Nông dân gánh lúa (Nguồn: internet)
Quê Hương Việt Nam qua lời kể của Mẹ. Ký ức
vụn vặt của hơn 40 năm. Chuyển gởi quê hương Việt Nam cho Việt Khôi, Việt Khải,
Việt Khuê, các cháu trong tương lai của Mẹ Diệp cũng như con cháu trong gia đình
ở Việt Nam.
Các con, các cháu thương!
Thỉnh thoảng đi ăn nhà hàng Việt Nam ở Mỹ nói
riêng hay tại hải ngoại nói chung, chúng ta bắt gặp những nhà hàng hay trưng
bày quang gánh. Hội chợ Tết của những cộng đồng người Việt tại hải ngoại cũng vậy.
Cứ mỗi lần nhìn thấy là mỗi lần nó gợi lên cho Mẹ không biết bao nhiêu là kỷ niệm
và niềm cảm xúc. Hôm nay, Mẹ sẽ kể về quang gánh cho các con, các cháu nghe.
Quang gánh là hình ảnh gợi bao nhiêu thương
nhớ của tuổi thơ ở miền quê. Nó gắn liền với không chỉ tuổi thơ của tôi mà còn
của rất nhiều người Việt Nam. Nó gánh gồng bao lo toan, nhọc nhằn. Nó trang trải
cho cả gia đình, chạy miếng ăn cho bao cuộc đời với số phận trôi nổi. Nó gắn liền
với buôn gánh bán bưng, đi đôi với nỗi truân chuyên, gian khổ, nghèo khó, trải
dài qua hàng thế hệ của bao người Việt Nam mà nhứt là sự tảo tần, một sương hai
nắng của người phụ nữ Việt Nam.
Quang gánh đầy đủ gồm có một đòn gánh, hai
cái thúng mắc trong một cặp gióng. Đơn sơ đến thế nhưng sao nó gợi lại biết bao
nhiêu là kỷ niệm và hình ảnh của bao người thân thương!
Thật xa xưa, hơn 70 năm, qua lời kể của Mẹ và
Dì tôi là hình ảnh của Bà Cố (bà Nội của Mẹ tôi) gánh Mẹ và Dì Tư, từ Long Trì
về Cầu Đình (sanh quán của Cố) ăn giỗ. Cố đi trên một tấm ván hẹp, hai cái
thúng treo lủng lẳng ở hai đầu, dưới kia là sông sâu thăm thẳm. Mẹ và Dì sợ điếng
hồn luôn nhưng đâu có nói Cố! Tới giờ Mẹ vẫn còn bị ám ảnh.
48 năm về trước là hình ảnh Bà Ngoại tôi rước
Mẹ và em bé sơ sanh tôi từ nhà thương Tầm Vu về Long Trì. Tôi nằm một đầu gánh,
đầu kia là đồ đạc. Bà Ngoại bước nhanh thoăn thoắt, đi như chạy, băng ngang qua
những rặng thanh long nặng trĩu trái xanh xanh, đo đỏ, bông trăng trắng làm Bà Nội
tôi ráng chạy theo sau nhưng vẫn theo không kịp bà Ngoại.
Cũng là hình ảnh Dì Hai tôi những ngày sa cơ
thất thế, về Ngoại ở rồi gánh tàu hủ non đem bán dạo tận trong đồng sâu của xã
Long Trì. Mẹ kể Dì Hai học rất giỏi, giỏi nhứt nhà, phải nói là xuất sắc, cuối
năm lớp đệ tam, dì tôi lãnh phần thưởng danh dự toàn trường Trung Học Tân An… sau
khi đậu tú tài, Dì vào sư phạm và trở thành cô giáo nhưng cuộc sống của Dì cứ
luôn lao đao, lận đận cho tới cuối đời.
Hình ảnh đôi quang gánh đó cũng theo tôi về tận
quê Nội, Phước Tân Hưng. Xóm bánh, chợ Thâm Nhiên có thím Sáu Giáp, cô Ba Loan,
bác Sáu Đê, mỗi sáng sớm tinh sương dậy lục đục làm bánh bò, nào là da lợn, xôi
bắp, bánh ít trần, đủ các loại bánh. Xong, họ gánh xuống chợ Ngã Tư trong phiên
chợ sáng, bán cho bà con ăn điểm tâm. Bà Nội tôi cũng bán bánh như họ. Cứ mỗi xế
trưa là nhà nhà xay bột để chuẩn bị cho ngày hôm sau. Tiếng nghèn nghẹt, đùng đục,
đều đều của cối xay bột bằng đá có thể ru người ta vào giấc ngủ êm đềm.
Xong, con nít cả xóm xúm lại, phụ se bánh
sùng hoặc đổ bánh bèo. Tôi thường lân la qua nhà thím Sáu Giáp hay cô Ba Loan,
cùng với mấy chị em Lành, Mi con cô Ba hay chị Dung, Hiền, Chi con thím Sáu. Mấy
đứa con nít tụi tôi khoái se bánh sùng lắm vì nó như con trùn ngúc ngoắc, ngúc ngoắc.
Thím Sáu bắt bột sẵn, bọn tôi lấy mỗi đứa một cái thớt me, ngắt ít bột, lấy
chút bột áo, se se, nặn nặn. Lúc cao hứng, tôi nặn thành con vịt, con gà (tôi vẫn
còn nhớ cách nặn ấy chớ). Vui lắm đa! Mỗi bữa, cỡ 3, 4 giờ khuya,
Ba Mẹ và Út tôi dậy phụ Nội làm bánh xong, Ba gánh phụ Nội lên chợ Thâm Nhiên
bán mỗi buổi sáng vì nó gần hơn chợ Ngã Tư.
Một ngày kia, có ông Ba Xe (con ông Sáu B.)
là một nguời bị tâm thần nặng, mới sáng sớm tinh sương đã uống rượu say
mèm. Ông ta lấy một chai rượu không đập vào đầu Nội tôi khiến Bà đổ máu, phải
đi nhà thương may mấy mũi. Ông này gắn liền với tuổi thơ tôi vì cả làng trên
xóm dưới ai cũng chạy dài! Ông hay chắp tay sau đít, đi từ làng trên xuống xóm
dưới, vừa đi vừa lầm bầm, ca hát nghêu ngao. Chả ai hiểu ổng hát cái gì hay nói
cái gì cả! Người thì cao to, đen thui, đen thủi như cục than, cặp mắt đỏ
ngầu và lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu; quần áo thì lôi thôi, bê bết, nút áo
gài so le, với chiếc quần tà lỏn dài không ra dài, ngắn không ra ngắn. Mỗi khi
ông ta xuống gần xóm bánh là nhà ai có cửa rào thì lo mà đóng cho thật chặt.
Tôi cùng Chị Oanh, chị Trang nhà cô ba Nết và bà Cô lo đóng cửa cho lẹ, vì đã
nhiều lần đóng không kịp bị ổng vô quậy phá khiếp hồn!
Kia là hình ảnh Cô Ba Mành hay chị Phúc đi chợ
Ngã Tư ngang nhà. Họ mua đồ từ chợ Ngã Tư về bán lẻ tại tiệm chạp phô và đồ ăn
sáng trên xóm chợ. Nội hay sai tôi lên mua đồ hàng bông, dăm ba bó hành, vài củ
tỏi, mấy trái ớt sừng trâu trong tiệm nhà họ…
Chừng 10, 11 giờ sáng thì những gánh bánh nặng
trĩu của Nội, thím Sáu, bác Sáu và cô Ba trở về từ hai hướng với gánh không hoặc
với một ít đồ hàng bông để nấu ăn và chuẩn bị làm bánh cho ngày hôm sau.
Cối xay bột (chụp ở Tu viện Phước Đức (Houston) Tết Ất Tỵ 2025
Xế trưa, có bà Phục An gánh thịt heo ghé mời
Nội tôi mua “thím Bảy mua giùm tôi ít thịt nhe, nay thịt ngon lắm! Nè, thím
coi…” Bà Mười Ơn xóm chợ (lâu quá tôi không biết nhớ tên bà đúng không nữa) hay
gánh tàu hủ non và bánh lọt. Với một đứa trẻ quê, cơm ngày ba bữa như tôi thì
đó là món ăn vặt thường hay mơ ước.
Mùa cá linh, có những cô gái gánh cá đi đò từ
bên Đức Tân qua, rao ó: “Cá linhhhhhh honggggggg!” Bà con lo mà xách rổ
chạy theo mua vài ký cá linh nhảy, búng sơi sởi, béo ngậy, về nấu canh chua
bông so đũa hay lá me, kho hay chiên giòn ăn nước mắm, thả chút dưa leo cắt lát
thật mỏng ăn là hết sẩy! Nói như dân quê tôi từng nghe là ăn ngon “bá chấy bù
chét”!
Bà Tám Quăn ở trên cầu Eo Đéc cũng hay gánh đồ
xuống bán trước cổng trường tiểu học xã. Tôi nhớ nhứt món xôi đậu đen.
Thủa xa xưa, thời còn chinh chiến, bà con
gánh gánh gồng gồng chạy giặc. Một đầu là trẻ con, đầu kia có thể là nồi niêu
soong chảo, gạo. Bấy nhiêu đó cũng có thể là tất cả tài sản mà họ có!
Thế nó còn gánh được những gì nữa? Chỉ nội
cái đòn gánh làm từ cây tầm vông thôi có thể dùng để gánh rất nhiều thứ:
Xa xa là hình dáng của một người đàn ông tháo
vát, vạm vỡ, chánh hiệu một nông dân miệt vườn của Ông Ngoại tôi hay các cậu: cậu
Năm, cậu Tám, cậu Chín, cậu Mười, gánh lúa bằng đòn gánh tầm vông. Hai đầu là
hai bó lúa vàng nặng trĩu hạt đã được cắt sẵn, so lại cho ngay ngắn, cột ở giữa
và dây thòng để mắc vô đầu đòn gánh. Họ đi thật tài, len lỏi qua những bờ đê hẹp
tí teo. Vào mùa khô, có những thửa ruộng gặt rồi rơm được đốt, thơm phức mùi rạ,
thơm nức cả mũi. Khói lam chiều xám xịt cả một vùng trời. Ông Ngoại gánh lúa về
nhà cho trâu bò đạp tại sân trước nhà. Mỗi khi chúng ngừng lại, vảnh đuôi lên
là ông kêu tôi lấy cái ky, chạy lại hứng cho lẹ…
Tác giả và quang gánh tại hội chợ Tết, Hoa Kỳ, tháng 8 năm 2024. Photo credit: Luy Doan
Cũng là hình ảnh ông Ngoại hay các cậu gánh cỏ
về nhà cho trâu bò ăn. Trời mưa lâm râm, tôi với em Vững hay ngồi lan can trước
nhà Ngoại coi trâu bò nhai cỏ, nhai đi nhai lại, đuôi chúng quất quất bù mắt
trên người mà rầu thúi ruột tôi đây vì nhớ Mẹ và nhớ nhà (Nội).
Sau này, Trà Mi, con cô Ba Loan, nối nghiệp
cô Ba Loan bán bánh nhưng không còn gánh như xưa mà giao hoặc chở bánh bằng xe
Honda. Mi có một quầy hàng bánh ngay trước nhà. Mỗi lần tôi về thăm người thân
là bà con chòm xóm quý lắm. Họ vẫn luôn nể trọng Nội tôi, một quả phụ suốt đời
đảm đang, đức độ, tốt bụng, thương người, hay làm phước nhưng cuộc đời hình như
đối với Nội tôi không được tốt cho lắm.
Quang gánh còn là hình ảnh của những người tù
cải tạo gánh gỗ khi đi lao động trong khắp các trại tù tập trung, trải dài từ Bắc
chí Nam sau 30 tháng 4 năm 1975. Có những người đã vĩnh viễn nằm lại tại đất Bắc
giống như Dượng Tư tôi…
Quang gánh ngày nay được Honda hay những
phương tiện hiện đại hơn thay thế. Thỉnh thoảng, chúng ta vẫn bắt gặp những bà
cụ lưng còng, tóc bạc, gánh cuộc đời còn lại trên đôi vai xương xẩu và hốc hác
của mình. Vẫn còn đó những nhà gánh hàng rong, chạy cơm từng bữa…
Bất chợt, tôi ngậm ngùi nhớ những hình ảnh
xa khuất của bao người thân thuộc, chỉ còn tồn tại trong ký ức mà nghe đăng đắng,
nghèn nghẹn, đặc quánh trong cổ. Những giọt nước mắt bất chợt lăn dài trên má…
Nhớ những hình ảnh của bao người mà tôi đã vĩnh viễn mất từ lúc đi Mỹ.
Ôi, nhớ Việt Nam… Nhớ lắm! Nhớ lắm!
Ngọc Diệp
Anh Phước chuyển
No comments:
Post a Comment