
Tôi còn nhớ, chị tên Yến. Chị có một mái tóc dài chấm eo. Eo chị rất 
nhỏ, vóc dáng mảnh mai, xinh đẹp. Chị mang dòng máu nửa Hoa nửa Việt, ở 
đâu tuốt chợ lớn, đến nhà tôi mướn một góc mặt tiền để bán bánh ngọt. Tủ
 bánh của chị rất hấp dẫn, các loại bánh Pháp ngon lành, được trưng bày 
khéo léo, thêm vào một cô chủ như chị nữa thì cửa hàng bánh ngọt này là 
cửa hàng hạng nhất con đường nhà tôi, một con đường tấp nập cũng vào bậc
 nhất Sài Gòn, ngày xưa có tên Tự Do, sau đổi thành Đồng Khởi. Cuối con 
đường là dòng sông Bạch Đằng. Dòng sông này cũng như con đường, bận rộn 
vô cùng. 
Hồi chị mới đến, cả khu xóm tôi xôn xao. Các cụ cứ trầm trồ khen ngợi
 con nhà ai xinh như mộng, lại khéo nữa. Các chú các anh cũng háo hức 
không kém, sang nhà tôi thăm hỏi liên tục, và tôi trở thành quan trọng 
hẳn, được các ông anh chú ý hơn để hỏi tin tức của chị, hoặc chỉ hỏi xem
 chị đến chưa, chuẩn bị dọn hàng chưa. Các bà vợ thì tức tối thấy rõ, 
nói xiên nói xéo chị, và chửi bới các đức ông chồng. Còn chị, chị lúc 
nào cũng nhỏ nhẹ và hiền lành, tôi có cảm tưởng chị chẳng bao giờ có khả
 năng nổi giận, hay mắng nhiếc ai. Chị lễ phép với người lớn, lịch sự 
với người đồng trang lứa, và âu yếm với bọn nhỏ chúng tôi. Chị ăn mặc 
giản dị nhưng rất đẹp. Mái tóc dài lúc nào cũng kẹp lại bằng chiếc kẹp 
ba lá, đung đưa ngang eo theo từng cử động của chị. Tôi là thằng bé mới 
lớn, vừa 12 tuổi, ngày nào cũng nhìn chị say mê không chớp mắt. Con em 
gái tôi cũng thế, có lần nó kéo tay tôi thủ thỉ: anh Hai, em muốn lớn 
lên đẹp như chị Yến.
Lớn lên đẹp như chị Yến. Trời, đứa con gái 
nào mà không muốn, nhưng có được không mới là chuyện. Chị Yến đâu chỉ 
đẹp thôi, còn duyên dáng và đảm đang nữa, cứ trông chị làm bánh, dọn 
hàng, sắp từng chiếc bánh con con lên miếng giấy hoa bọc phía dưới thì 
đủ biết. Chị như một nàng tiên, và những chiếc bánh của chị cũng đẹp và 
ngon khác thường, nghe đâu chị nấu ăn và dọn bàn ăn cũng chẳng ai sánh 
bằng. Mỗi lần lễ lượt, chị còn cắm hoa để trưng bày trên tủ bánh ngọt 
của chị, bình hoa cũng đẹp giản dị và kín đáo y như chị. Chị người Việt 
gốc Hoa, mà sao ở chị lại toát lên một cái gì… Tây Tây, song lại cũng 
rất…Ta Ta…Biết nói làm sao nhỉ? Chị Yến bán bánh ngọt ở cửa nhà tôi là 
một cô gái đặc biệt, tôi chưa thấy một người con gái nào giống chị và 
bằng chị.
Tôi không biết chị bao nhiêu tuổi, nhưng tôi biết chị 
đang ở cái tuổi đẹp nhất của một người con gái. Chị rất thích hát. Chị 
không hát chỗ đông người, chỉ hát khe khẽ một mình lúc làm bánh hoặc dọn
 hàng. Bài hát dính liền với chị là “Mộng dưới hoa”. Vừa sắp bánh vào 
giấy bọc, chị vừa ngâm nga “chưa gặp em anh đã nghĩ rằng có nàng thiếu 
nữ đẹp như trăng…”. Tôi không đồng ý với ông nhạc sĩ này. Nếu chưa gặp 
chị, tôi không tài nào tưởng tượng nổi một thiếu nữ đẹp như trăng thì sẽ
 đẹp như thế nào, cho đến khi chị đến, cho đến khi nhà tôi, xóm tôi, và 
con đường này có một vầng trăng là chị. Tôi nói cho chị biết điều này, 
chị xoa đầu tôi cười, đặt vào tay tôi 1 cái bánh. Chị nói em còn nhỏ 
lắm, một ngày nào đó em sẽ biết cách tưởng tượng. Rồi chị tiếp tục công 
việc, và lại khe khẽ hát tiếp: “mắt xanh là bóng dừa hoang dại, âu yếm 
nhìn tôi không nói năng”.
Âu yếm nhìn tôi không nói năng. Trời, 
chính tôi đang mỗi ngày âu yếm nhìn chị không nói năng đây, mà sao chị 
chẳng biết. Cái eo của chị vẫn xoay chuyển như cùng thỏa thuận với mái 
tóc, lắc nhẹ cái đuôi chờn vờn qua lại khiến tôi thèm thuồng được túm 
chặt cái đuôi tóc ấy, mân mê trên tay. Mắt chị vẫn cười và long lanh sau
 tủ bánh ngọt. Bàn tay chị thoăn thoắt, không ngơi công việc và mỗi cử 
động của đôi tay ấy đều có chút gì âu yếm, nâng niu công việc đang làm. 
Chị rất ít nói, đôi mắt chị nói rất nhiều thay chị. Chẳng ai biết chị 
đang nghĩ gì, chỉ biết rằng, ở trong cái đầu nho nhỏ trên cái cổ cao 
thanh mảnh ấy, thì hẳn phải là một ý nghĩ rất dịu dàng. Có lần trong lúc
 chị dọn hàng, gió từ hướng bờ sông thổi đến rất mạnh, mấy miếng giấy 
trắng trong bọc bánh của chị theo gió cuốn bay lên, và tóc của chị cũng 
bay theo. Phút chốc ấy tôi bỗng hoảng hốt, cảm giác như chị đang bay 
lên, đang chới với, đang kêu cứu. Thằng bé mười hai tuổi anh hùng trong 
tôi vội chạy lại, giữ chặt lấy chị, dỗ dành: "Không sao đâu. Em bảo vệ 
chị". Chị bật cười cám ơn tôi, rồi trêu: "Em bay trước chị thì có. Thôi 
được rồi, phụ chị nhặt mấy tờ giấy lại đi cu cậu."
Cu cậu. Tôi đỏ
 mặt giận chị. Có bao giờ một người đàn ông bị người phụ nữ của mình gọi
 là cu cậu chưa nhỉ? Tôi đau khổ vô cùng. Một tuần liền tôi đi học về 
cửa sau, tránh không đi cửa trước gặp chị. Gia đình tôi không ai chú ý 
đến tôi, không ai biết lý do tôi đổi cửa ra vào. Tôi đi cửa sau hóa ra 
lại tiện hơn cho mọi người. Mẹ tôi bán cà phê đắt hơn, chị bán bánh đắt 
hơn, và con em gái tôi ngày nào cũng được ngồi trong lòng chị. Nó lăng 
xăng dọn hàng phụ chị, ăn bánh phụ chị, và chỉ mới 1 tuần lễ thôi tôi đã
 thấy nó bày đặt làm dáng, mỗi lần xếp tập vở vào cặp sách của mình, nó 
cũng bắt chước dáng điệu của chị, miệng còn khe khẽ hát “chưa gặp em anh
 đã nghĩ rằng…” Tôi nổi nóng la: “mày nhỏ, hát chi thứ nhạc ấy”. Nó nhe 
răng cười: “anh nhỏ thì có. 
Chị Yến dạy em đấy. Nghe nè: mắt xanh là bóng dừa hoang dại. Âu yếm nhìn anh không nói năng”. 
Một
 hôm, nó chui vào mùng tôi, thủ thỉ kể: “anh Hai, biết gì không? Hồi 
chiều em đi mua bột làm bánh với chị Yến. Anh Đạt chở em ở giữa, chị Yến
 đằng sau, đi mua bột vui lắm. Chị Yến nói bữa nào em lớn chút nữa, sẽ 
dạy em làm bánh”. Tôi ngồi bật dậy. Anh Đạt? Tôi nuốt nước miếng, cảm 
giác đắng nghét ở cổ họng. "Anh Đạt nào? Sao tao không biết?" Con em tôi
 nhìn tôi đắc thắng, lên giọng: “Giời ơi, cái anh đẹp trai ngồi ở quán 
mình mỗi ngày ấy.
Ngồi nhìn chị Yến. Mua bánh của chị Yếân cho 
em ăn nữa nè. Anh dễ thương lắm nghe, hồi chiều chị Yến dọn hàng sớm, 
nói về đi mua bột, mua kem làm bánh cho kịp ngày mai. Anh Đạt xung phong
 chở chị Yến đi mua, rồi chị Yến xin cho em đi theo nữa đấy nhá. Bây giờ
 chị Yến đi đâu cũng dẫn em theo hết. Mai mốt truyền nghề cho em luôn”.
À, thì ra. Phải điều tra cho ra ngọn ngành mới được.
Người
 đàn ông tên Đạt thoạt nhìn tôi đã không ưa, trạc độ 30 tuổi, trông như 
một công tử nhà giàu, chưng diện. Thừa nước đục thả câu, trong hơn tuần 
lễ tôi giận không đeo bên cạnh chị, anh ta đến quán ngồi lì từ sáng đến 
chiều, từ lúc chị mở hàng cho đến lúc dọn hàng, mua bánh của chị cho em 
gái tôi và mấy đứa trẻ hàng xóm. Không biết chị đã quen anh ta từ trước 
hay là mới biết nhau, nhưng chị ít khi nào nói gì với anh ta. Chị giữ ý 
đến độ tôi cảm thấy chị thật giả dối. Nếu không thân nhau sao lại đi mua
 bánh, đi mua kem, rồi để anh ta ngồi lì như thế nhìn mình suốt. Tôi 
thất tình, lầm lì ít nói, và cộc cằn với chị. Còn chị, gần như không hề 
hay biết đến sự ghen tức của tôi. Chị vẫn dịu dàng, vẫn gửi tôi một cái 
nhìn trìu mến như mọi khi. Bây giờ chị dọn hàng sớm hơn, và khi chị bước
 lên xích lô thì anh ta cũng lái xe thật chậm, bám theo bên cạnh. Họ cứ 
như vậy cho đến 2 tháng sau thì một buổi sáng nọ tôi không thấy chị bước
 xuống từ xe xích lô nữa, mà từ xe máy của anh ta. Má chị phớt hồng, hai
 mắt long lanh tràn ngập niềm vui. Anh ta lăng xăng phụ chị dọn hàng một
 chút, uống cà phê, ngồi chơi với bà tôi dăm ba câu đưa đẩy trước khi 
cáo từ ra về. Mỗi ngày, tôi thấy chị mỗi đẹp hơn, hay cúi mặt cười một 
mình, lúc dọn hàng thỉnh thoảng chị ngước nhìn con đường trước mặt, 
trông ngóng anh ta. Giờ về là giờ hạnh phúc nhất của chị. Chị lén soi 
gương, đánh lại chút phấn hồng. Trước đây chẳng bao giờ chị làm như thế.
 Khi chiếc xe máy của anh ta đỗ kịch trước nhà tôi, chị hướng về phía 
anh ta với một cái nhìn đồng lõa và chứa chan âu yếm. Chiếc xe phóng đi 
tôi còn kịp thấy cái tia sáng long lanh trong mắt chị, và hai tay chị 
giữ chặt eo anh ta, tóc chị bay như một cánh diều sau lưng. Thế là hết. 
Chị Yến của tôi đã bay như một cánh diều theo tên đàn ông xấu xí ấy. Tôi
 uất ức và buồn tủi đến xỉu được. Ban đêm, tôi nằm úp mặt xuống giường, 
hai tay bấu chặt vào chiếc gối, lòng mong muốn giết chết tên đàn ông hỗn
 xược ấy, giành lại người chị xinh đẹp kia cho mình. Mà không, tôi cũng 
không thèm chị nữa. Tôi giận chị, tôi ghét chị, và trời ơi, tôi thấy chị
 đẹp đến não nề.
Ngày tháng trôi qua, thêm một tháng, hai tháng, 
rồi năm tháng, sáu tháng…một buổi chiều đi học về tôi thấy chị khóc lặng
 lẽ nơi cửa sau nhà tôi. Tôi mon men lại gần chị, cái đuôi tóc của chị 
cũng lặng lẽ như chị, thả yên lặng chạy dọc theo tấm lưng thon, điểm 
ngang chỗ cái eo nhỏ đến nỗi tôi hình dung ra nó có thể gãy bất kỳ lúc 
nào. Chị cứ đứng yên lặng như thế, không nhìn thấy tôi, nước mắt chạy 
ròng ròng trên má. Tôi cũng chưa thấy người con gái nào khóc như thế. Mẹ
 tôi khóc khác. Dì tôi khóc khác. Ngay cả trong phim tôi cũng chưa thấy 
người ta khóc như thế bao giờ. Chị đứng bất động như pho tượng, đôi mắt 
mở to nhưng không nhìn bất cứ một thứ gì, kể cả bức tường trước mặt, 
nước mắt từ đó chảy ra bất tận, ngực phập phồng nhưng không bật lên một 
tiếng nức nở nào. Nắng chiều còn sót lại vừa đủ làm những giọt nước mắt 
óng ánh trên má chị. Một nỗi buồn khôn tả xâm chiếm lấy tôi. Có cái gì 
không thể tưởng tượng được đang diễn ra ở đây. Có cái gì bi đát trong 
dáng dấp ấy. Buổi chiều bỗng tỏa ra một mùi hương tuyệt vọng. Tôi cho 
rằng mình cũng đang khóc. Tôi cho rằng mắt tôi cũng đang nhòa lệ theo 
chị. Tôi với tay nắm lấy bàn tay chị. Chị quay lại, nhìn thấy tôi và 
cũng nắm chặt tay tôi. Yên lặng thêm vài giây nữa, rồi chị mỉm cười, một
 nụ cười của sự thảm hại. Chị nói rất nhỏ: "Vào nhà thôi".
Chị không bao giờ nhắc lại buổi chiều hôm ấy với tôi, và tôi cũng thế. 
Tôi không còn ghét chị nữa, lý do vì sao thì tôi cũng không hiểu nổi. Sự
 đau đớn bấy lâu vì chị như trôi đi cùng lúc với sự đau đớn của chị mà 
tôi bắt gặp trong buổi chiều ngày hôm ấy. Anh chàng Đạt vẫn lui tới, 
nhưng thất thường hơn. Chị im lặng hơn, chăm chú với mấy cái bánh đủ màu
 sắc của chị, nhưng tôi có cảm tưởng chị chỉ vờ lấy lệ, vì đôi mắt của 
chị không biểu lộ sự chăm chú, cũng không biểu lộ một niềm vui nào, nó 
lặng lẽ đến ghê hồn. Đôi mắt ấy không bao giờ biết phản bội lòng chị, dù
 chị có khéo giấu mọi điều đến đâu chăng nữa. Hàng mi dài của chị như rũ
 xuống, và cả đuôi tóc cũng lười biếng không động đậy. Bây giờ dọn hàng 
xong chị leo lên xích lô về nhà, không leo lên xe anh ta nữa. Anh ta vẫn
 chậm chậm lái xe theo chiếc xích lô của chị. Chị ngồi lọt thỏm trong 
xe, hai tay đặt lên đùi, gương mặt nghiêm trang, và trông chị nhỏ nhắn 
đến đáng thương.
Một ngày đầu năm, tôi nghe tiếng la hét và tiếng
 khóc lóc trước cửa nhà mình. Một cảnh tượng thật khủng khiếp. Chị Yến 
bám chặt lấy mẹ tôi, gương mặt xanh mét, kế bên chị là một bà đứng tuổi,
 tay túm chặt lấy tóc chị, miệng la lối: "Bà để tôi dạy con tôi. Đồ đĩ 
ngựa. Nó theo thằng đã có vợ. Cái thằng khốn nạn. Trời ơi, biết thế tôi 
đâu cho nó lên đây làm gì". Rồi bà ta đổi sang tiếng Hoa, gào thét như 
điên loạn. Sau lưng bà ta là một đại gia đình của chị Yến thì phải, và 
gần như đủ mặt hàng xóm của tôi. Các bà vợ xung quanh nhà tôi nhổ nước 
bọt, chửi phụ họa theo bà mẹ chị Yến, và các ông chồng lặng lẽ đứng bên 
các bà vợ như ngầm đồng ý với họ. Đồ cướp chồng người khác. Đồ đĩ. Tôi 
chóng mặt vì những tiếng gào thét ấy. Chị Yến gần như mệt lả người, bấu 
chặt vào mẹ tôi, lắp bắp: "Cô ơi, cứu con". Rồi tiếng hét thất thanh của
 mẹ tôi. Không kịp nữa, bà mẹ chị Yến đã dùng kéo cắt đứt mái tóc của 
chị. Đuôi tóc chị rơi xuống sàn nhà, chiếc kẹp ba lá cũng bật ra, mái 
tóc xổ ra một lần cuối và biến mất trên lưng chị. Chị lịm người trong 
tay mẹ tôi, hai má bị đánh đến bầm tím, máu từ mũi chị chảy ra xối xả. 
Đám đông bu quanh nhà tôi hả hê ra mặt. Cho đến lúc chị Yến té xỉu được 
mang vào bệnh viện thì đám đông mới giải tán, và những bà vợ gương mẫu 
kia nắm chặt tay các đức ông chồng, rời gót với điệu bộ vui vẻ như vừa 
đi xem hát bóng về. 
Tôi ngồi bệt xuống đất, nhặt mái tóc của chị
 tung tóe dưới sàn nhà. Tôi tìm lại chiếc kẹp ba lá cho chị. Chị Yến, 
Yến, Yến ơi! Tôi nắm chặt chiếc kẹp tóc của chị. Em sẽ chờ cho tóc chị 
dài ra, chấm ngang eo, và kẹp lại cho chị!
Ngày hôm sau, gia đình
 chị lên dọn tủ bánh. Còn chị thì mất dạng. Tôi khổ sở mong ngóng tin 
tức chị. Con em gái tôi cũng buồn không kém. Người đàn ông tên Đạt biệt 
tăm, không trở lại uống cà phê lần nào. Mãi đến một năm sau, trước khi 
gia đình tôi rời Việt Nam, tôi mới vô tình đọc được vài dòng chị gửi mẹ 
tôi, không biết từ bao giờ. Lần đầu tiên tôi nhìn được nét chữ của chị. 
Nét chữ nghiêng nghiêng như sắp đổ, như cái eo của chị. Trong thư chị 
cho biết chị đi lấy chồng, không phải anh Đạt. Chị viết: “Con xin lỗi 
không gửi thiệp mời cô đi dự đám cưới. Con chẳng còn muốn gặp ai. Mẹ con
 đã sắp xếp mọi điều, mà dù không như thế, thì Đạt cũng có vợ rồi, đâu 
thể lấy con. Con thăm hai em”. 
Chị vẫn còn nhớ đến tôi. Tôi thấy cay cay ở mắt. Thấy thương chị không biết để đâu. 
Năm đó tôi vừa tròn mười lăm tuổi.
Và thêm mười lăm năm nữa trôi qua.
Bây
 giờ tôi là người đàn ông ba mươi. Tôi còn độc thân, sống ở Mỹ. Tôi 
không hình dung được cậu bé thất tình ngày xưa, nhưng bóng dáng của chị 
Yến đôi lúc vẫn thoáng hiện lên trong trí nhớ tôi. Thỉnh thoảng tôi cũng
 bắt gặp cái dáng dấp ấy ở một vài cô gái, và cũng đã từng cặp kè với 
họ, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy có cái gì thiếu sót nơi những nhan sắc 
ấy, không toàn vẹn như vẻ đẹp của chị Yến. Tôi không biết thêm một tin 
tức gì của chị, không biết giờ này chị lưu lạc ở đâu, còn đi mua bột, 
mua kem nặn mấy cái bánh Pháp hay không. Có bao giờ chị còn đứng đối 
diện với một bức tường, khóc lặng lẽ như buổi chiều hôm ấy. Và mái tóc 
của chị? Nghĩ đến đấy, tôi mong gặp lại chị biết bao! Tôi bỗng nhớ chiếc
 kẹp ba lá xinh xinh ngày nào.
Một lần, đi dự đám cưới một người 
bạn, tôi gặp lại người đàn ông tên Đạt, giờ là một người đàn ông béo 
phị. Cái dáng công tử con nhà giàu đã mất dạng, nhưng cái nét đáng ghét 
lì lợm nơi hắn vẫn nguyên vẹn không suy suyển. Tôi bần thần, không biết 
có nên đến hỏi tin tức của chị Yến không. Một người đàn bà trang điểm 
diêm dúa ngồi cạnh hắn, chắc là vợ. Tôi thầm mừng cho Yến đã không phải 
lấy hắn. Con em gái tôi cũng đã nhận ra, kéo tay tôi liên tục. Nó nôn 
nóng muốn biết tin của chị Yến cũng không kém gì tôi. Em gái tôi lớn lên
 cũng là một thiếu nữ rất xinh đẹp, và tóc nó cũng để dài như Yến. Dạo 
ấy em tôi đánh hơi được lòng tôi, có một lần nó dùng một chiếc kẹp từa 
tựa chiếc kẹp ba lá, kẹp mái tóc lại và đung đưa, rồi nhìn sang tôi nheo
 mắt cười. Nó đã đứng dậy, đi đến chào người đàn ông kia. Tôi nín thở 
quan sát. Hắn ta không nhận ra em tôi. Cũng phải thôi, ngày xưa em tôi 
bé tí. Người đàn bà bên cạnh hắn mặt hầm hầm nhìn em tôi, em tôi cười 
giả lả, trở lại bàn ngồi cạnh tôi. Nó làu bàu: "Ghen quá, em không dám 
hỏi chuyện đâu. Tí nữa anh đến hỏi nghe!"
Tôi không đến hỏi. Tôi 
cũng chẳng muốn hỏi lại làm gì. Sau này mẹ tôi kể lại bà vợ đến nhà của 
Yến đánh ghen, và kết quả là chính mẹ của chị đánh chị đến đổ máu và cắt
 đi mái tóc dài xinh đẹp ấy. Tôi chỉ biết thêm có chừng ấy về chị. Mỗi 
lần nhìn một mái tóc dài bay trong gió, tôi lại nhớ đến Yến, đến thời 
thơ ấu, đến một cánh diều bay lên...Tôi không thích nhớ đến mái tóc nằm 
dưới sàn gạch nhà tôi, nó làm lòng tôi thắt lại. 
Vào một buổi chiều sau hai ba hôm tôi gặp người đàn ông tên Đạt ấy, em gái tôi chạy ào đến tôi, giọng gấp gáp: 
“Em biết tin của chị Yến rồi!”
Và nó tiếp luôn: “Chết. Chết rồi. Sau đám cưới không bao lâu”.
Tôi
 nuốt nước miếng, lại cái cảm giác đắng nghét ở cổ họng. Chị Yến đi lấy 
chồng, và ở lì trong nhà, không bao giờ lên tiếng nữa. Chị cứ lặng lẽ 
như thế, như một chiếc bóng, không nói không cười. Ông chồng bất lực 
trước người vợ câm như hến, ngày càng chìm sâu vào rượu, và cuối cùng 
đánh chết vợ rồi vào tù ngồi. Chị Yến chết với cái thai trong bụng. Ông 
chồng vào tù như một người điên loạn, chửi bới cái thai trong bụng chị 
không tiếc lời, song chính ông ta cũng không biết rõ cái thai là của ông
 ta hay người đàn ông tên Đạt. Chắc là chẳng ai biết cả, bí mật đã theo 
chị xuống mồ.
Buổi chiều phủ xuống rất nhanh. Tôi mở cửa, không 
khí lạnh lẽo của mùa đông tràn vào. Tuyết phủ trắng bãi cỏ trước sân 
nhà. Tôi nhớ đến buổi chiều năm xưa khi Yến khóc lặng lẽ ở cửa sau nhà 
tôi, cái buổi chiều đánh dấu cho sự thay đổi lớn của tuổi thơ tôi, bất 
giác tôi nhận thấy mình đang đứng bất động, giống như Yến ngày nào. Nỗi 
buồn hay lây. Em gái tôi đến bên cạnh, cầm tay tôi nói khẽ: “Vào nhà 
thôi”. Tôi giật thót mình. Bộ Yến ở đâu đây? Tôi nghe một tiếng kêu nhỏ 
từ lồng ngực mình, nghẹn lại ngay cổ. Suýt tí nữa tôi gọi tên Yến. Phải 
chăng cái mùi hương tuyệt vọng từ buổi chiều hôm ấy đã theo tôi suốt 
mười lăm năm nay, khiến tôi luôn nhìn thấy một điều gì bất ổn ở cuộc 
sống này, khiến tôi vẫn không tìm được một chỗ êm ả cho tâm hồn mình.
Tôi vào nhà, thắp một nén hương cho chị Yến, tình đầu của tôi.
Lê Sông Văn - 1990
Hay ! Nhưng kết cuộc lại buồn quá !
ReplyDelete