã muốn buông xuôi theo dòng định mệnh, cho nên rầu rĩ nói với ông chú:

-Thưa chú, thực tình cháu không muốn làm lại cái nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” nữa …nhưng có lẽ cũng chẳng còn con đường nào khác. Chú có nghĩ rằng mồ mả đã kết phát như thế thì cũng chẳng thể cải số được chăng?

Tới mức này thì chính ông chú cũng bực bội với Cụ Tả Ao, với chuyện để mồ để mả năm xưa của tổ tiên. Nhưng trước thực tế khó khăn của người cháu, chính ông cũng vô kế khả thi cho nên ông đành lên tiếng an ủi Đại Quan:

-Thôi thì cháu cứ tạm quay lại với nó một thời gian rồi chú cháu mình tính sau.

Bằng sự giúp đỡ của người chú, Đại Quan một lần nữa lại đi mua sắm tông-đơ, dao cạo râu, kéo, gương, lược rồi mướn một cái chái của một căn nhà lụp xụp ở Đường Trần Quý Cáp để hành nghề. Thế rồi do chăm chỉ, cần mẫn, khéo tay, công việc làm ăn của Đại Quan mỗi lúc mỗi trở nên khấm khá và chỉ hai năm sau đã mướn được ngay căn nhà bên cạnh để mở một tiệm hớt tóc đàng hòang với cái tên rất Tây: Coiffure Đại Quan với sự phụ tá của hai người thợ. Rồi công việc mỗi ngày mỗi thịnh vượng, Đại Quan mua lại được chính căn nhà đó và năm sau thì cưới vợ, một cô gái Nam đang làm thợ dệt cho Hãng Vinatexco.

Trên đời này người ta thường hay đổ thừa cho định mệnh hay mệnh số khi một biến cố xảy đến cho đời mình. Thế nhưng thật ra tất cả đều do quyết định của chính con người. Không một chuyện gì trên đời này mà không có quyết định của con người. Và cả anh chàng Đại Quan nhà ta cũng thế. Theo dòng thời gian, mặc dù đã là chủ một tiệm hớt tóc, đời sống dễ chịu nhưng trong thâm tâm Đại Quan lúc nào cũng mặc cảm với cái nghề đang nuôi sống mình và luôn thắc mắc về bí mật của cuộc để mồ để mả năm xưa. Trong vài năm đầu, Miền Nam tương đối thanh bình nhưng sau đó chiến tranh lan rộng và mỗi lúc mỗi trở nên khốc liệt. Vào năm 1968 khỏang 500,000 quân Mỹ đã phải đổ vào để cứu nguy sự xụp đổ của Miền Nam. Sài Gòn thì truất phế, lật đổ, đảo chính, chỉnh lý, biểu dương lực lượng, giới nghiêm liên miên khiến người dân sống trong không khí ngột ngạt. Thanh niên sinh viên lớn lên không nhìn thấy tương lai - ngọai trừ tương lai động viên và nhập ngũ và không còn thứ giải trí nào khác hơn là chui đầu vào các rạp cinê hoặc các phòng trà nghe nhạc tình, nhạc ủy mị, nhạc Trịnh Công Sơn do đó phòng trà, các quán cà phê mọc lên khắp nơi. Nhìn thấy thời cơ tốt, vả lại cũng là dịp để thay đổi số mệnh, ngòai ra làm chủ một quán cà-phê nhạc trông có vẻ “nghệ sĩ” và “oai” hơn là tiệm hớt tóc cho nên Đại Quan dẹp tiệm, mở quán Café Quan. Giống như lần ở Hà Nội, chàng đem tông-đơ, dao kéo ném xuống sông Sài Gòn rồi tới Lăng Ông ở Bà Chiểu thề độc là sẽ không bao giờ cầm lại mớ dụng cụ “oan nghiệt” này nữa.

Trong khi hiu hiu ngồi nghe nhạc, ung dung với lợi tức vừa đủ của quán cà-phê,  Đại Quan có lúc mơ về tương lai. Chàng thấy trên cái cuộc đời kỳ lạ này, chẳng phải văn hay chữ tốt, bằng cấp đầy mình mới có thể làm quan. Nhỏ không học lớn lên cũng làm quan. Một ông chuyên dạy lái ô-tô cũng trở thành nghị viên Đô Thành, một bà bán hàng ở Chợ Bến Thành cũng trở thành dân biểu Quốc Hội. Rồi một ông nghĩa quân ở Gia Định cũng trở thành nghị viên Hội Đồng Tỉnh, vậy thì có gì lạ khi một ông chủ quán cà-phê trở thành một nghị viên, rồi dân biểu ? Những vị này không là quan thì là cái gì nữa? Để thực hiện giấc mơ làm quan, chàng bắt đầu tham gia vào các sinh họat của Phường, Khóm, các đám giỗ, tiệc cưới, các hội ái hữu, đăng báo phân ưu, mừng đám cưới trên các báo…để thiên hạ biết tên tuổi mình. Giấc mơ đó cứ lớn dần, sáng dần cho đến khi…đột nhiên Miền Nam xụp đổ và “Cách Mạng” tràn vào.

Hình như Sài Gòn cái gì cũng xa lạ và lạc lõng với đoàn quân dép râu, nón cối, mũ tai bèo và xe đạp thồ tràn ngập đường phố. Có lẽ đòan quân đó lạc hậu với thành phố này tới nửa thế kỷ. Vì đây là cuộc “Cách Mạng” triệt để cho nên từng núi sách vở, báo chí, băng nhạc được đem ra đốt. Phòng trà, ca nhạc, vũ trường là sản phẩm văn hóa độc hại, đồi trụy cần phải cho đi học tập cải tạo. Chính vì thế mà Đại Quan hốt hoảng đóng cửa ngay quán nhạc, phá bỏ lớp kính màu, chạy vội lên Chợ Cũ mua ngay tông-đơ, dao, kéo để mở lại tiệm hớt tóc…nhưng không dám lấy tên cũ Coiffure Đại Quan vì cái tên này nghe Tây quá. Mà giống Tây thì có vẻ “phản động” cho nên dựng một cái bảng mới: Hớt Tóc Quan.

Đối với “Cách Mạng” dù làm chủ một tiệm hớt tóc, giai cấp tiểu tư sản nhưng nó có vẻ thuộc giai cấp công nhân và gần gũi với “Cách Mạng” hơn. Nhìn thấy cả triệu viên chức chế độ cũ phải đi tù cải tạo, Đại Quan hú hồn hú vía, thầm cám ơn cụ cố tổ đã để mồ để mả cho làm nghề hớt tóc. Chứ nếu làm nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” thì giờ này đã đi tù “Mút Mùa Lệ Thủy”.

Mặc dù không bị đi tù về tội làm chủ một quán cà-phê nhưng chịu chung số phận với hằng triệu dân chúng Miền Nam: Ăn độn, làm thủy lợi, vùng kinh tế mới, họp phường, họp khóm, họp tổ…và đói giã họng ra mà kêu trời không thấu. Nhắm không thể sống nổi dưới chế độ này, năm 1979 lợi dụng nhà nước cho phép đi bán chính thức, Đại Quan trà trộn vào đám thương gia Chợ Lớn và chuyến vượt biên bình yên, tàu cặp bến Bi Đông, Mã Lai.

Khi đặt chân lên đảo tỵ nạn, thóat khỏi Việt Nam đầy ác mộng, Đại Quan thầm cám ơn tổ tiên, Trời, Phật và nghĩ rằng từ đây cho đến ngày nhắm mắt lìa đời sẽ không bao giờ phải làm lại cái nghề hớt tóc và bao mộng đẹp khi định cư vào Mỹ hình thành.

Thế nhưng giữa mộng và thực luôn luôn là một khỏang cách xa vời và có khi đối nghịch hẳn nhau. Vì chỉ là thường dân buôn bán, không thuộc diện con lai, làm sở Mỹ, cựu quân nhân, công chức, tù cải tạo cho nên Đại Quan và gia đình không đủ điều kiện đi Mỹ. Nói khác đi Đại Quan thuộc thành phần “ở mục đảo”. Ba tháng qua đi rất nhanh, nhìn những gia đình tới đảo sau mình đã có “danh sách rời trại” Đại Quan nóng cả ruột. Vì thời giờ quá rảnh rỗi, chàng lang thang trên đảo để tìm hiểu cuộc sống của đồng bào tỵ nạn. Người Việt mình quả là một sắc dân có sức sống mãnh liệt. Thôi thì đủ thứ sinh họat phồn tạp diễn ra trên đảo. Người thì trồng bầu trồng bí, người làm nghề thợ may, đồ thủ công, hàng lưu niệm, chụp hình, mở quán cà-phê nhạc Việt nhạc Mỹ xập xình và dĩ nhiên có cả nghề hớt tóc. Chợ “chồm hổm”mỗi buổi sáng trao đổi củi, cá, thuốc lá, mì gói, bầu bí v.v.. nhộn nhịp như một khu chợ nhỏ ở một quận lỵ nào đó ở Việt Nam. Vàng lận theo người bán đi để sinh sống đã cạn. Mỗi lần đi hớt tóc phải trả hai Mã Kim tức khoảng một đô-la Mỹ, Đại Quan thấy “đau hơn họan”. Thế rồi sáu tháng qua đi rất nhanh, vợ lại mang thai, cuộc sống tù túng trên đảo mỗi lúc mỗi trở nên khó khăn, tương lại định cư thì mù mịt. Sau một đêm suy nghĩ mà đầu muốn bạc như Ngũ Tử Tư năm xưa,  Đại Quan cắn răng quên lời thề độc, bán đi chiếc nhẫn cưới của vợ để nhờ giám thị Mã Lai mua cho một bộ đồ hớt tóc. Hôm nhận hộp đồ nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ”, nước mắt Đại Quan trào ra.

Thế nhưng có lẽ do “tổ đãi” hoặc do mồ mả kết phát, giống như ở Sài Gòn, Đại Quan bắt đầu sống thoải mái, có tiền để mua thêm đồ ăn, sắm quần áo mới, giầy dép mới, máy Cassett Radio để nghe nhạc và mua được cả vàng do dân tỵ nạn mới đến đảo bán đi để sinh sống. Cuộc sống trong khắc khỏai, lo âu vì chờ đợi nhưng thỏai mái về tài chánh so với dân tỵ nạn khác cứ như thế kéo dài ba năm.

Chính phủ Mỹ quả là một chính phủ nhân đạo. Đối với những người “ở mục đảo”, tức không đủ điều kiện đi Mỹ, cứ một hai năm họ cho mở lại hồ sơ để cứu vớt một số, đặc biệt là các gia đình có con nhỏ. Dân tỵ nạn gọi hành vi nhân đạo này một cách nôm na bằng danh từ “hốt rác”. Thế là vợ chồng Đại Quan cùng hai con nhỏ được phái đòan Mỹ “hốt rác” và cho chuyển qua Trại Sungei Besi cũng thuộc Mã Lai rồi Trại Bataan, Phi Luật Tân học Anh Văn sáu tháng để định cư.

Thật mâu thuẫn, giống như những lần ở Hà Nội và Sài Gòn trước đây, dù nghề hớt tóc đã là cái phao giúp Đại Quan vượt qua những giờ phút ngặt nghèo nhưng lúc nào Đại Quan cũng căm hận cái nghề oan trái này. Hôm rời Đảo Bi Đông, Đại Quan ra cầu tàu, quăng  bộ đồ hớt tóc xuống biển cùng với lời thề độc giống như năm xưa.

Thấm thoắt thời gian sáu tháng ở Trại Chuyển Tiếp Bataan - Phi Luật Tân qua nhanh. Ngày rời Phi định cư vào Mỹ là cả nỗi hân hoan cho gia đình và tương lai rộng mở. Do không có thân nhân ở Mỹ, Đại Quan được một hội thiện nguyện bảo lãnh. Thế rồi cũng do sự giúp đỡ của hội thiện nguyện, gia đình Đại Quan xin được welfare, food stamps rồi xin được housing tức trợ cấp nhà ở. Thời điểm bấy giờ là năm 1982, kinh tế Mỹ phồn thịnh cho nên chính phủ cho các gia đình có con nhỏ ăn welfare “mút chỉ” tới 18 tuổi mới thôi. Nếu tiếp tục sinh con đẻ cái thì lại ăn welfare tiếp…tức là có thể ăn welfare mãn đời.

Không phải loại người làm biếng chủ trương sống bám vào welfare, nhiều lần vợ chồng tính nạp đơn xin làm assembler tức thợ lắp ráp điện tử, thế nhưng được một số vị khôn ngoan đến Mỹ trước, khuyên: “Xứ Mỹ này rất kỳ lạ; Một là thật giàu, hai là thật nghèo. Vô sản thì chính phủ lo hết. Trung trung đứng ở giữa, đi làm đóng thuế sặc máu, về già lại không có MediCal. Trên đời này không có gì sướng bằng ăn welfare, ở nhà housing và đi làm chui lãnh tiền mặt. Nhiều người có tiền, nhờ thân nhân, con cháu đứng tên mua nhà cho thuê sống sung sướng lắm ông bà ơi!”

Trong những lúc rảnh rỗi chạy qua hàng xóm láng giềng tán dóc, hoặc la cà vào các khu thương mại người Việt dò hỏi, đâu đâu người ta cũng nói như vậy. Khi được biết Đại Quan đã có thời làm thợ hớt tóc ở Việt Nam, một số bạo miệng khuyên, “Sao ông không mua bộ đồ hớt tóc về nhà làm chui? Chẳng thuế má gì cả mà cũng chẳng ảnh hưởng tới welfare. Tiền không đấy ông ơi!”

Nghe nói tới việc trở lại làm nghề hớt tóc Đại Quan choáng váng cả mặt mày. Thế nhưng nếu đi làm thì welfar, housing bị cúp, lúc đó lại phải đi thuê nhà mỗi tháng cả ngàn đô-la, về già lại không có MediCal. Còn nếu cứ ở không như thế này thì thật uổng phí. Không giống như Việt Nam, ở Mỹ “lao động là vinh quang” có làm là có ăn, thời giờ là tiền bạc.  Thế là tâm trí Đại Quan một lần nữa lại giằng co dữ dội, dữ dội hơn cả những lần còn ở Việt Nam. Thế nhưng cuối cùng tiền bạc đã thắng. Tiền bạc như một thần lực, nó thắng luôn cả tự ái lẫn những lời thề độc năm xưa. Đại Quan một lần nữa lại đi mua sắm tông-đơ, dao, kéo, gương, lược để trở lại nghề hớt tóc ngay tại nhà mình.

Giống như được “cô độ”, công việc của Đại Quan lại trở nên phát đạt. Các ông bạn hàng xóm tới với Đại Quan vừa để ủng hộ đồng hương vừa là dịp uống trà, tán dóc. Hơn thế nữa, theo phong tục không biết có từ đời nào, hớt tóc ở Mỹ không có cạo mặt, không cạo râu, không lấy ráy tai mà phải trả 10 đô-la. Tới Đại Quan chỉ phải trả 8 đô-la thôi, vừa kỹ lưỡng, lại có đủ thứ và “báo chợ” đọc chơi. Mỗi buổi sáng Đại Quan rảo qua văn phòng các bác sĩ, nha sĩ nhặt báo đem về cho bạn bè và khách hàng. Nhà của Đại Quan giống như một “business” nho nhỏ và vui vui. Thế là Đại Quan một lần nữa tiền bạc rủng rỉnh, mỗi tháng kiếm hai, ba trăm đô-la dễ như chơi và  bắt đầu có dư để gửi về Việt Nam biếu gia đình bố mẹ ở Ninh Bình và ông chú ở Sài Gòn.

* * *

Với cuộc sống tương đối ổn định, trông lên thì chẳng bằng ai nhưng trông xuống thì chẳng ai ung dung bằng mình. Trong những lúc vắng lặng, Đại Quan suy nghĩ vẩn vơ. Xã hội Mỹ trông bề ngòai phồn vinh như thế nhưng đầy rẫy bấp bênh và đổi thay như chong chóng. Có những ông, nhà cửa đáng giá bạc triệu, đi xe Mercedes, tiền để ngân hàng, chơi stock bỗng nhiên ra homeless (3) sau khi ly dị vợ. Còn kỹ sư điện tử thất nghiệp, không sao tìm được việc phải đi bỏ pizza hoặc làm bồi cho nhà hàng. Nhìn thằng con đầu lòng sinh ở Sài Gòn giờ đã lên đại học, nghĩ tới việc để mồ để mả của tổ tiên, nhìn lại đời mình Đại Quan thấy có thể Cụ Tả Ao năm xưa đã chọn lầm đất khiến con cháu thay vì  ra làm quan lại đi làm nghề hớt tóc. Định mệnh đó theo đuổi mãi dù đã chạy qua tới đất Mỹ. Liên tưởng tới ngày thằng con trai mình ra trường đậu bằng kỹ sư, lấy vợ, rồi vợ chồng bất hòa ly dị, rồi trắng tay biết đâu nó chẳng phải làm nghề hớt tóc như bố nó ngày hôm nay?  Đại Quan rầu rĩ chia xẻ ý nghĩ này với vợ:

-Bà à, sao tôi lo quá. Tôi sợ rồi đây việc để mồ để mả linh thiêng của Cụ Tả Ao sẽ lại ứng nghiệm. Biết đâu đến đời thằng con mình nó cũng lại làm cái nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” như tôi?

Nghe nói thế, bà vợ thay vì lên tiếng an ủi, bà “xì” một cái rồi nói:

-Trời đất ơi! Ông ở Mỹ mà cứ như còn ở Việt Nam. Cụ Tả Ao là bậc thánh tổ địa lý. Cụ thương dòng họ mình và biết  chắc rằng thằng chắt năm đời sẽ lưu lạc qua đất Mỹ cho nên cụ mới để mả cho nó làm nghề hớt tóc. Nếu như cụ để mả cho anh làm quan thì năm 1975 đã đi tù “mút mùa lệ thủy” rồi, qua đây làm nghề gì để sinh sống? Bộ anh tưởng một tháng kiếm hai, ba trăm đô-la “tiền tươi” (4) dễ lắm hả? Ở Mỹ này có tiền mua tiên cũng được. Thằng con mình nó giỏi tiếng Anh, nếu nó có theo “nghiệp tổ” thì nó sẽ phát triển thành năm, ba tiệm. Khi có tiền rồi thì nó làm gì mà chẳng được. Ông không thấy một ông Việt Nam làm nghề thầu rác vừa được tổng thống bổ nhiệm làm Phụ Tá Giáo Dục Tòa Bạch Ốc sao? Có tiền đóng góp cho mấy ông ứng cử viên tổng thống. Đắc cử rồi thì ông ấy cho mình làm quan. Ở Mỹ có tiền mua tiên cũng được ông ơi!

Nghe bà vợ nói thế mặt Đại Quan xụ xuống. Sau một hồi ngồi như kẻ mất hồn, chàng ta lẩm bẩm một mình:

-Ử, con mẹ trông nhà quê thế mà nói cũng có lý. Biết đâu thằng con trai mình sau này làm nghề hớt tóc phát đạt, góp tiền tranh cử cho các ứng cử viên thống đốc, tổng thống rồi sau đó được các ông ấy bổ nhiệm làm quan, tha hồ “bẻ đầu bẻ cổ” thiên hạ. Mình lẩm cẩm quá!


Đào Văn Bình

(Trích tuyển tập truyện ngắn Mê Cung, Ananda Viet Foundation xb năm 2019, Amazon phát hành)

(1) cắt tóc ngắn

(2) tiền típ, tiền trà nước

(3 ) lang thang không cửa không nhà như gã ăn mày

(4) tiền mặt và không phải đóng thuế